Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nghệ thuật kể chuyện trong nước mỹ và vụ án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

----------

HÀ CÔNG THÁI

NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN
TRONG NƯỚC MỸ VÀ VỤ ÁN
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài
Mã số
: 60.22.02.45

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Anh Đào

HÀ NỘI, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Nghệ thuật kể chuyện trong Nước Mỹ và Vụ án”
và toàn bộ nội dung luận văn không phải là sự sao chép bất cứ một công trình
khoa học hay luận văn nào đã được công bố trong và ngoài nước.
Trong khuôn khổ luận văn, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về:
- Sự phù hợp giữa tên đề tài với nội dung nghiên cứu, với chuyên ngành
cũng như mã số đào tạo.
- Tính trung thực và đầy đủ của các trích dẫn tài liệu tham khảo.
- Độ tin cậy của các phương pháp nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn !


Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Hà Công Thái


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Đặng Anh Đào, người
Thầy đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thiện luận văn, và không chỉ trong quá trình nghiên cứu khoa học mà
còn cả trong cuộc sống.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Phòng Sau Đại học, các thầy, cô giáo trong
khoa Ngữ Văn và các thầy cô trong tổ Bộ môn Văn học nước ngoài - trường
Đại học Sư phạm Hà Nội đã giảng dạy và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình
học tập, nghiên cứu thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn
bè đã luôn động viên, quan tâm giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thiện luận
văn. Đặc biệt là bố mẹ tôi đã chịu nhiều vất vả để tôi có được ngày hôm nay.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Hà Công Thái


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 2
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu ................................................................. 19

4. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 19
5. Phương pháp và thao tác nghiên cứu .......................................................... 20
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 20
Chƣơng 1. Nghệ thuật kết cấu kiểu nhân vật ............................................. 21
1.1. Nhân vật tha hóa....................................................................................... 21
1.2. Nhân vật phi lý ......................................................................................... 28
1.3. Sự khác biệt giữa nhân vật trong Nước Mỹ và Vụ án .............................. 38
Tiểu kết ............................................................................................................ 41
Chƣơng 2. Lối kết cấu không gian và thời gian ......................................... 43
2.1. Không gian mê cung và tính chất huyền thoại......................................... 43
2.2. Từ tính chất phi thời gian, biểu tượng đến huyền thoại ........................... 54
1.3. Sự khác biệt về kết cấu không gian và thời gian giữa Nước Mỹ và Vụ án .. 59
Tiểu kết ............................................................................................................ 61
Chƣơng 3. Lối kết cấu cốt truyện ................................................................ 62
3.1. Kết cấu lắp ghép ....................................................................................... 62
3.2. Kết cấu khối - chuỗi ................................................................................. 71
3.3. Sự tương đồng và khác biệt về kết cấu cốt truyện trong Vụ án và Nước Mỹ. .. 85
Tiểu kết ............................................................................................................ 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 Tác phẩm của Kafka luôn đặt ra những vấn đề mới.
Franz Kafka (1883-1924) - một trong những nhà văn có tầm ảnh hưởng
lớn trên văn đàn thế giới thế kỷ XX, ông xuất hiện trong giai đoạn có những
biến động lớn về chính trị, văn học, xã hội trên địa cầu. Xuất thân trong gia
đình Do Thái tại thủ đô Prague, cộng hoà Czech ngày nay, Kafka đã sớm bộc
lộ tài năng xuất chúng về văn chương. Cùng với Marcel Proust (1871-1922),

James Joyce (1882-1941), Kafka được coi là một trong những người mở đầu
trong việc đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết. Trong cách biểu hiện mới mẻ về
xây dựng hệ thống nhân vật, cốt truyện, cách tổ chức không gian, thời gian,
ngôn từ .v.v. của tiểu thuyết hiện đại có phần đóng góp không nhỏ của ông. Thêm
vào đó những đổi mới độc đáo trong phong cách diễn văn đã đưa Kafka sớm
vươn ra tầm thế giới khiến ông không chỉ là nhà văn của người Do thái viết tiếng
Đức hay cộng hòa Czech nữa.
Sự nghiệp sáng tác của Kafka không đồ sộ như các nhà văn khác và lúc
sinh thời các tác phẩm của ông được in rất ít, chỉ sau khi ông mất đi các tác
phẩm mới được công bố một cách rộng rãi nhờ người bạn thân của ông là
Max Brod. Vậy nhưng chỉ với một số tiểu thuyết và truyện ngắn của mình
Kafka đã tạo nên sự riêng biệt của mình trên văn đàn, Nguyễn Văn Dân trong
công trình Văn học phi lý đã khẳng định “Với ba cuốn tiểu thuyết Châu Mĩ
(Nước Mỹ), Vụ án, Lâu đài cùng với một số truyện ngắn, Kafka đã làm một
cuộc cách tân to lớn trong nghệ thuật văn xuôi. Ông trở thành một trong
những trụ cột vững chãi làm cơ sở cho nền văn học phương tây hiện đại phát
triển và hơn thế nữa, nhiều nhà văn trên thế giới cho đến nay vẫn còn lấy
Kafka làm hình mẫu sáng tác, trong đó có các nhà văn Việt Nam” [9;30].

1


Sau khi Kafka mất, các nhà nghiên cứu, phê bình đã tốn không ít giấy
mực để viết về ông. Sáng tác của Kafka luôn phong phú và dồi dào với nhiều
tầng nghĩa trong mỗi tác phẩm. Bởi vậy tác phẩm của Kafka nói chung và tiểu
thuyết của ông nói riêng đã mang đến cho văn đàn thế giới nhiều cuộc tranh
luận sôi nổi và đã gây hứng thú cho các nhà nghiên cứu và độc giả trong suốt
một thời gian dài cho tới nay vẫn chưa kết thúc. Trong các tác phẩm của
Kafka người ta luôn tìm thấy sự độc đáo, biểu hiện của nhiều trường phái,
nhiều chủ nghĩa khác nhau nhưng lại không thể xếp ông vào trường phái nào.

Đây là một lý do để chúng tôi quan tâm tới tác phẩm của Kafka.
 Dựa vào hai tác phẩm Nước Mỹ và Vụ án ta có thể so sánh, phát
hiện đƣợc những nét khác biệt truyền thống và đổi mới ngay trong tác
phẩm của cùng một tác giả.
Bàn về hai tác phẩm Nước Mỹ và Vụ án, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào đã
nhận định “Dù có những nét chung, Nước Mỹ vẫn gây một ấn tượng khác.
Những nét độc đáo khác lạ, với Vụ án dường như đã có một sự phát triển
đậm nét hơn, bởi Nước Mỹ vẫn gắn bó nhiều với tiểu thuyết truyền thống do
tính chất có cốt truyện, do màu sắc lịch sử - cụ thể của nhân vật còn phảng phất,
cũng như khuynh hướng phê phán xã hội của nó” [39;657].
Từ cơ sở trên đây chúng tôi cho r ng việc tách riêng hai tác phẩm Nước Mỹ và
Vụ án để nghiên cứu về nghệ thuật kể chuyện là một sự lựa chọn cần thiết, có ý
nghĩa về cả về lí luận và thực tiễn, góp phần đóng góp thêm vào vấn đề mà
giới nghiên cứu đã xới lên khi bàn về các tác phẩm của Kafka, đặc biệt là
Nước Mỹ.
2. Lịch sử vấn đề


Những nhận định về vai trò, vị thế của Kafka trong văn đàn

thế giới hiện đại
Khi còn sống tên tuổi của ông ít được biết đến và số lượng tác phẩm
có hạn, chỉ có một số tác phẩm được in, trong đó chủ yếu là truyện ngắn:

2


Chiêm ngưỡng (1913), Lời phán quyết và Người đốt lò, Biến dạng (1915)
(trong Franz Kafka tuyển tập tác phẩm, tác phẩm được dịch là Hóa thân),
Trại cải tạo và Một thầy thuốc nông thôn (1919), Vô địch nhịn ăn (1924).

Sau khi ông mất các tác phẩm quan trọng mới được in, trong đó chủ yếu là
truyện ngắn: Chiêm ngưỡng (1913), Lời phán quyết và Người đốt lò (chính
là chương một của Nước Mỹ) (1913), Biến dạng (1915), Trại cải tạo và
Một thầy thuốc nông thôn, Vụ án (1925), Lâu đài (1926), Nước Mỹ (1927)…
Người có công lớn để độc giả thế giới được tiếp cận những tác phẩm của
Kafka, chính là bạn thân của Kafka: nhà văn Max Brod. Max Brod đã nhìn
thấy những điểm mới lạ trong tư tưởng cũng như nghệ thuật của Kafka nên
ông không làm theo di nguyện cuối đời của Kafka là đốt hết các tác phẩm của
mình mà lại công bố chúng. Cũng sau khi Kafka mất mới bắt đầu xuất hiện
hàng loạt các công trình nghiên cứu, các bài phê bình đánh giá, bày tỏ những
quan điểm về phong cách nghệ thuật, sự nghiệp sáng tác của ông - những tác
phẩm đồ sộ và chứa đựng nhiều lớp nghĩa ẩn sau mỗi câu chữ.
Năm 1924, báo Quyền lợi đỏ của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã viết: “Một
nhà văn viết tiếng Đức đã từ giã chúng ta, một trí tuệ tinh tế và trong sạch, từng
ghê tởm cái thế giới này và mổ xẻ nó b ng con dao không xót thương của lẽ
phải. Kafka thâm nhập vào cơ chế xã hội, ông thấy nỗi đau của kẻ này, quyền
lực và giàu sang của kẻ khác. Trong những bài viết của mình, ông tấn công
vào kẻ mạnh của thế giới này b ng phương tiện trào phúng và b ng một hình
thức chứa chất đầy hình ảnh” (dẫn theo Đặng Anh Đào) [39;645]. Khẳng
định về vai trò quan trọng của ông, Julian Preece trong bài giới thiệu cuốn
Sách chỉ nam Cambridge về Kafka (The Cambridge companion to Kafka),
mang tên Châu Âu của Kafka (Kafka’s Europe), đã viết: “Kể từ khi ông mất,
ông đã được khẳng định là một trong những tác giả quan trọng nhất của người
Do Thái đương thời, như người viết văn xuôi hiện đại lớn nhất trong ngôn
ngữ Đức, và ít nhất là sau 1945 - như là một biểu tượng của cả hai nền văn

3


học Đức và Áo” (Dẫn theo Nguyễn Thị Thắng) [44;3]. Còn Daniel L. Medin

thì nói một cách hình ảnh r ng hư cấu của ông được lan truyền “như cháy
rừng trên khắp các lục địa châu Âu và Mỹ”, tiểu thuyết của ông “đã trở thành
đối tượng của niềm đam mê nổi bật nhất trong tâm trí thời đại” [44;3].
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Kafka được “phát hiện lại” (Đỗ Đức Hiểu)
[8;82] ở phương Tây. Roberto Assagioli cho r ng “Văn nghiệp của Kafka
được coi là tấm gương so sánh, bản lai diện mục, phương pháp trị liệu tâm
thần xóa bớt khổ đau, những vết thương mưng mủ, còn đọng lại trong tâm
thức con người” [7;12]. Tên tuổi của Kafka được đặt cạnh Fyodor Dostoievski,
James Joyce, William Faulkner, những tác giả lớn viết về con người trong
thế giới hiện đại. Có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau về tư tưởng và tác
phẩm của ông.
Đến cuối những năm 60 các công trình nghiên cứu về Kafka nở rộ,
theo kết quả thống kê cũ của Đỗ Đức Hiểu trong Phê phán văn học hiện sinh
chủ nghĩa thì đến năm 1961 đã có trên 5000 bài báo, tiểu luận, sách nói về
Kafka, 26 tác phẩm lớn, 214 tiểu luận, 10 luận án Tiến sĩ [7;84]. Đến nay con số
ấy vẫn đang tăng lên không ngừng, chỉ cần gõ từ khóa Kafka trên mạng internet
máy tính sẽ cho hơn 600.000 kết quả chỉ riêng b ng Tiếng Anh.
Những cách tiếp cận và phát hiện về sự đổi mới trong tác phẩm Kafka
ở nƣớc ngoài
Nhiều trường phái nhận Kafka thuộc về trường phái của mình, có nhà
Tiểu thuyết mới cho r ng: “....cùng với M.Proust, Jame Joyces, Kafka là
người đã khai tử cho tiểu thuyết bô lão kiểu Balzac...và mở đầu cho một thời
đại mới của tiểu thuyết, với Kafka bắt đầu thời đại của tiểu thuyết lạnh”
[7;85,86]. Các nhà nghiên cứu phê bình cũng đã chứng minh r ng những
sáng tác của Kafka luôn chứa đựng những sự sáng tạo, đổi mới trong nghệ
thuật kể chuyện nói riêng và nghệ thuật tiểu thuyết nói chung. Ông đưa vào
trong tác phẩm của mình những cách xây dựng nhân vật, không gian, thời

4



gian khác lạ. Cùng với đó là tính phi lý, huyền thoại, sự tha hóa, cô đơn, sợ hãi
của con người trong thời đại mới. E.M.Meletinsky trong chuyên khảo Thi
pháp của huyền thoại đã giành riêng một phần bàn về tính chất huyền thoại
của Kafka. Đó là: một huyền thoại lộn ngược, một thứ phản huyền thoại
[19;485]. Nhà nghiên cứu phân tích, so sánh và cho thấy Kafka đã xây dựng
huyền thoại về “tha hóa xã hội”. Các nhân vật trong tác phẩm của Kafka không
chỉ là hình tượng thể hiện sự cô đơn của các cá nhân theo chủ nghĩa hiện sinh
mà còn là đặc tính của các quan hệ tha hóa giữa nó với gia đình, giữa nó với
xã hội [19;483]. Còn tình huống trong tác phẩm của Kafka thì được đánh giá là
khó hiểu với những chi tiết kì quái. Anthony Thorlby trong bài viết Thuật kể
chuyện của Kafka: Tình huống của hình thức (Kafka’s Narrative: A Matter
of Form) đã nhận định “Khi nói đến tình huống kiểu Kafka, chúng ta muốn
nói r ng chúng ta thấy hoạt động ẩn dụ này đang diễn ra - nhưng không hiểu
những kết nối là gì. Đối với các nhân vật phụ trong “Vụ án” và “Lâu đài”,
tình huống đó là hiển nhiên và bình thường; nhưng đối với nhân vật chính và
đặc biệt là đối với độc giả của Kafka, thì không phải là như thế. Anh ấy nhìn
thấy - và chúng ta thậm chí thấy nhiều hơn - một khối lượng của những chi
tiết kì quái kết hợp với nhau theo cách không thể giải thích được; ngoại trừ
một người hùng tử tế, và chúng ta thậm chí còn là độc giả anh hùng hơn,
không ai trong chúng ta bỏ cuộc. Và không ai trong chúng ta thành công, dù
chúng ta có quyết tâm như thế nào, trong việc hiểu tình huống này” [51;25].
Suxkôp phân tích và khẳng định, “Kafka đã đem lại cho nghệ thuật của
thế kỷ XX nói chung cái gì? Tính chất cực kỳ gay gắt của cảm giác về bi kịch
của cuộc sống trong xã hội tư sản, sự bấp bênh của nó, sự thù địch của nó đối
với con người” (Dẫn theo Đặng Thị Hạnh) [12;47]. Cũng nói về tinh thần
Do Thái của Kafka, Sander L. Gilman đánh giá Kafka là một người đàn ông
Do Thái điển hình “B ng nhiều cách, Franz Kafka là một người đàn ông Do Thái
điển hình ở Trung Âu trong giai đoạn chuyển giao hai thế kỉ - mọi thứ, ngoại


5


trừ khả năng kỳ diệu của ông để nắm bắt trên giấy cảm giác xa lạ mà ông cảm
nhận” [60;7]. “Tuy nhiên điều này cũng chưa đủ, khả năng của ông để thể hiện
những gì ông cảm nhận về bản sắc Do Thái phức tạp của mình, dưới một hình
thức có thể truy cập từ mọi hướng, làm cho ông trở thành một tác giả hầu như
nắm bắt được cảm giác xa lạ, dưới mọi hình thức của nó, ám ảnh cả thế kỷ hai
mươi” [60;7]. Còn Erich Auerbach thì cho r ng “Thú vui được kết hợp với sự
lo lắng và nỗi kinh khiếp, thêm vào đó quả thực một phần lớn sự phù phiếm.
Rõ ràng là như vậy trong toàn bộ dòng chảy của tiểu thuyết: nó đầy thú vui, lo
lắng và phù phiếm. Nếu ấn tượng phù phiếm toát ra từ tổng thể không mạnh
đến thế, ít nhất là với ng đọc ngày nay, thì người ta có thể phải thử nghĩ tới
những nhà văn hiện đại như Kafka mà thế giới kinh khủng và nhăn nhó của
ông gợi lại sự nhất quán của cơn điên dại” [20;107].
Nhà lí luận, nghiên cứu văn học R.Garaudy dành nhiều trang phân tích
phương pháp sáng tác huyền thoại Kafka trong hai công trình Về một chủ nghĩa
hiện thực không bờ bến và Vì một chủ nghĩa hiện thực của thế kỷ XX ca ngợi
Kafka trong việc sáng tạo ra một hiện thực mới - “Hiện thực có tầm
Prometheus”. Những hình tượng của Kafka được Garaudy nâng lên thành những
mô hình, những huyền thoại đi trước thời đại, “Kafka đã xây dựng được một thế
giới riêng với những chất liệu lấy từ thế giới của sự tha hóa và Kafka sáng tạo ra
một thế giới quái dị với những chất liệu của thế giới này được tổ chức theo
những quy luật khác” (Dẫn theo Hoàng Trinh) [45;99]. Với Kafka thì “sứ mệnh
của tác phẩm nghệ thuật không phải là tái hiện thế giới mà là biểu hiện
những hoài bão của con người... tác phẩm của ông thể hiện thái độ của
ông đối với thế giới. Nó không phải là một bản sao chép của thế giới,
cũng không phải là cái gì đó không tưởng. Nó không có ý định giải thích
hoặc biến đổi thế giới. Nó gợi ra sự chưa toàn vẹn của thế giới và kêu gọi sự
vượt qua” [45;287]. Những ý kiến của Garaudy đã chỉ ra tính huyền thoại mà


6


nhiều nhà nghiên cứu phương Tây đã tìm thấy trong các sáng tác của Kafka.
Trong công trình Kafka dưới ánh sáng của hiện thực, tác giả Suxkôp cũng
khẳng định: “Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm cho sáng tác
của Kafka không chết theo ông, không phải chỉ ở sức mạnh gây ấn tượng rất
lớn của các ảo ảnh của ông, mà còn ở tính chất chân thành của sự cảm thụ thế
giới, có tính bi đát là đặc tính riêng của tất cả các tác phẩm Kafka, không trừ
một tác phẩm nào” (Dẫn theo Đặng Thị Hạnh) [12;45]. Cũng bởi khả năng
khái quát và phơi bày hiện thực từ số phận, cuộc đời các nhân vật trong tác
phẩm, mà những sáng tác của Kafka dù đậm đặc yếu tố huyền thoại vẫn thật
gần gũi với đời thường. Vậy nên, nhân vật của Kafka còn được nghiên cứu ở
khía cạnh là phương tiện chuyển tải hiện thực xã hội: James Rolleston tán
dương nhân vật ngụ ngôn (parabolic character) trong tác phẩm Kafka, kể cả
trong những tiểu thuyết của ông “vì khả năng chuyển tải sự thật - yêu sách
của chủ nghĩa hiện thực và văn xuôi hư cấu đại chúng - trong khi cùng lúc đó
bản thân chúng bao hàm cả việc bình luận xã hội” [54;10].
Khi tiếp cận theo hướng phê bình xã hội học và chính trị trong sáng tác
của Kafka, các nhà nghiên cứu cũng chú ý chỉ ra tác động của xã hội, hiện thực
thời đại đối với bản chất, nhân cách con người trong tác phẩm của ông.
Garaudy trong tác phẩm Về một chủ nghĩa hiện thực vô bờ bến xuất bản vào
năm 1963, cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và gây nên nhiều cuộc
tranh luận sôi nổi. Trong cuốn sách này, Garaudy đã đề cập đến ba tác giả ở ba
lĩnh vực nghệ thuật khác nhau: họa sỹ thiên tài P. Picasso; nhà thơ, nhà ngoại
giao St. J. Perse và đặc biệt chú ý đến “nhà tiểu thuyết Kafka, một nhân vật
phức tạp, „khó hiểu‟ bậc nhất trong lịch sử văn học thế giới hiện đại” [42;282].
Ông cho r ng “Kafka không phải là người cách mạng. Đó là người đánh thức.
Tác phẩm của ông thể hiện thái độ của ông đối với thế giới. Nó không phải là

một bản sao chép của thế giới, cũng không phải là cái gì đó không tưởng. Nó

7


không có ý định giải thích hoặc biến đổi thế giới. Nó gợi ra sự chưa toàn vẹn
của thế giới và kêu gọi sự vượt qua” [42;287].
Phân tích tác phẩm và các nhân vật tiểu thuyết của Kafka, đặc biệt là hai
nhân vật Jôzep K. trong Vụ án và K. trong Lâu đài, nhà phê bình này đã chỉ ra bi
kịch của “con người bị chìm ngập trong sự vô nhân tính”. “Trong cái xã hội
nhạt nhẽo và phân hóa theo đẳng cấp ấy con người bị tước bỏ bản sắc cá nhân,
trở thành một đồ vật, một đồ vật vô danh và dị thường đến tội nghiệp”
[42;286]. Ông cho r ng “…kể từ lời phán xét, năm 1912 trở đi, Kafka thôi
không chỉ thể hiện những gì diễn ra trong bản thân ông để xây dựng những tác
phẩm thực sự, nghĩa là những huyền thoại…”; cái vĩ đại của Kafka là “đã biết
sáng tạo ra một thế giới huyền thoại đồng nhất với thế giới hiện thực, cái hiện
thực trong nghệ thuật chỉ là một sáng tạo làm thay đổi dạng thực tế hàng ngày
b ng sự hiện diện của con người. Thế giới ấy có thể xem như kiểu „mô hình mà
các nhà bác học xây dựng để trình bày các hiện tượng‟ ”… [42,10]. Mặc dù
vẫn còn tranh cãi trong quan điểm về chủ nghĩa hiện thực mà Garaudy đưa ra,
nhưng rõ ràng ông đã có những nhận định sắc sảo về thế giới con người thông
qua các nhân vật được Kafka xây dựng trong tác phẩm của mình.
Cũng nhấn mạnh về sự độc đáo trong các tác phẩm của Kafka, trong bài
viết Về sáng tác của Franz Kafka, A.Karelski đã khẳng định “Cuộc cách mạng
thầm lặng của Kafka, trước hết ở chỗ trong khi vẫn giữ được toàn bộ cấu trúc
truyền thống của giao tiếp ngôn ngữ, tính mạch lạc và logic cú pháp - ngữ pháp,
tính mạch lạc của hình thức ngôn ngữ của nó, ông đã đưa vào hệ thống đó
tính phi logic, tính rời rạc, tính phi lý quá quắt đầy phấn khích của nhân dân”
và “kĩ xảo nghệ thuật của Kafka là ở chỗ cái gì của ông cũng đều trái ngược.
Ở đây sự phi logic và sự phi lý bắt đầu khi con người tỉnh giấc” [1;196].

Một trong những cây bút xuất chúng của tiểu thuyết mới và cũng là nhà
lí luận văn học Alain Robble Grillet trong cuốn tiểu luận Vì một tiểu thuyết

8


mới đã phát hiện ra “những câu chuyện của Kafka chỉ là những phúng dụ”
[2;206]. Ông cũng nhận thấy tính chất tương phản giữa thủ pháp “miêu tả hiện
thực tuyệt đối của các sinh vật của Kafka với hiệu ứng tâm lý mà thủ pháp đó tạo
nên bởi hiệu quả ảo giác xuất phát từ sự rõ ràng tuyệt vời của chúng chứ không
phải là sự trôi nổi hay sương mù...không có gì hư ảo hơn sự chính xác [2;206].
Milan Kundera - nhà lí luận tiểu thuyết đặc sắc, một trong những nhà
nghiên cứu rất tâm đắc với các sáng tác của Kafka đã đưa ra những nhận định
về quyền lực trong sáng tác của Kafka, ông cho r ng quyền lực trong sáng tác
của Kafka là “Quyền lực trần trụi”, “Kafka và Hasek đối mặt với chúng ta với
một nghịch lý mênh mông: trong thời hiện đại, lý tính Descartes chủ nghĩa lần
lượt gặm mòn hết tất cả các giá trị được thừa kế từ thời Trung Cổ. Nhưng đến
thời điểm toàn thắng của lý trí, thì cái phi lý thuần túy (quyền lực chỉ còn
muốn cái nó muốn) lại xâm chiếm cả thế giới, bởi không còn một hệ thống
giá trị được chấp nhận nào có thể ngăn trở nó nữa” [34;18]. Kundera cũng đã
chỉ ra tính nước đôi trong các nhân vật kiểu Kafka. Kundera cho r ng Kafka
chính là người đánh thức trí tưởng tượng, vốn là ngọn nguồn của mọi loại
hình nghệ thuật “Sự tưởng tượng bị ngủ quên trong thế kỷ XIX đã được
Kafka thình lình đánh thức dậy và ông đã thành công trong cái việc mà những
nhà siêu thực sau ông đã cố sức nhưng không thực sự làm được: trộn lẫn cái mơ
và cái thật” [34;23].
Nhà văn Áo E.Fischer trong bài viết trình bày tại hội nghị kỷ niệm
120 năm ngày sinh Kafka đã nhận định Kafka là “nhà văn nổi loạn” và “Cho
dù người ta thừa nhận Kafka là nhà văn hiện thực hay người ta hiểu sai ông,
cho ông là thần bí thì Kafka vẫn là một nhà văn lớn và quan trọng của thế kỷ

XX” [18;182]. Ông đánh giá về phương pháp sáng tác của Kafka là “sự châm
biếm kì quặc, sự bóp méo các sự việc làm cho trở nên vô lí một cách có ý
thức. Người đọc qua sự vô lý quá đáng mà nhận ra cái thế giới anh ta đang

9


sống, cái thế giới méo mó không thể chấp nhận được [17;185]... “một nhà văn
đã mô tả sự tha hóa, đồ vật hóa và phi nhân hóa của thế giới tư bản một cách
cặn kẽ hơn và mang tính cảnh báo hơn người khác” [18;189]. Phân tích các
nhân vật của Kafka, nhà nghiên cứu đã chỉ ra bi kịch của con người trong
xã hội tư bản bành trướng quyền lực: “Nhân vật của Kafka là người luôn luôn
là nó, giống như các nhân vật của Byron và Stendhal, nhưng không phải là
nhân vật lãng mạn mà là người tiểu tư sản tuyệt vọng của thế giới tư bản
muộn. Anh ta muốn hòa đồng với xã hội, muốn chấp nhận ngày thường của
thế giới, gia đình và hôn nhân, sự nghiệp, nhưng không được” [18;185,186].
Kafka đã thúc đẩy tư duy mạnh mẽ về những vấn đề của thế giới hiện đại.
Cuộc vật lộn tinh thần với những sáng tác của Kafka cũng buộc chúng ta phải
suy nghĩ có kết quả, sâu sắc và tinh tế hơn [18;189]. Dorothy Brewter trong
cuốn Tiểu thuyết hiện đại khẳng định “truyện của Kafka thường được xếp
vào loại truyện có ngụ ý, một loại tục ngữ khác” [10;216].
Nhiều nhà nghiên cứu tỏ ý tán thành r ng các tác phẩm của Franz
Kafka mang một số quan điểm về thân phận con người, nhưng rất ít người
trong số họ biết được chính xác bản chất của quan điểm đó. Các tác phẩm của
Kafka ra đời vẫn thường được xem như là một chuỗi các biểu hiện sâu sắc về cuộc
sống thực tại khó khăn của con người hiện đại. Michael L. Burwell trong bài viết
“Nước Mỹ” của Kafka như một cuốn tiểu thuyết phê bình xã hội (Kafka's
"Amerika" as a Novel of Social Criticism) đã cho r ng “Nhiều nhà nghiên cứu
sẵn sàng tán thành r ng các tác phẩm của Franz Kafka mang một số quan
điểm về thân phận con người, nhưng rất ít người trong số họ đồng thuận về

bản chất của quan điểm đó. Các tác phẩm của Kafka ra đời vẫn thường đặc
biệt được xem như là một chuỗi những biểu hiện sâu sắc về sự tồn tại khó
khăn của con người hiện đại. Bị tước đoạt và tha hóa là những gì mà nhân vật
của ông đã trải nghiệm trong việc không nắm rõ những quy tắc, do đó mà họ

10


phải đi tìm công lý và cuối cùng hạnh phúc được nghiên cứu kỹ lưỡng trong
các công trình nghiên cứu về tác giả này và nó được dùng như nền tảng cho
một loại triết lý của sự tuyệt vọng [57;194]. Trong một cách hiểu khác “Karl
có thể được coi như nhân vật Odysseus của Franz Kafka hay Stephen
Daedalus, một người cô đơn đi lang thang kiểm tra chân trời trí tưởng tượng
của con người, vĩnh viễn tìm kiếm sự thỏa mãn giấc mơ của cá nhân mình”
[56;40].
Còn Milena Jesenska, người tình của Kafka, thì nhận thấy: “Những cuốn
sách (của ông) đã để lại một ấn tượng về thế giới hoàn chỉnh đến nỗi người ta
không thể thêm vào đó một chữ nào” [44;17]. Nathalie Sarraute, một đại diện
tiêu biểu của Tiểu thuyết Mới ghi nhận: “Kafka là thiên tài của thời đại chúng ta,
Kafka là nhà tiên tri báo trước kỷ nguyên của con người phi lý, con người
không có sự sống” [44;4]. Alain Robbe - Grillet, người đứng đầu trường phái
Tiểu thuyết Mới khi trình bày những quan điểm cơ bản của mình về loại tiểu
thuyết này đã đặt Kafka bên cạnh Flaubert, Dostoievski, Proust, Joyce,
Faulkner, Beckett… và gọi họ là “các bậc tiền bối của chúng tôi mà chúng tôi
đã từng chấp nhận một cách dễ dàng nhất” [2;153].
Những tác phẩm của Kafka hầu hết là những tác phẩm không dễ hiểu nếu
như mới tiếp cận, bởi vậy Bách khoa toàn thư Anh mới (The New Encyclopedia
Britannica) đã nhận xét “Nhiều chuyện ngụ ngôn của Kafka chứa đựng sự
khó hiểu, pha trộn cái bình thường và huyền ảo, mặc dù đôi khi sự kì lạ có thể
được hiểu như là kết quả của phương tiện văn học hoặc lời nói” [50;23]. Tác giả

Tzevan Todorov trong công trình Dẫn luận về văn chương kỳ ảo cũng đưa ra
một số nhận định về cái kỳ ảo trong sáng tác của Kafka: “Theo nghĩa nào đó,
thì những truyện kể của Kafka thuộc cái thần diệu và cái lạ lùng đồng thời,
chúng là sự tổng hợp của hai thể loại bề ngoài bất tương dung. Cái siêu nhiên
được cho sẵn, ấy thế mà nó không ngừng tỏ ra khó chấp nhận được đối với

11


chúng ta” [48;207]... và sinh thể kì ảo chính là những “Con người bình thường;
cái kì ảo trở thành quy tắc chứ không phải ngoại lệ”. Bởi vậy mà “Với Kafka,
chúng ta đối chất với một cái kì ảo được phổ biến hóa: toàn bộ thế giới của
cuốn sách và bản thân người đọc đều ở bên trong cái kì ảo đó” [48;208]. Vì
chứa đựng những yếu tố kì ảo như vậy nên trong tác phẩm của Kafka người
đọc khó có thể đoán biết được đó có phải là sự việc diễn ra thật hay không và
diễn ra ở đâu? Như Kenneth Payne đã nhận định khi bàn về Nước Mỹ “anh ấy
đã bác bỏ danh hiệu, được lựa chọn bởi người bạn của Kafka và người sáng
lập Max Brod như đó là một việc sử dụng sai từ ngữ. Theo Politzer, chủ đề
thực sự của cuốn tiểu thuyết không phải là thực tế, hiện tại hay tương lai, của
một nền văn minh cách xa Prague của Kafka, nhưng chính là tốc độ tăng
trưởng, cá nhân và trí tuệ, của Karl Roßmann...Đối với Politzer thì câu
chuyện của Karl cứ như là có thể xảy ra bất cứ nơi nào, và sự thiết lập
Nước Mỹ như là hoàn toàn ngẫu nhiên vậy” [56;40].
Một trong ba tiểu thuyết của Kafka là Vụ án được nhà nghiên cứu
Harold Bloom cho r ng đó là tác phẩm mang âm hưởng của Freud, với nội
dung đề cập tới vấn đề tội lỗi của Joseph K và quyền lực của pháp luật.
Trong đó "Tội lỗi thường có vẻ như là một phạm trù Kitô giáo hơn là Do Thái
giáo, ngay cả khi tội lỗi của Joseph K. chủ yếu là ngu ngơ trước Luật pháp.
Chắc chắn Kafka có thể bị đánh giá Vụ án mang âm hưởng Freud nhiều hơn
thường lệ, bởi vì tội lỗi kiểu Freud cũng không khác biệt gì với sự ngu ngơ,

không chỉ trước Luật pháp mà còn trước các nguyên lý thực tiễn. Freud nhấn
mạnh r ng mọi quyền lực, cộng đồng hoặc cá nhân, đều gây ra tội lỗi trong
chúng ta, vì chúng ta cùng chia sẻ trong tội giết cha có gốc từ vật tổ. Do đó,
chẳng có gì phải nghi ngờ về tội lỗi, không chỉ vì chúng ta là tổng thể mà
chúng ta còn mang bệnh ít nhiều, tất cả đều mắc bệnh bởi thấy khó chịu với
văn hoá. Tội lỗi kiểu Freud được nhận biết qua dấu hiệu của sự phủ nhận, chứ

12


không phải của cảm xúc. Joseph K. không có ý thức làm sai, nhưng cũng
giống như con người kiểu Freud mang khát vọng hủy diệt quyền lực người
cha, vì vậy ngay cả Joseph K. cũng có mong muốn mơ hồ của chính mình là
chống lại hình bóng Luật pháp” [53;20].
Franz Kafka đã qua đời gần một thế kỷ nhưng thế giới nghệ thuật và con
người ông vẫn luôn là nguồn đề tài dồi dào, mỗi ngày nó lại phát lộ những
hướng tìm tòi mới. Ritchie Robertson trong bài viết Tính chất Do Thái của Kafka,
chính trị và văn chương đã nhận định về tầm vóc vĩ đại của Kafka do những
tác phẩm nghệ thuật của ông tạo nên: “ngày nay, khi thế giới hiện đại trở nên
dễ chấp nhận người Do Thái hơn thì dường như đạo Do Thái lại có cơ hội
được Kafka phản ánh trong các tác phẩm của ông nhiều hơn bao giờ hết, sự
không kiên định, xa lạ và cảm giác bị gạt ra ngoài thế giới con người. Việc
phản ánh những cảm nhận đó của Kafka đã khiến ông không chỉ là nhà văn
Do Thái, sự thật là như vậy, mà ông còn là nhà văn của toàn nhân loại, người
có thể biến hóa mọi cảm nhận của con người vào trong một tác phẩm nghệ
thuật ấn tượng, sinh động” [59;16].
Nghiên cứu và nhận định về Kafka ở Việt Nam
Trước thời kỳ đổi mới đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến
nhận định về Kafka nhưng chủ yếu là phê phán mặt tiêu cực trong các sáng
tác của ông. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu đều tập trung vào các tác

phẩm đã được dịch ra tiếng Việt của nhà văn, duy chỉ có tiểu thuyết Nước Mỹ vừa
được dịch và phát hành năm 2016 thì chưa có nhiều công trình nghiên cứu hay
đánh giá ngoài một số nhận định trong công trình nghiên cứu của Đặng Anh Đào,
Nguyễn Văn Dân.
Đỗ Đức Hiểu trong Phê Phán văn học hiện sinh chủ nghĩa cho r ng
“Chúng ta không phủ nhận những yếu tố hiện thực, có tính chất tố cáo một
chế độ quan liêu khủng khiếp, một chế độ nhà nước ngạt thở, đầy áp lực

13


trong truyện của Kafka” [17;88]. Sự phản kháng trong tác phẩm Kafka là sự
“phản kháng tiêu cực, mơ hồ, bất lực và tuyệt vọng”, không thể là “một tấm
gương cách mạng” và cũng không thể là “sự phủ nhận toàn bộ xã hội đương
thời”, “Bên cạnh cái âm điệu mỉa mai, chua chát ấy là một không khí huyền ảo,
siêu hình hơn là hiện thực, u uất, bâng khuâng và ảm đạm hơn là cụ thể, thế giới
Kafka là thế giới phi lý” [17;89].
Hoàng Trinh trong Phương Tây - văn học và con người cho r ng tiểu
thuyết Biến dạng “nói lên tinh thần chán ghét, khinh bạc của Kafka đối với
thực tại xã hội và thế giới của sự tha hóa theo quan niệm của ông [45;30].
Nhận định về tác phẩm của Kafka, tác giả Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình
trong cuốn Những bậc thầy văn chương thế giới đã cho r ng các tác phẩm của
Kafka mang “tính rời rạc, tính phi lý quá quắt, đầy phẫn khích của nội dung”
[26;965]. Ngay chính bản thân nhà văn cũng tự cảm nhận: “Những câu văn
lủng củng với nhiều chỗ trống có thể nhét được cả hai tay vào. Một câu cao,
một câu thấp, tùy tiện; câu nọ chèn câu kia, như lưỡi chèn vào răng sâu hoặc
răng giả vậy; có câu còn thô thiển chòi lên trước khiến cho cả truyện cứng đơ
trong sự ngơ ngác đáng buồn” (Nhật ký, ngày 5 tháng 11 năm 1911) [22;818].
Tuy nhiên nhiều nhà nghiên cứu các tác phẩm của Kafka đều ghi nhận và
đánh giá cao sự đổi mới của Kafka. Trong cuốn Về tư tưởng và văn học hiện đại

phương Tây, Phạm Văn Sỹ nhận định: “đúng là trong tác phẩm Kafka chúng
ta có thể thấy một số yếu tố hiện thực về tình trạng bất công, tình trạng quan
liêu của xã hội đương thời (…), nhưng tư tưởng siêu hình của Kafka phủ lên
những yếu tố đó, cái thế giới hiện thực của con người bị bao phủ bởi lớp
sương mù của thế giới huyền thoại” [43;314]. Tác giả cho r ng: “Tác phẩm
của Kafka nói đến những con người sống trong xã hội hiện đại, nhưng đó
không phải là con người hiện thực mà là nhân vật huyền thoại”. Sau khi phân
tích nhân vật Josef K. trong tiểu thuyết tiêu biểu của Kafka - Vụ án,

14


Phạm Văn Sỹ khẳng định: “Vụ án là câu chuyện siêu hình về cuộc sống bi
thảm của con người sống trong một xã hội phi lý như sống trong trại giam chờ
ngày lên máy chém. Vụ án là chuyện con người sống trong xã hội vĩnh viễn
xa lạ với mình, như người không có giấy khai sinh, không có phép cư trú. Là
bị cáo, cá nhân không biết mình có tội cụ thể, song người ta vẫn phải sống
trong mặc cảm tội lỗi như kẻ kế thừa tội gốc” [43;312]. Đó là điều đau đớn
mà con người phải nếm trải trong cuộc đời, nhưng không phải bất kỳ nhà văn
nào cũng có thể dễ dàng nhìn ra bi kịch ấy và phản ánh thành công trong các
tác phẩm của mình như Kafka.
Sau năm 1986, việc đánh giá và nhìn nhận về Kafka xuất hiện nhiều hơn.
Nguyễn Văn Dân trong công trình Lý luận văn học so sánh đã đưa ra khẳng
định về cách tân nghệ thuật của Kafka: “Kafka là một trong những người đầu
tiên đưa cái Phi lý vào văn học hiện đại. Thế giới trong tác phẩm văn học của
ông là một thế giới phi lý, vô nghĩa, là hình ảnh của cái xã hội phương Tây
đương thời mà ông dùng làm đối tượng công kích” [8;204]. “Cái làm cho Kafka
trở thành một hiện tượng văn học không lặp lại và không thể lặp lại là ông đã
sáng tạo ra một nghệ thuật mô tả cái vắng mặt, nghệ thuật thông báo cái
vắng mặt, nghệ thuật thông báo cái không thể thông báo, diễn đạt cái không thể

diễn đạt. Cái quyền lực vô hình và phi lý trong Vụ án và Lâu đài đã được ông
biểu đạt thật tài tình và ấn tượng [9;183],...Nghệ thuật diễn đạt cái phi lý của
Kafka là ngôn ngữ phúng dụ, tượng trưng. Vì thế cái thế giới của Kafka cũng
mang tính tượng trưng, phi lịch sử cụ thể, siêu thực” [9;185]. Nhà nghiên cứu
cho r ng cái phi lý được Kafka miêu tả đó chính là “Một đối tượng bị đem ra
công kích b ng thủ pháp nghịch dị, với tư cách là một thủ pháp nghệ thuật,
cái nghịch dị đã được nhiều nhà soạn kịch về sau tiếp thu” [9;205-206].
Nhà nghiên cứu Đặng Thị Hạnh tuy không đi sâu nghiên cứu Kafka
nhưng bà cũng công bố một số bài viết và có những nhận định ấn tượng về

15


sáng tác của Kafka. Trên tờ Tạp chí Ngày nay, số 10 - 2004 với bài viết
Mắt của Kafka màu gì, tác giả đã đưa ra những luận điểm khẳng định bản
chất con người, tính cách và những ám ảnh trong đời sống thường ngày ảnh
hưởng đến sáng tác của Kafka như thế nào. Tác giả cũng đưa ra những ý kiến
phân tích về văn phong, ngôn từ, ý nghĩa tác phẩm Kafka: “Đọc Kafka, ta
thường phải đọc lại bởi sau khi có cảm giác đọc một cái gì đấy rất trong sáng,
dễ hiểu, ta lại thấy hình như có một ý nghĩa gì đấy ta chưa nắm được [16;50],
“thứ văn xuôi trong veo của Kafka không hề là dễ dịch”, bởi “màu mắt của
Kafka còn khó xác định nữa là chữ nghĩa của ông” [16;51]. Đặc biệt hơn nhà
nghiên cứu còn nhận định trong lời giới thiệu về Franz Kafka in trong
Tuyển tập truyện ngắn phương Tây thế kỷ XX (tập I): “Tình cảm gia đình, bối
cảnh xã hội, thay đổi lịch sử… tất cả những vấn đề này ở Kafka đều gắn với
dấu ấn của sự lưu đầy và sự phi lý [12;43]. Bà dẫn lời Suxkôp để khẳng định
giá trị độc đáo trong tác phẩm Kafka: “Một trong những nguyên nhân quan
trọng làm cho sáng tác của Kafka không chết theo ông, không phải chỉ ở sức
mạnh gây ấn tượng rất lớn của các ảo ảnh của ông, mà còn ở tính chất chân
thành của sự cảm thụ thế giới có tính bi đát là đặc tính riêng của tất cả các

tác phẩm Kafka, không trừ một tác phẩm nào” [12;45] và “Kafka sử dụng lại
huyền thoại cổ đại - huyền thoại hóa nhưng có sự cải biến và miêu tả theo
một phương thức khiến cho ta thấy người hóa thân thành sâu bọ là một cái gì
rất bình thường [12;46]... “Kafka là nhà văn miêu tả những sự vật đang
chuyển động nhưng lại không lý giải được một tình hình như vậy, từ đấy mà
nổi lên một nét đặc trưng trong bút pháp miêu tả thực tế của ông “ở ông ta,
dưới những cải trang kì dị, được báo trước nhiều phương diện của xã hội mà
vào thời kỳ sách ông ra đời, ít người có thể nhận biết. Có thể nói r ng các
nền dân chủ tư sản mang sẵn trong lòng nó chế độ độc tài phát xít và Kafka
đã miêu tả với một trí tưởng tượng tuyệt vời sự xuất hiện của các trại tập trung,

16


tình trạng không luật pháp thường trực, sự ngự trị tuyệt đối của các bộ máy
nhà nước và cuộc sống buồn tẻ của những cá nhân đơn lẻ, chi phối bởi những
quyền hành bất lực. Tất cả đều giống như một cơn ác mộng…trong khi trí năng
trở nên tối tăm…thì bút pháp lại trở nên sáng tỏ” (Dẫn theo Đặng Thị Hạnh)
(12;44)
Phong Lê trong hai công trình: Văn học trong hành trình tinh thần của
con người [30], và cuốn Văn học trên hành trình của thế kỷ XX [31] cũng đặc
biệt chú ý phân tích, lý giải nhân vật trong tác phẩm của Kafka. Ông nhận định
Franz Kafka là “người tiên cảm về nỗi cô đơn và sự tha hóa của con người
trong thế giới phi lý và trống rỗng, xa lạ và thù nghịch với con người”.
Tác giả Đặng Anh Đào trong Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây
hiện đại đã chỉ ra tính chất trừu tượng của nhân vật trong tác phẩm của Kafka:
“Từ đầu thế kỷ, ông đã tạo ra những kiểu nhân vật khó xác định về mặt tâm lý,
khó lí giải theo quyết định luận xã hội thông thường, dường như chống lại sự
thật của cái bình thường hàng ngày. Cái kì lạ không hẳn n m trong việc nhân
vật Gregor Samsa của truyện Biến dạng biến thành con bọ mà ở “cách thể

hiện phản ứng của nhân vật: cái phi lý lấn át, cái không bình thường trở thành
cái thường nhật” [13;46].
Nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung thì nhìn thấy trong các tác phẩm của
Kafka “hình ảnh của cõi mộng, của những cơn ác mộng có nguồn gốc từ nỗi
hoang mang, lo sợ trước thế giới. Đối tượng trung tâm của thế giới nghệ thuật ấy
là sự tha hóa, nỗi lo âu, sự lưu đày và cái chết” [11;193,194].
Một trong những nhà nghiên cứu giành nhiều tâm huyết cho các tác phẩm
của Kafka là Phùng Văn Tửu đã cho r ng “Kafka đã khéo léo sử dụng tính
huyền thoại trong các sáng tác của mình để tạo nên cái hay cái đẹp một cách
sâu sắc, ông vận dụng linh hoạt yếu tố đó: trong Hóa thân thì ông sử dụng yếu
tố hoang đường nhưng trong các tác phẩm khác như trong tiểu thuyết Vụ án thì

17


ông chỉ sử dụng những yếu tố đời thường như nhà trọ, đường phố, tòa án, khu
cư xá, nhà thờ, công chức, thương nhân, luật sư, đao phủ…, tuy r ng tất cả đã
được nhào nặn khác đi để tạo thành một thiên nhiên thứ hai, một thế giới riêng,
chỉ có trong tác phẩm của Kafka, nó gợi lên mối tương đồng với thế giới hiện
thực, chứ không được xây dựng theo nguyên tắc chân thực, cụ thể” [49;4].
Nhà nghiên cứu cũng nhấn mạnh: “Mỗi trường phái, mỗi nhà văn đều có cách
riêng xây dựng thế giới nghệ thuật của mình, nhưng cách làm của Kafka trong
Vụ án có khác. Ở đây nhà văn sử dụng chất liệu hiện thực để xây dựng thế
giới nghệ thuật của mình nhưng chất liệu ấy lại được nhà văn làm biến dạng
đi, tổ chức lại theo kiểu cách riêng khác hẳn với những kiểu cách vốn có của
đời sống thực. Trong truyện khung cảnh thực mà hư, hư mà thực. Sự việc
diễn ra cũng không theo nếp thông thường, nhà văn còn dùng nhiều biện
pháp để làm cho cái thế giới nghệ thuật được xây dựng trong tiểu thuyết càng
mờ ảo hơn nữa (Dẫn theo Phạm Thị Yến) [49;6].
Tác phẩm của Kafka có những sự đổi mới theo thời gian, nếu như ở

Nước Mỹ vẫn còn phảng phất cốt truyện truyền thống như nhận định của nhà
nghiên cứu Đặng Anh Đào thì đến Vụ án cốt truyện đã bị làm mờ đi. Trong
Vụ án người đọc khó có thể nắm bắt được cốt truyện diễn ra, cùng với đó là
nghệ thuật xây dựng những khối - là sự đứt đoạn được miêu tả trong các tác
phẩm của Kafka “Biểu hiện cho bộ máy siêu việt, trừu tượng và bị vật hóa”
[24;205]...khoảng cách về sự đứt đoạn đó ở Nước Mỹ đó là: biệt thự, khách sạn,
nhà hát nhưng “Vụ án làm cho phương pháp biểu đạt hoàn hảo hơn: Sự kề cận
của các văn phòng” [24;218].
Lê Huy Bắc trong cuốn chuyên luận Nghệ thuật Franz Kafka xuất bản
năm 2006 đã đưa ra nhiều nhận định mới về nhà văn thiên tài này, ví dụ ông gọi
Kafka là một “thiên tài nghịch dị”, “người tẩy não nhân loại”, “người khai
sinh hiện thực” và người “khai sinh ra hiện thực về sự biến dạng của con

18


người” [6;112]. Và Kafka là người “đặt dấu chấm hết cho cái kì ảo thế kỷ
XIX trở về trước. Ông tạo nên cái huyền ảo mà bản chất của nó là có thể
biến những điều hết sức bình thường trong cuộc sống (chẳng hạn như nạn
độc tài, thói quan liêu, tham nhũng) những điều chẳng có gì siêu nhiên cả
bỗng chốc thành cái lạ thường, trở thành thứ quyền lực quái đản chà đạp
lên quyền sống chính đáng của con người [5;43].
Nếu không trực tiếp thì những công trình, đề tài nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu, lí luận văn học về nghệ thuật kể chuyện và các vấn đề khác về
tác giả Franz Kafka cũng đã gợi ý cho chúng tôi về tư tưởng, phương pháp
sáng tác, nét đặc sắc trong phong cách của nhà văn để tìm thấy hướng phát
triển những vấn đề chính yếu của luận văn.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu
3.1Tìm hiểu nghệ thuật kể chuyện qua các nhân vật, qua nghệ thuật kết
cấu truyện của Kafka.

3.2 So sánh, phát hiện được những nét đồng điệu và khác biệt ngay trong
hai tác phẩm của cùng một tác giả trong nghệ thuật kể chuyện.
3.3 Từ đó đóng góp thêm những nhận định, đánh giá về sự đổi mới nghệ
thuật của ông cũng như cách nhìn của Kafka về cuộc đời và con người.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Khái niệm liên quan đến đề tài: nghệ thuật kể chuyện và những thông
số của nó. Đề tài có thể hướng trực tiếp đến các vấn đề Người kể chuyện Nhân vật - Người đọc. Song hướng triển khai trong luận văn này nhắm tới
một vấn đề có thể bao quát được những điều đã nêu trên: đó là kết cấu.
- Tác phẩm: Do hạn chế về ngoại ngữ nên chúng tôi chỉ nghiên cứu và
khảo sát dựa trên trên bản dịch: tiểu thuyết Nước Mỹ do Lê Chu Cầu dịch
(Nhà xuất bản Hội Nhà văn, công ty văn hóa và truyền thông Nhã Nam phát
hành 2016) và tiểu thuyết Vụ án in trong tuyển tập Franz Kafka tuyển tập

19


tác phẩm, do nhiều tác giả dịch (Nhà xuất bản Hội nhà văn, Trung tâm văn hóa
và ngôn ngữ Đông Tây phát hành 2003).
5. Phƣơng pháp và thao tác nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp liên văn bản (nh m mục tiêu so sánh).
- Phân tích từng thông số của nghệ thuật kể chuyện để từ đó tổng hợp về
nghệ thuật trong từng chương.
- Nêu lên những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đóng góp cái nhìn chuyên sâu về nghệ thuật kể chuyện trong
tiểu thuyết của Franz Kafka - một tác giả n m trong chương trình nghiên cứu
của bậc đại học.
Luận văn tập trung khai thác bình diện nhân vật, kết cấu không gian và thời
gian, lối kết cấu cốt truyện, từ đó làm rõ những đổi mới trong nghệ thuật kể
chuyện của Kafka.

Ngoài ra, chúng tôi hy vọng công trình nhỏ bé này sẽ đóng góp phần nào
vào việc quảng bá tên tuổi của nhà văn Franz Kafka, mở ra hướng nghiên cứu
rộng hơn về đề tài này.
7. Cấu trúc của luận văn
Sau phần Mở đầu, luận văn được triển khai theo ba chương:
Chƣơng 1: Nghệ thuật kết cấu kiểu nhân vật
Chƣơng 2: Lối kết cấu không gian và thời gian
Chƣơng 3: Lối kết cấu cốt truyện

20


Chƣơng 1
Nghệ thuật kết cấu kiểu nhân vật
Vì tập trung vào hai tác phẩm của Kafka nên chúng tôi nhận thấy
tƣơng tự trƣờng hợp những tác gia lớn - ông đã xây dựng nên những
phiên bản nhân vật có những nét gần gũi có thể gọi là “kiểu nhân vật”.
1.1. Nhân vật tha hóa
Nhân vật tha hóa là nhân vật đánh mất đi bản chất và thân phận vốn có của
mình, trở thành một con người khác, bị chi phối bởi những thế lực ngoài tầm
hiểu biết của chính họ.
Nhân vật tha hóa là hình tượng không còn xa lạ trong văn đàn, đã có rất
nhiều nhà văn đề xây dựng kiểu nhân vật qua các giai đoạn phát triển của lịch sử
văn học thế giới như: Faust trong tác phẩm cùng tên của Goethe, Pie Granhgoa
trong Nhà thờ Đức Bà Pari của V.Hugo, Ra-xti-nhắc trong tiểu thuyết
Lão Gô-ri -ô của Balzac.v.v.. Tuy vậy, phải đến thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
nhân vật tha hóa trong tiểu thuyết mới trở thành tâm điểm qua những đột phá
táo bạo của Kafka. Trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, lúc này lợi ích cá
nhân được đặt lên hàng đầu, cùng với đó là sự chiếm hữu, máy móc công
nghiệp được chế tạo đưa vào sản xuất hàng loạt để thay thế cho sức người.

Qúa trình chuyên môn hóa của chủ nghĩa tư bản đã khiến con người bị cô lập
trong chính chuyên môn của mình cũng như cô lập trong mối quan hệ xã hội,
kể cả các mối quan hệ giữa đồng nghiệp và trong gia đình. Từ đó con người
dần bị biến chất, đánh mất đi bản ngã của mình, nói một cách khác: họ bị
tha hóa, rơi vào những mê lộ của xã hội. Họ bị phi nhân cách hóa, bị lực
lượng trừu tượng trong xã hội đe dọa. Đúng như Suxkôp đã nhận định về tác
phẩm của Kafka “Trong sáng tác của ông có những dấu hiệu tiêu biểu cho sự
khủng hoảng của ý thức hệ tư sản: đó là cảm giác về sự không có tự do của

21


×