BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRIỆU QUANG CỪ
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA LAN KHAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRIỆU QUANG CỪ
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA LAN KHAI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. PHAN TRỌNG THƢỞNG
HÀ NỘI, 2016
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin chân thành bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phan Trọng Thƣởng,
ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này. Đồng thời
tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô trong Ban Giám hiệu; Khoa Ngữ
văn, tổ Lí luận văn học Việt Nam; phịng Sau Đại học - Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2; Các thầy cô ở Viện văn học; Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam; đã nhiệt
tình giảng dạy và tạo điều kiện cho tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn những ý kiến quý báu của các thầy cô trong
Hội đồng chấm đề cƣơng và Hội đồng chấm luận văn, sự động viên và tạo điều kiện
từ gia đình và bạn bè trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2016
Tác giả
Triệu Quang Cừ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận văn với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
của Lan Khai” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.
TS. Phan Trọng Thƣởng. Đề tài luận văn của tơi khơng trùng khớp với bất kì đề tài
nào khác.
Trong q trình nghiên cứu, tơi đã kế thừa thành tựu khoa học của các nhà
khoa học và đồng nghiệp với sự trân trọng và biết ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2016
Tác giả
Triệu Quang Cừ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6
4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................... 7
6. Những đóng góp của luận văn .................................................................. 7
7. Bố cục của luận văn .................................................................................. 8
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
Chƣơng 1. THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA LAN KHAI ............................................... 9
1.1. Khái quát về truyện ngắn và thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
của Lan Khai ................................................................................................. 9
1.1.1. Khái niệm về truyện ngắn ............................................................... 9
1.1.2. Quang niệm về Thế giới nghệ thuật ................................................ 9
1.1.3. Đặc điểm truyện ngắn Lan Khai ................................................... 13
1.2. Hành trình sáng tác của Lan Khai ........................................................ 17
1.2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Lan Khai ............. 17
1.2.2. Quan niệm về nghệ thuật và nhân sinh của Lan Khai .................. 24
Chƣơng 2. CON NGƢỜI VÀ CUỘC SỐNG TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA LAN KHAI ............................................................................................ 29
2.1. Khái niệm nhân vật và đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn
của Lan Khai ............................................................................................... 29
2.1.1. Khái niệm nhân vật ....................................................................... 29
2.1.2. Khái niệm nhân vật văn học .......................................................... 29
2.1.3. Đặc điểm thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Lan Khai ....... 31
2.2. Các loại nhân vật trong truyện ngắn .................................................... 33
2.2.1. Nhân vật hiện thực ........................................................................ 33
2.2.2. Nhân vật có yếu tố kì ảo................................................................ 46
2.3. Bức tranh hiện thực về môi trƣờng sống trong truyện ngắn của Lan Khai 50
2.3.1. Bức tranh thiên nhiên muôn màu sắc ............................................ 50
2.3.2. Bức tranh xã hội trong truyện ngắn của Lan Khai ........................ 54
Chƣơng 3. MỘT VÀI PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN LAN KHAI ......................................................................................... 61
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Lan Khai ......... 61
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ....................................... 61
3.1.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật ............................................... 64
3.1.3. Miêu tả hoạt động của nhân vật .................................................... 68
3.2. Về không gian và thời gian nghệ thuật ................................................ 72
3.2.1. Không gian nghệ thuật .................................................................. 72
3.2.2. Thời gian nghệ thuật ..................................................................... 77
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu ....................................................................... 84
3.3.1. Ngôn ngữ ....................................................................................... 84
3.3.2. Giọng điệu ..................................................................................... 97
KẾT LUẬN ................................................................................................... 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 1079
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 có những chuyển biến lớn
lao về những cách tân trong văn học và đặc biệt là sự đổi mới trong tƣ duy sáng
tạo của ngƣời nghệ sĩ, cho nên văn học giai đoạn này đạt đƣợc những thành tựu
rực rỡ. Thời kì này nhiều xu hƣớng, trào lƣu văn học xuất hiện có thể kể: trào
lƣu văn học lãng mạn (tiêu biểu Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và Thơ mới); trào
lƣu văn học hiện thực phê phán; thơ ca cách mạng. Với sự xuất hiện của nhiều
cây bút xuất sắc nhƣ: Tản Đà, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,.v.v. và khơng thể khơng ghi nhận những
đóng góp lớn lao của Lan Khai đối với nền văn học giai đoạn này.
1.2. Trên văn đàn văn nghệ nửa đầu thế kỉ XX xuất hiện nhiều cây bút
xuất sắc, thành công trên các thể loại văn học nhƣ: tiểu thuyết, truyện ngắn,
phóng sự, thơ, dịch thuật, nghiên cứu và phê bình văn học.v.v. Giai đoạn này,
Lan Khai là một nhà văn có tên tuổi. Ơng đƣợc đánh giá là “một trong những
nhà văn sung mãn nhất của nền văn xuôi hiện đại”, chỉ 18 năm văn nghiệp (40
năm tuổi đời) ông đã để lại hàng trăm tác phẩm đủ các đề tài và thể loại nhƣ:
tiểu thuyết tâm lí - xã hội, tiểu thuyết đƣờng rừng, tiểu thuyết lịch sử, truyện
ngắn, ký và thơ, tác phẩm nghiên cứu lí luận phê bình, sƣu tầm và dịch thuật,
tranh phong cảnh, kí họa, v.v.
Những năm đầu 1930, ông là một cây bút chủ lực của Nhà xuất bản Tân
Dân, làm Tổng thƣ kí tạp chí Tao Đàn (1939), thƣờng xuyên đăng bài trên các
báo nhƣ: Đơng Phƣơng báo, Đơng Pháp, Loa, Ích Hữu, Ngọ báo, Tiểu thuyết
thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san. Những thể loại văn học làm nên tên tuổi
Lan Khai phải kể đến nhƣ: truyện đƣờng rừng (tiểu thuyết và truyện ngắn),
tiểu thuyết tâm lý - xã hội, tiểu thuyết lịch sử.v.v. những sáng tác của Lan
Khai đƣợc các nhà văn cùng thời nhƣ: Nguyễn Tuân, Tản Đà, Trƣơng Tửu,
2
Hải Triều, Vũ Ngọc Phan đánh giá rất cao. Cảm mến trƣớc tài năng và nhân
cách thanh tao của ông mà Tản Đà gọi Ông là “Lâm Tuyền Khách”, Vũ Ngọc
Phan đánh giá “lão tƣớng trong làng tiểu thuyết”, Trƣơng Tửu gọi ông là
“nghệ sỹ của rừng rú”, “đàn anh trong thế giới sơn lâm”, Nguyễn Tuân gọi
ông là ngƣời “to gan lớn mật nhất giới Bắc Hà”.
1.3. Lan Khai đóng góp cho nền văn học nƣớc nhà nhiều thể loại, trong đó
truyện ngắn của ơng đƣợc nhiều nhà văn, nhà lí luận phê bình đánh giá cao về
giá trị nội dung và nghệ thuật. Truyện ngắn của Lan Khai chủ yếu viết về Truyện
đường rừng, Truyện tâm lý - xã hội, những truyện ngắn này còn nhiều điều mới
mẻ để nghiên cứu và tìm hiểu. Vì lẽ đó,chúng tơi quyết định chọn “Thế giới
nghệ thuật trong truyện ngắn của Lan Khai” làm đề tài nghiên cứu. Đề tài này,
là cơng trình đầu tiên đi tìm hiểu về thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của
Lan Khai, thế giới đó hiện lên đầy đủ về bức tranh đời sống của con ngƣời miền
núi hòa quyện vào thiên nhiên với nhiều điều bí ẩn, đƣợc phác họa bằng những
nét vẽ nghệ thuật ngôn từ sáng tạo của nhà văn Lan Khai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự nghiệp sáng tác của Lan Khai để lại cho nền văn học nƣớc nhà vô
cùng đồ sộ, chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật văn chƣơng. Điều này đƣợc
nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học lớn trong và ngồi nƣớc biết đến,
ghi nhận và đánh giá thơng qua nhiều cơng trình nghiên cứu và phê bình văn
học đã cơng bố. Trải qua tiến trình lịch sử văn học Việt Nam từ 1930 đến nay,
chúng tôi điểm qua một số bài nghiên cứu và phê bình tiêu biểu về sự nghiệp
sáng tác của Lan Khai.
Trƣơng Tửu (1913 - 1999)
Trƣơng Tửu là một nhà văn, ông viết nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn,
nhƣng đáng chú ý hơn cả trong sự nghiệp vẫn là nghiên cứu và phê bình văn
học. Ơng có những bài phê bình rất sớm về Lan Khai. Trong bài Văn học Việt
3
Nam hiện đại, theo báo LOA, số 81: thứ năm /5/ September 1935 với tựa đề
“Lan Khai, Nhà nghệ sĩ của rừng rú”, mở đầu ông đối chiếu giữa Thế Lữ và
Lan Khai trƣớc cảnh vật thiên nhiên làm không gian cảm hứng, thỏa trí tài
văn “ơng Thế Lữ mượn một cảnh rừng núi để giải quyết một mối dị đoan,
hoặc sơ phác một cơ gái thổ. Ơng Lan Khai trái lại, khơng giải quyết gì,
khơng sơ phác ai. Ơng sống trong rừng rậm, núi cao, cảm thấy cái đẹp của
sơn lâm ... Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của hoàn cảnh, lại bị năng lực nghệ sĩ
thiên bẩm thúc giục, ông cầm bút chép những chuyện lạ đường rừng, dắt ta
vào một địa hạt xa xăm, tối hiểm. Từ từ, hồi hộp, ông ẩn khẽ cánh cửa của
rừng thẳm, mở lối cho nghệ thuật bước vào một thế giới lạ lùng, đầy dẫy
những hình trạng nhiệm mầu, đột thú” [65, tr.225]. Ơng đánh giá cao truyện
đƣờng rừng vì Lan Khai ln biết tìm tịi những cái mới để ẩn khẽ cánh cửa
rừng giới thiệu cho bạn đọc những điều thú vị. Khi đọc Tiểu thuyết lịch sử
Trƣơng Tửu cũng có cảm nhậm “Đọc truyện của ông Lan Khai, ta luôn luôn
bị xúc động với người trong cảnh mộng. Khi ta hồi hộp vẩn vơ, khi ta say mê
ngây ngất” [65, tr.236], và cuối cùng khẳng định “Rừng rú và lịch sử, chuyện
từng kể một, viết công phu nữa để hiến cho độc giả những tiểu thuyết kiệt tác
đủ làm vẻ vang văn học nƣớc nhà” [65, tr.238]. Theo báo Loa, số 82: Thứ
năm /12/ september 1935. Trong bài viết “Văn Lan Khai”, Trƣơng Tửu đánh
giá cao về tài văn thiên bẩm của nghệ sĩ tài hoa và nhìn nhận gịi bút của Lan
Khai “văn ơng bóng bẩy, đẹp đẽ. Khơng mấy khi ông tả mầu sắc bằng một
phẩm từ cộc lộc” [65, tr.240], “Thỉnh thoảng dưới ngòi bút của Lan Khai,
hình tượng nọ tiếp hình tượng kia đi thành một điệu dài làm người đọc như bị
mê sảng không biết mình ở trong mộng hay trước cảnh thực” [65, tr.241] và
sau cùng ông khẳng định lối viết tiểu thuyết của Lan Khai “Bằng lối văn tả
cảnh và bóng bẩy, bằng cách phơ diễn phỏng theo Pháp. Ơng Lan Khai thật
là một nhà tiểu thuyết xứng đáng, một nhà văn có giá trị và hy vọng” [65,
tr.246]. Theo báo LOA, số 83: Thứ năm /19/ September 1935.
4
Trần Huy Liệu (1901 - 1969)
Trần Huy Liệu là một nhà văn, nhà sử học, nhà hoạt động cách mạng
xuất sắc nửa đầu thế kỉ XX. Lầm Than ra đời đƣợc đơng đảo cơng chúng đón
nhận, bởi nó là những áng văn tả thực, có sự đồng cảm sẻ chia với những số
phận khốn khổ. Tác phẩm Lầm Than ra đời, lời tựa và cũng là sự cảm nhận,
đánh giá sâu sắc và thực tế nhất về đời sống con ngƣời khổ cực trong Lầm
Than “nếu ai đã từng sống trong cảnh lầm than ở giữa dân chúng, các bạn sẽ
nhận thấy những tình cảnh, những phong tục cho đến những tâm lí của đám
dân nghèo hèn mà tác giả đã mô tả ra là rất đúng” [65, tr.248]. Đánh giá này
của Trần Huy Liệu cũng đồng quan điểm với nhiều nhà phê bình đƣơng thời
nhƣ Hải Triều.
Hải Triều (1908 - 1954)
Hải Triều là một nhà báo, nhà lí luận Marxist, nhà phê bình tiêu biểu của
nền văn học Việt Nam. Những tác phẩm của Lan Khai đƣợc công bố, ông
cũng là một trong những nhà phê bình đầu tiên nghiên cứu và đánh giá sớm
về những tác phẩm của Lan Khai, trong bài “Lầm Than - Một tác phẩm đầu
tiên của nền văn tả thực xã hội ở nước ta”(1938), ông nhận định “Đọc xong
quyển Lầm Than, tôi thấy tác giả của nó mạnh dạn tiến lên trên con đường
sáng sủa mà đầy cả chông gai, con đường bênh vực cho giai cấp cần lao, con
đường của chủ nghĩa xã hội. Điều ấy là một điều đáng ghi nhớ trong lịch sử
văn học của xứ này” [65, tr.251]. Và ông luôn luôn bảo vệ khuynh hƣớng văn
học phải “Nghệ thuật vị nhân sinh”, “Tả thực xã hội chủ nghĩa là một triều
lưu văn nghệ của xã hội sau này. Hiện tại Lan Khai đã phất lá cờ tiên phong
trên mảnh đất này” [65, tr.253].
Vũ Ngọc Phan (1902 - 1987)
Vũ Ngọc Phan là một nhà văn, nhà nghiên cứu văn học hiện đại và văn
học dân gian Việt Nam, ông có nhiều bài nghiên cứu, phê bình văn học. Phê
5
bình về Lan Khai ơng nhận định:“Nếu xét về lượng, những tiểu thuyết ông
viết cũng không kém tiểu thuyết của Lê Văn Trương mấy tí; người ta thấy
trong mấy năm gần đây, sách của ông xuất bản thật là bộn bề” [65, tr.258] và
ông cũng thừa nhận giá trị các tác phẩm làm nên tên tuổi Lan Khai “Mặc dầu
Lan Khai viết nhiều loại, từ trước đến nay, ông chỉ đáng được nổi tiếng về
tiểu thuyết đường rừng hơn cả” [65, tr.259]. Phê bình qua nhiều tác phẩm: Ai
lên phố Cát, Cô Dung, Tiếng gọi của rừng thẳm, Ma Thuồng Luồng, v.v. để
cuối cùng ông khẳng định “Lan Khai là cây bút rất tài tình để viết truyện
ngắn” và trăn trở với câu hỏi “Không hiểu sao ông lại chỉ viết có tập Truyện
đường rừng?” [65, tr.264]. Khi nhìn nhận về các thể loại sáng tác của Lan
Khai ông viết “Lan Khai là một nhà văn rất tham. Ông đã nhúng tay vào hầu
hết các loại tiểu thuyết, rồi ông lại muốn ngả cả về mặt dịch thuật nữa” [30,
tr.275]. Nhƣ vậy có thể thấy Vũ Ngọc Phan đánh giá rất cao những tác phẩm
của Lan Khai cũng nhƣ tài năng sáng tạo của ơng.
Ngồi ra cịn rất nhiều bài nghiên cứu, phê bình về Lan Khai của các tác
giả nhƣ: Thiều Quang Lộc, Phạm Mạnh Phan, Hoài Anh, Gia Dũng, Hà Thị
Minh Kim, Nguyễn Vĩ, Ngọc Giao,.v.v.
Đặc biệt ngần đây có PGS.TS. Trần Mạnh Tiến, là ngƣời trực tiếp giảng
dạy, nghiên cứu lí luận và phê bình văn học, ơng có nhiều cơng trình nghiên
cứu, sƣu tầm, biên soạn các tác phẩm của Lan Khai cũng nhƣ những đánh giá
sâu sắc về sự nghiệp văn học mà Lan Khai đã để lại. Nhiều cơng trình đƣợc
cơng bố nhƣ: Lan Khai tuyển tập (2010), Lan Khai tuyển truyện ngắn (2011),
Lan Khai - tác phẩm nghiên cứu lí luận và phê bình văn học (2002), .v.v. Ơng
gọi: “Lan Khai nhà văn hiện thực xuất sắc”, hay trong cơng trình Lan Khai Tuyển tập của Trần Mạnh tiến biên soạn, ông nhận định: “Cuộc đời và sự
nghiệp của nghệ sĩ Lan Khai đã để lại một dấu ấn sâu đậm cho nền văn học
Việt Nam hiện đại, là một trong những nhà văn đã tham gia vào công cuộc
6
“khai sơn phá thạch” cho nền văn học dân tộc ở thế kỉ XX. Là một tài năng lớn
của nền văn học Việt Nam hiện đại, Lan Khai đã tham gia vào nhiều lĩnh vực
văn học, ở đề tài nào cũng thể hiện những năng lực sáng tạo riêng” [61. tr.56].
Trong khuân khổ của một đề tài luận văn thạc sĩ, chúng tơi chỉ điểm qua
những bài phê bình tiêu biểu của những nhà nghiên cứu phê bình văn học xuất
sắc qua những giai đoạn từ 1930 đến nay, những bài nghiên cứu, phê bình này
phần nhiều đi vào các sáng tác văn học cụ thể của Lan Khai hoặc tìm hiểu ở
những giá trị đóng góp về nghệ thuật cũng nhƣ phƣơng diện nội dung một
cách tổng quát, vì lí do đó chúng tơi quyết định đi vào nghiên cứu ở phƣơng
diện “Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Lan Khai”.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Triển khai luận văn này, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu “Thế giới nghệ
thuật trong truyện ngắn của Lan Khai”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và
nghiên cứu toàn bộ các tập truyện ngắn của Lan Khai gồm: truyện đƣờng
rừng, truyện tâm lí xã hội, ngồi ra tơi cịn nghiên cứu các thể loại khác của
Lan Khai nhƣ: thơ, tiểu thuyết, kí, phê bình,… các tác phẩm này chƣa thực sự
đầy đủ với những gì nhà văn đã tạo lập trong 18 năm văn nghiệp, tuy nhiên
những tác phẩm Lan Khai để lại vô cùng đồ sộ, các tác phẩm của Lan Khai
đƣợc nhiều nhà nghiên cứu đã dày công sƣu tầm và biên soạn thành các cuốn
nhƣ: Lam Khai tuyển tập (2010), Lan Khai ký (2015), Lan Khai tuyển truyện
ngắn (2011).v.v.
Ngồi ra chúng tơi cịn tìm hiểu và nghiên cứu nhiều tác phẩm truyện
ngắn của các tác giả cùng thời Lan Khai nhƣ: Tản Đà, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, .v.v. nhiều bài phê bình, nghiên cứu, đánh giá về
7
Lan Khai đƣợc đăng trên các tạp chí uy tín, để có sự đối chiếu, có cái nhìn
tồn diện, đánh giá khách quan, đúng mực ở phạm vi của đề tài này.
4. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua đề tài này, chúng tơi muốn góp thêm ý kiến cá nhân nhằm tái
khẳng định những đóng góp lớn về số lƣợng các tác phẩmcũng nhƣ giá trị về
nội dung, nghệ thuật văn chƣơng Lan Khai đã tạo dựng.
Tìm ra đƣợc những phong cách mới lạ, độc đáo về thế giới nghệ thuật
trong truyện ngắn cũng nhƣ trong các sáng tác của Lan Khai.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu về “Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Lan
Khai”, hƣớng đến mục tiêu những đóng góp về nghệ thuật trong đó có: đặc
điểm truyện ngắn, những quan niệm về nghệ thuật, con ngƣời và cuộc sống
trong truyện ngắn, những phƣơng diện nghệ thuật khác. Từ đích đó, q trình
nghiên cứu chúng tơi vận dụng các phƣơng pháp chủ yếu sau:
- Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học
- Phƣơng pháp lịch sử - xã hội
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.
- Phƣơng pháp tiểu sử tác giả.
- Phƣơng pháp hệ thống.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn có thể đóng góp ở các phƣơng diện sau:
Thứ nhất: Tìm ra những nét độc đáo về thế giới nghệ thuật trong truyện
ngắn Lan Khai.
Thứ hai: Khẳng định những đóng góp to lớn của Lan Khai đối với nền
văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
8
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có 03 chƣơng:
Chƣơng 1. Truyện ngắn và Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của
Lan Khai.
Chƣơng 2. Con ngƣời và cuộc sống trong truyện ngắn Lan Khai.
Chƣơng 3. Một vài phƣơng diện nghệ thuật trong truyện ngắn Lan Khai.
9
NỘI DUNG
Chƣơng 1. THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA LAN KHAI
1.1. Khái quát về truyện ngắn và thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
của Lan Khai
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn
Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi, chủ biên (1997): Truyện ngắn “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung
thể loại của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời
tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được
viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ. Tuy nhiên, mức độ
dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ yếu phân biệt truyện ngắn với các tác
phẩm tự sự loại khác. Trong văn học hiện đại có nhiều tác phẩm rất ngắn,
nhưng thực chất lại là những truyện dài viết ngắn lại. Truyện ngắn, thời trung
đại cũng ngắn nhưng rất gần với truyện vừa. Các hình thức truyện kể dân
gian rất ngắn gọn như cổ tích, truyện cười, giai thoại… lại càng không phải
là truyện ngắn” [15, tr.303].
- Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tƣ duy mới, một cách nhìn cuộc đời,
một cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Cho nên truyện
ngắn, đích thực xuất hiện tƣơng đối muộn trong lịch sử văn học. Khác với tiểu
thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong tồn bộ sự đầy đặn và tồn vẹn
của nó, truyện ngắn thƣờng hƣớng tới việc khắc họa một hiện tƣợng, phát
hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con
ngƣời. Vì thế, trong truyện ngắn thƣờng có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp và
nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới, thì nhân vật của truyện ngắn
là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thƣờng không nhắm tới việc
10
khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tƣơng quan với
hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thƣờng là hiện thân cho một trạng thái
quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con ngƣời.
- Cốt truyện của truyện ngắn thƣờng diễn ra trong một thời gian, không
gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về
cuộc đời và tình ngƣời. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng,
nhiều tuyến mà thƣờng đƣợc xây dựng theo nguyên tắc tƣơng phản hoặc liên
tƣởng. Bút pháp trần thuật của truyện ngắn thƣờng là chấm phá. Yếu tố quan
trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cơ đúc, có dung lƣợng lớn và
lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chƣa nói hết.
Nhƣ vậy, có thể nói truyện ngắn là thể loại gần gũi với đời sống hàng ngày,
súc tích, dễ đọc, lại thƣờng gắn liền với hoạt động báo chí, do đó có tác
dụng, ảnh hƣởng kịp thời trong đời sống. Nhiều nhà văn lớn trên thế giới
và nƣớc ta đã đạt tới đỉnh cao của sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật chủ yếu
bằng truyện ngắn xuất sắc của mình.
1.1.2. Quang niệm về Thế giới nghệ thuật
Thế giới là một khái niệm thuộc phạm trù triết học. Theo Từ điển triết
học, Thế giới có thể đƣợc hiểu:
- Theo nghĩa rộng: “là toàn bộ hiện thực khách quan, (là tất cả những gì
tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người). Thế giới là nguồn gốc
của nhận thức” [20, tr.1083].
- Theo nghĩa hẹp: “dùng để chỉ đối tượng của vũ trụ học, nghĩa là bộ
phận thế giới vật chất do thiên văn học nghiên cứu. Người ta đã chia bộ phận
thế giới vật chất đó thành hai lĩnh vực, nhưng khơng có ranh giới tuyệt đối:
Thế giới vĩ mơ và thế giới vi mơ” [59, tr.1083].
Nhƣ vậy có thể hiểu thế giới là một phạm vi rất rộng, một vũ trụ rộng
lớn tồn tại xung quanh con ngƣời và độc lập bên ngoài ý thức con ngƣời.
11
Còn Thế giới nghệ thuật cũng là một phạm trù rất rộng, đƣợc dùng
trong văn học và sáng tác nghệ thuật.
- Theo Từ điển thuật ngữ văn học Lê Bá Hán, Trần Định Sử, Nguyễn
Khắc Phi chủ biên: thế giới nghệ thuật khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng
tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của một tác
giả, một trào lƣu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là
một thế giới riêng, đƣợc tạo ra theo các nguyên tắc tƣ tƣởng và nghệ thuật,
khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con ngƣời, mặc dù là
nó phản ánh các thế giới ấy.Thế giới nghệ thuật có khơng gian riêng, thời
gian riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng
… chỉ xuất hiện một cách ƣớc lệ trong sáng tác nghệ thuật. Chẳng hạn; trong
thế giới truyện cổ tích, con ngƣời và lồi vật, cây cối, thần phật đều có thể nói
chung một thứ tiếng ngƣời, đơi hài có thể đi một bƣớc bảy dặm, nồi cơm vô
tận ăn mãi không hết. Trong văn học lãng mạn, quan hệ nhân vật thƣờng xây
dựng trên cơ sở cảm hóa; trong văn học cách mạng nhân vật thƣờng chia
thành hai tuyến địch, ta, ngƣời chiến sĩ cách mạng và quần chúng.
Nhƣ thế, mỗi thế giới nghệ thuật có một mơ hình nghệ thuật trong việc
phản ánh thế giới. Sự hiện diện của thế giới nghệ thuật không cho phép đánh
giá và lý giải tác phẩm văn học theo lối đối chiếu giản đơn giữa các yếu tố hình
tƣợng với các sự thực đời sống riêng lẻ, xem có “giống” hay không, “thật” hay
không, mà phải đánh giá trong chỉnh thể của tác phẩm, xem xét tính chân thật
của tư tưởng chỉnh thể của tác phẩm so với chỉnh thể hiện thực. Các yếu tố của
hình tƣợng chỉ có ý nghĩa trong thế giới nghệ thuật của nó [15, tr.245].
- Theo giáo trình Lý luận văn học (Trần Đình Sử chủ biên), “thế giới
nghệ thuật là một thế giới kép: thế giới được miêu tả và thế giới miêu tả. Thế
giới được miêu tả gồm nhân vật, sự kiện, cảnh vật… Thế giới miêu tả là thế
giới của người kể chuyện, người trữ tình. Hai thế giới này gắn kết không tách
12
rời như hai mặt của một tờ giấy. Khơng có thế giới miêu tả thì khơng có thế
gưới được miêu tả và ngược lại. Tuy nhiên chúng không thể liên thông. Người
kể chuyện không thể trực tiếp tham gia vào sự kiện trong thế giới được miêu
tả như một nhân vật” [52, tr.82]. Thế giới đƣợc miêu tả trong tác phẩm có các
bình diện của nó. Đó là con ngƣời riêng (nhân vật), không gian, thời gian
riêng, đồ vật, âm thanh, màu sắc có ý nghĩa tƣợng trƣng riêng khơng đồng
nhất với thực tại. Các bình diện trên đều là yếu tố của thế giới nghệ thuật,
mỗi yếu tố có một vị trí nhất định và khơng thể thiếu đối với hệ thống. Thế
giới nghệ thuật của tác phẩm ngôn từ là hệ thống hoàn chỉnh và bao gồm
những giới hạn nhất định. Bởi vì hệ thống đó sống theo các quy luật, ngun
tắc vốn có của nó, có khơng gian, thời gian, tâm lý, đạo đức xã hội và hoàn
cảnh vật chất riêng, tất cả đều là phạm trù có ý nghĩa khi phân tích tác phẩm.
Khơng nên đánh giá tác phẩm chỉ trong một bình diện, cũng nhƣ khơng nên
xem xét các bình diện trên một cách tách rời, bỏ qua mối quan hệ và liên hệ
qua lại giữa chúng. Chỉ có nghiên cứu đồng bộ các bình diện mới đem lại bức
tranh đầy đủ về thế giới mà nhà văn sáng tạo ra.
Nhƣ vậy, thế giới nghệ thuật là một phạm trù rất rộng. Thuật ngữ này
chỉ dùng trong văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Có nhiều định nghĩa, quan
niệm khác nhau về thế giới nghệ thuật. Qua các định nghĩa trên, chúng ta có
thể rút ra cách hiểu: Thế giới nghệ thuật là thế giới riêng mà nhà văn sáng tạo
trong tác phẩm của mình. Thế giới ấy là hình bóng của thế giới vật chất
nhƣng khơng hồn tồn là thế giới vật chất. Bƣớc vào thế giới nghệ thuật,
ngƣời đọc đã cùng nhà văn bắt đầu hành trình khám phá bản chất của cuộc
sống và bản thể của con ngƣời. Đó là một cuộc chơi thú vị, hấp dẫn nhƣng
cũng khơng ít những đắng cay cần sự trải nghiệm. Thế giới nghệ thuật bao
gồm tất cả các yếu tố trong tác phẩm văn học. Có bao nhiêu yếu tố cấu thành
nên tác phẩm văn học sẽ có bấy nhiêu yếu tố thuộc thế giới nghệ thuật.
13
Trong phạm vi của luận văn, chúng tơi sẽ tìm hiểu những yếu tố cơ bản
về“Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Lan Khai”.
1.1.3. Đặc điểm truyện ngắn Lan Khai
1.1.3.1. Truyện ngắn kì ảo (Truyện đường rừng).
Kì ảo, là một yếu tố hàng đầu tạo nên sức hấp dẫn, sự mới lạ trong
Truyện đường rừng của Lan Khai.Truyện ngắn kì ảo có nhiều tên gọi khác
nhau nhƣ: truyện truyền kì, truyện kinh dị, truyện quái dị, ma quái … Trong
truyện ngắn kì ảo của Lan Khai, yếu tố kì ảo luôn gắn liền với cảnh núi rừng
Việt Bắc, mang những yếu tố dân gian, xen lẫn những câu truyện cổ tích,
phong tục miền núi, vì thế tạo nên một nét riêng, độc đáo về thể loại truyện
ngắn kì ảo trong tập Truyện đường rừng mang đặc trƣng phong cách riêng của
Lan Khai. Nhà nghiên cứu lí luận và phê bình Vũ Ngọc Phan nhận định:“Mặc
dầu Lan Khai viết nhiều loại, từ trước đến nay, ông chỉ đáng được nổi tiếng
về tiểu thuyết đường rừng hơn cả. Về loại này, ông đứng riêng hẳn một phái.
Người ta thấy Thế lữ cũng có viết đơi ba truyện, nhưng đọc Lan Khai, người
ta mới thấy nhà tiểu thuyết đưa ta vào tận rừng thẳm, dắt người ta một cách
thân mật vào các gia đình Thổ Mán và cho người ta được thấy những tâm
tính dị kì” [65, tr.259].
Suốt một thời gian dài từ thời kì trung đại, hình ảnh con ngƣời miền núi
xuất hiện mờ nhạt trong tác sáng tác văn chƣơng. Tới giai đoạn 1930 đến
1945 với cuộc cách tân về văn học nghệ thuật, có nhiều nhà văn đã đóng góp
nhiều tác phẩm về đề tài miền núi, phải kể đến nhƣ: Thế Lữ với tập Vàng
máu, Lƣu Trọng Lƣ với Người sơn nhân, Đới Đức Tuấn với Thần Hổ, Ai hát
giữa rừng khuya và đặc biệt là đóng góp của Lan Khai với Truyện đường
rừng … họ mang đến những bức tranh khác nhau về thế giới sơn lâm. Truyện
ngắn của Lan Khai đã vẽ lên một bức tranh đa màu sắc về miền núi, bức tranh
đó có vẻ đẹp tƣơi tắn, thơ mộng về một thiên nhiên kì vĩ. Có nhiều lồi
14
muông thú, cỏ cây tụ thành những quần thể sinh động. Và đặc biệt ngƣời ta
khơng khỏi tị mị, kiếu kì và mơ hồ bởi những yếu tố kì ảo. Yếu tố kì ảo
trong truyện ngắn đƣờng rừng của Lan Khai chính là những nhân vật kì ảo, đó
có thể là những con vật kì ảo, con vật khơng có thật, ngƣời biến thành vật, hay
những hồn ma …. Nhƣ trong các truyện: Người lạ, Ma thuồng luồng, Con
thuồng luồng nhà họ Ma, Con bị dưới Thuỷ tề, Đơi vịt con, Người hố hổ, Gị
thần, Người hố beo…
Đặc điểm những yếu tố kì ảo trong truyện ngắn của Lan Khai chúng ta
có thể thấy rõ những yếu tố kì ảo đƣợc kể xen lẫn những câu chuyện dân gian
miền núi, pha chút thơ mộng, vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Những yếu tố kì ảo đƣợc đặt trong các bối cảnh của những câu chuyện
khác nhau, thể hiện những số phận và quan điểm khác nhau của nhà văn.
Yếu tố kì ảo và hiện thực đƣợc đan xen, tái hiện trong cuộc sống sinh
hoạt của ngƣời dân miền núi nhƣ một minh chứng về thực tại bí hiểm của núi
rừng, các yếu tố văn hoá dân gian đƣợc xen cài mang đặc trƣng của đồng bào
dân tộc thiểu số nhƣ: Tày, Thái, Cao Lan.
1.1.3.2. Truyện ngắn hiện thực tâm lí xã hội
Truyện ngắn hiện thực của Lan Khai gắn liền với những vấn đề xã hội
nhƣ: tình u đơi lứa, tình cảm vợ chồng, những cảnh ngộ éo le … hoặc trong
hoạt động sáng tác của ngƣời nghệ sĩ. Trong các tác phẩm ấy, nhà văn quan
tâm tới những vấn đề thời sự của cuộc sống: đó có thể là tình u đơi lứa, sự
thuỷ chung trong hạnh phúc gia đình, là vẻ đẹp của lịng nhân từ, phê phán lối
sống tầm thƣờng và những quan niệm sống sai lầm… Nhìn chung, nhiều vấn
đề nóng bỏng của đời sống hàng ngày đƣợc nhà văn tái hiện trong tác phẩm
của mình. Trong đó, mảng truyện ngắn hiện thực tâm lí xã hội của Lan Khai
tập trung chủ yếu trong tập Lẩn sự đời, xuất bản năm 1934, Lan Khai tuyển
15
truyện ngắn, xuất bản 2011 do PGS. TS Trần Mạnh Tiến sƣu tầm và biên
soạn, và một số tác phẩm đăng trên nhiều tờ báo khác nhau.
Truyện tâm lí xã hội, nhiều câu chuyện về tình u đơi lứa, tác giả tập
trung vào những vấn đề về nhận thức, đạo đức và những tình huống éo le.
Mỗi câu chuyện tâm lí xã hội trong tập Lẩn sự đời là một lát cắt của cuộc
sống, ngƣời đọc không chỉ thấy đƣợc những số phận, những cảnh ngộ ối
oăm mà cịn cảm nhận đƣợc những bài học nhân sinh sâu sắc đƣợc tác giả gửi
gắm trong mỗi một câu chuyện.
Truyện Lẩn sự đời, là câu chuyện về cuộc tình của chàng hoạ sĩ với một
cô gái mù ở chốn thôn quê. Vân, tên chàng hoạ sĩ, vốn là một chàng trai thành
thị, mồ côi cha mẹ từ lâu. Chàng hoạ sĩ muốn xa lánh nơi thị thành tìm tới nơi
nƣớc non kì thú, vui điền viên, chàng gặp đƣợc tình cảm chân thành từ một cô
gái mù mà chƣa bao giờ chàng từng có. Một tình u mang đến cho chàng
niềm tin và hy vọng, chàng đã quyết định lẩn chốn phồn hoa đô thị về sinh
sống bên cô gái mù, để là cái gậy chống đỡ cho ngƣời mẹ già của cơ gái, là
nơi nƣơng tựa cho ngƣời mình u. Giơng tố, là câu chuyện về hạnh phúc gia
đình bị tan vỡ. Lỗi lầm của ngƣời chồng trƣớc cái sai của ngƣời vợ khi ngoại
tình đã ngăn cách hai ngƣời đằng đẵng suốt nhiều năm, thân thể héo mòn của
ngƣời chồng khi đi tìm vợ, nỗi nhớ nhung và lịng chung thuỷ sắc son là
những giá trị đẹp cần phải có trong mỗi hạnh phúc gia đình. Bỡn cợt với tình,
là một thơng điệp về tình u dối trá, tình u phải xuất phát từ sự chân thành,
niềm tin sắc son và thuỷ chung thì mới bền vững. Lộc là chàng trai trong lúc
chán trƣờng, anh gặp ngƣời con gái thôn quê hồn nhiên trong trắng, trƣớc vẻ
đẹp hồn nhiên của Xuân, Lộc đã mê mẩn trƣớc cái đẹp, trƣớc cái tình ngây
thơ mà đem những lời mật ngọt hứa hẹn. Chỉ khi Liên là ngƣời yêu của Lộc
đã bóc mẽ bản chất và sự dối trá của Lộc thì mọi việc đã ngã lẽ. Ngƣời đau
khổ nhất có lẽ là Xuân, Xuân tin vào sự chân thành và lời hứa của Lộc, cô
16
cảm thấy đau đớn nhất trong mối tình tay ba. Một truyện tự tử, câu chuyện về
tình yêu gắn liền với sự cảm thông, chia sẻ với số phận éo le, bạc bẽo giữa
chàng tài xế lái thuê tên Cáp và cô gái tên Xuân làm nghề “đem thân đổi lấy
đồng tiền”. Tác giả chỉ cho hai ngƣời gặp nhau vào một buổi tối, lần gặp gỡ
đầu tiên đó dƣờng nhƣ hai ngƣời đã thấu hiểu tất cả về nhau, cảm thông cho
những vất vả, đoạn trƣờng mà Xuân đã trải qua. Cuộc sống q khốn khó,
khiến cho Cáp khơng thể thực hiện đƣợc dự định đƣa Xuân thoát khỏi nơi nhơ
nhớp đó, trƣớc cái bế tắc tuột cùng của cuộc sống, hai ngƣời đã nghĩ tới cái
chết nhƣ một sự giải thoát. Truyện ngắn Thằng Gầy, là câu chuyện tác giả
mang tới một thơng điệp về cái đói, cái khổ, lớn hơn nữa là nỗi bất hạnh của
một thằng bé không nơi nƣơng tựa, không nhà cửa, không cha mẹ để bấu víu.
Thằng Gầy, ln phải sống trong “sự hắt hủi của đồng loại và sự thờ ơ của
thiên nhiên”, cái chết của Thằng Gầy là một nỗi đau bất hạnh, là lời ai oán tác
giả muốn phê phán về tình mẫu tử, tình ngƣời với ngƣời trong xã hội vốn
phức tạp và khốn khó. Anh Xẩm là câu chuyện tƣơng tự về nỗi khổ đau và bất
hạnh của một kiếp ngƣời khốn khổ. Anh Xẩm xuất hiện trong một không gian
đối lập với tất cả mọi ngƣời, nơi đó là những con ngƣời ăn mặc sang trọng vui
ngày lễ hội, anh xuất hiện là một ngƣời rách rƣới, không ai để ý sự tồn tại của
anh. Nhƣng với tài năng của mình anh đã mang đến âm thanh “véo von lanh
lảnh như tiếng hạc ngang trời”, làm gỡ ngàng tất cả đám đông. Thứ âm thanh
trong trẻo, cao bổng, có sự điêu luyện của nghệ thuật nhƣ một minh chứng
đóng góp về tài năng, có ý nghĩa và giá trị sống của những con ngƣời không
đƣợc để ý.
Thông qua những vấn đề nhạy cảm của cuộc sống, nhà văn đã bày tỏ thái
độ của mình đối với những tồn tại của xã hội. Đó là những quan điểm, những
chính kiến về chuẩn mực trong đạo đức, lối sống và tình u. Là sự cảm
thơng, sâu sắc trƣớc những kiếp ngƣời nhỏ bé, bất hạnh. Đó là những dẫn
17
chứng cho một cây bút xuất sắc viết về hiện thực xã hội trong giai đoạn văn
học 1930 - 1945.
1.2. Hành trình sáng tác của Lan Khai
1.2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Lan Khai
Cuộc đời: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh ngày
24 tháng 06 năm 1906 tại xã Vĩnh Lộc, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.
Cụ thân sinh là Nguyễn Đình Chức (cịn gọi là cụ Lang Chức), thuộc dịng họ
Nguyễn Đình có ngun qn ở Thừa Thiên - Huế. Thủa nhỏ cụ Nguyễn Đình
Chức đƣợc cha mẹ ni dƣỡng cho theo học chữ Nho và nghề thuốc Đông y
gia truyền. Khi trƣởng thành cụ Nguyễn Đình Chức cùng hai anh là Nguyễn
Đình Cả và Nguyễn Đình Liên hƣởng ứng chiếu Cần Vƣơng ra Bắc tham gia
khởi nghĩa Hƣơng Khê (Hà Tĩnh). Cuộc khởi nghĩa kết thúc (1895), ba anh
em chuyển lên thƣợng nguồn Sông Gâm (nay là Chiêm Hoá, Tuyên Quang)
sinh sống. Tại đây, cụ Chức đã làm nghề dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho
ngƣời dân trong vùng, tên tuổi ông đƣợc mọi ngƣời trong vùng biết đến. Cụ
thân mẫu của Lan Khai tên là Lỗ Thị Thục, xuất thân từ dòng họ Lỗ, là ngƣời
phụ nữ hiền lành, chất phác sống tại địa phƣơng. Bà có đức tính nhân hậu, hết
mực thƣơng yêu chồng, con, giàu đức hy sinh, ngày ngày hái thuốc trong rừng
cùng chồng cứu chữa cho nhiều ngƣời dân, đƣợc nhân dân trong vùng hết
mực quý mến. Thời thơ ấu, Lan Khai lớn lên ở miền rừng núi Chiêm Hóa có
nhiều đồng bào dân tộc sinh sống nhƣ Tày, Dao, Cao Lan, Hà Nhì, Nùng, …
nơi đây có nền văn hóa đặc sắc của các dân tộc đƣợc giao thoa, quyện lại với
nhau tạo nên một nền văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc các dân tộc miền núi,
nơi có những làn điệu hát then của dân tộc Tày, những lễ hội đặc sắc vào mùa
xuân, những câu truyện kì thú, kì ảo của các dân tộc Dao, Nùng, Tày …
những văn hóa truyền thống đó cùng với những lời kể, lời ru của mẹ, lời dạy
của cha đã ảnh hƣởng và nuôi dƣỡng tâm hồn của một nhà văn tài năng, một
nhà văn bậc nhất về “Truyện đƣờng rừng” từ trƣớc tới nay.
18
Năm 1914, Lan Khai theo cha mẹ chuyển về sống ở làng Xuân Hòa (nay
là phố Xuân Hòa) thuộc tỉnh lị Tuyên Quang, nơi đây là khu phố nghèo, vùng
thấp, trũng, bên bờ hữu ngạn Sông Lô, nơi cƣ trú của nhiều gia đình thợ
thuyền và phu mỏ. Phía bắc khu Xuân Hòa tiếp giáp với mỏ than Tuyên
Quang, đối diện với mỏ kẽm Tràng Đà phía tả ngạn Sơng Lô, do thực dân
Pháp tiến hành khai thác từ những năm đầu thế kỉ XX. Suốt từ thời thơ ấu tới
sau này Lan Khai đƣợc chứng kiến với những ngƣời phu mỏ, những kiếp lầm
than của những số phận nghèo. Thời gian này ông đƣợc cha mẹ cho theo học
trƣờng tiểu học của thầy Đốc Điện, Lan Khai nổi tiếng là cậu học trị thơng
minh, chăm chỉ, ham tìm hiểu những điều mới lạ, ơng đam mê đọc sách, tìm
hiểu lịch sử dân tộc. Năm 12 tuổi cậu học trò Nguyễn Đình Khải đã tập làm
thơ và viết văn, nhƣng sớm bộc lộ năng khiếu hội họa. Ngƣời mẹ đã thổi vào
tâm hồn ông những câu ca dao, tục ngữ, những câu truyện cổ tích và truyền
thuyết thần kì. Ngƣời cha đã dạy ông vốn chữ Nho và sách Thánh Hiền về
những tri thức và văn hóa lịch sử dân tộc trong suốt thời niên thiếu. Đam mê
về văn chƣơng và hội hoạ cùng với sự định hƣớng của cha mẹ đã tạo điều
kiện tốt để ông sớm phát huy đƣợc tài năng của mình.
Năm 1924, Lan Khai cùng gia đình về Hà Nội học tại trƣờng Bƣởi (nay
là trƣờng Chu Văn An), từ đây là một bƣớc ngoặt lớn trong cuộc đời của một
nghệ sĩ tƣơng lai. Nơi đây ông đƣợc tiếp cận mới một môi trƣờng mới, nền
văn minh đô thị, với những nguồn tri thức mới lạ và đa dạng, đó chính là cơ
hội là điều kiện, là mảnh đất tốt để ƣơm những hạt giống tốt. Tới năm học thứ
3 tại đây, khi khoá học gần kết thúc thì diễn ra cuộc bãi khố của học sinh
trƣờng Bƣởi, là học sinh tham gia tích cực về cuộc bãi khố vì thế Lan Khai
bị nhà trƣờng thực dân đuổi học vì tội “dính líu vào quốc sự”. Sau đó Lan
Khai thi tiếp vào trƣờng Cao đẳng mỹ thuật Đơng Dƣơng, khố sau các hoạ sĩ
Tơ Ngọc Vân, Bạch Yến, Lê Thị Lợi một năm. Thời gian này ông có một mối
19
tình với ngƣời con gái tên là Nguyễn Thị Duyên (1909 - 1984), bà theo đạo
Thiên Chúa, vì bất đồng tôn giáo nên chỉ đƣợc cha mẹ đồng ý cho về sống với
nhau nhƣng không cử hành hôn lễ.
Năm 1927, Lan Khai trở về quê hƣơng và lập gia đình chính thức với bà
Hà Thị Minh Kim (1909 - 1999) con một, thuộc gia đình dịng họ Hà ở Tun
Quang, là ngƣời có học thức, nhân hậu và nhan sắc. Đây là ngƣời phụ nữ ảnh
hƣởng sâu sắc tới sự nghiệp văn chƣơng của Lan Khai. Bà là ngƣời “trợ bút”
đắc lực cho nhà văn trong nhiều tác phẩm văn chƣơng.
Sau khi lập gia đình, Lan Khai trở lại trƣờng Cao đẳng mỹ thuật Đông
Dƣơng tiếp tục học tập, Lan Khai vẫn thể hiện rõ là ngƣời chăm chỉ và thơng
minh, có biệt tài về ký hoạ, đƣợc ơng đốc học nhà trƣờng quý trọng, nhƣng
ông cũng tâm sự thật lịng “Dù anh có tài thực nhƣng rất khó vƣơn lên vì
những ấn tƣợng từ trƣờng Bƣởi”. Chƣa học hết hai năm, Lan Khai đã trở lại
với rừng núi Tuyên Quang, ông sống với nghề dạy học, dịch sách, viết văn,
dành nhiều thời gian du ngoạn đó đây, vẽ nhiều bức tranh sơn thuỷ hữu tình
về thiên nhiên và con ngƣời miền núi bằng chất liệu sơn dầu, thuốc nƣớc, bút
sắt, ơng cịn ghi chép dã sử, sƣu tầm những sáng tác dân gian. Thời gian này
ông tham gia vào một tổ chức bí mật chống Pháp do Nguyễn Thái Học lãnh
đạo, thời gian sau tổ chức bị bại lộ và ơng bị bắt giam tại nhà tù Hoả Lị (Hà
Nội). Cha mẹ ông đã phải sử dụng hết gia tài cứu ơng thốt chết. Ngƣời mẹ
ơng cũng qua đời vì bệnh tật. Ra tù, Lan Khai trở lại quê chuyên tâm vào dạy
học, dịch sách, sƣu tầm văn học và sáng tác.
Đƣơng thời, ơng nổi tiếng là ngƣời có thú chơi sách, ơng đã lập một thƣ
phịng lớn đủ loại sách Đông, Tây, Kim, Cổ (bằng mọi cách sƣu tầm hoặc gửi
bạn bè hải ngoại mua). Ông dành mọi thời gian vào nghiên cứu sách vở, tự
học và sáng tạo nên vốn kiến thức của Lan Khai rất rộng, đƣợc các trí thức
đƣơng thời quý trọng.