Đề tài: Phân tích những đặc trưng của thể loại truyện ngắn. Vận dụng lý
thuyết ấy để phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
1. Lý thuyết
1.1 Những khái niệm về truyện ngắn
Thứ nhất: Theo cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” của Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên thì khái niệm truyện ngắn là: tác phẩm
tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các
phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của
nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi
không nghỉ.
Thứ hai: Lý luận văn học đang tồn tại rất nhiều các quan điểm khác nhau
về thuật ngữ truyện ngắn. Đó là bốn nhóm quan điểm về truyện ngắn của
những nhà văn đã từng sáng tác nhiều truyện ngắn.
Nhóm thứ nhất: tiêu biểu là Pauxtôpxki (1892 – 1968). Ông xác định:
“Thực chất truyện ngắn là gì? Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là một truyện viết
ngắn gọn, trong đó, cái không bình thường hiện lên như một cái gì bình
thường và cái gì bình thường hiện lên như một cái gì không bình thường”.
Quan niệm này gần gũi với quan điểm của bậc tiền bối Geoth khi cả hai
cùng nhấn mạng đến yếu tố bất thường, đột biến, một chuyện lạ làm ta kinh
ngạc.
Nhóm thứ hai: Tiêu biểu là Nguyễn Kiên với quan niệm “mỗi truyện ngắn
là một trường hợp…Trong quan hệ giữa con người và đời sống, có những
khoảnh khắc nào đó, mối quan hệ nào đó được bộc lộ. Truyện ngắn phải
nắm bắt được cái trường hợp ấy”. Trong cách diễn đạt của Nguyễn Kiên đã
nói đến trường hợp như là một tính chất của truyện ngắn: một (một trạng
thái tâm lý, một khoảng khắc đời sống, một vấn đề nhân tâm thời đại, một
1
khía cạnh của tính cách…) trường hợp (chỉ ý nghĩa của điển hình sự vật, sự
việc, tình huống…). Khi quan niệm của mỗi truyện ngắn là một trường hợp
có nghĩa là nhà văn đã vận dụng toàn bộ kinh ngiệm đời sống tại những thời
khắc tiêu biểu, lóe sáng và từ đó vạch ra được bản chất quy luật của đối
tượng phản ánh.
Nhón thứ ba: tiêu biểu là nhà văn Nguyễn Công Hoan với quan niệm
“truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi
tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu dùng tiếng có cân
nhắc…Muốn truyện ấy là truyện ngắn, chỉ nên lấy một trong ngần ấy làm ý
chính, làm chủ đề cho truyện…Những chi tiết trong truyện chỉ nên xoay
quanh chủ đề ấy thôi…Vậy thì mỗi truyện chỉ cần một ý – một ý thôi”.
Nhón thứ tư: tiêu biểu là nhà văn Nguyên Ngọc với “quan niệm truyện
ngắn là một bộ phận của tiểu thuyết nói chung, vì thế, không nên nhất thiết
trói buộc truyện ngắn vào những khuôn mẫu gò bó…Truyện ngắn vốn có
nhiều vẻ. Có truyện về cảm một đời người, lại có truyện chỉ ghi lại một vài
giây phút thoáng qua”.
Đó là những quan niệm về truyện ngắn của các tác giả rút ra từ thực tế sáng
tác của mình. Vì thế cho nên những quan điểm có tính nghề nghiệp rất rõ…
1.2 Những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện ngắn
Để tìm hiểu những đặc trung cơ bản của truyện ngắn ta cần tìm hiểu
những nội dung sau:
1.2.1 Về dung lượng:
Truyện ngắn có dung lượng nhỏ, ngắn gọn mà cô đúc nên có sức ám ảnh
lớn. Nó tập trung vào một hoặc một vài biến cố trong một không gian, thời
gian nhất định, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ và sự liên tưởng cho người đọc. Ví
dụ: Truyện ngắn Vi hành của Nguyễn Ái Quốc dịch ra tiếng Việt chỉ hai
2
trang sách, được viết dưới hình thức một bức thư kể về một sự kiện là tác giả
bị nhận nhầm là Khải Định. Cốt truyện không có gì, sự kiện đơn giản, dung
lượng rất ngắn nhưng truyện lại có sức công phá lớn, tác động mạnh mẽ vào
ý thức, khêu gợi trí tưởng tượng của người đọc để đặt ra vấn đề chính trị - xã
hội, vấn đề dân tộc, vấn đề đấu tranh…
1.2.2 Về đề tài:
Truyện ngắn đề cập đến mọi đề tài phong phú, đa dạng, chạm đến mọi
ngóc ngách đời sống con người. Trên cùng một đề tài, mỗi nhà văn lại có
cách khai thác khác nhau, đem lại sắc thái riêng cho tác phẩm của mình
VD: Cùng viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Ngô
Tất Tố đề cập đến sự bần cùng hóa, phá sản về vật chất của họ; còn ngòi bút
Nam Cao lại xoáy vào sự tha hóa về nhân cách, phá sản về tinh thần ở những
con người ấy.
1.2.3 Về kết cấu:
Tuy dung lượng nhỏ nhưng truyện ngán có thể có những kết cấu linh hoạt.
Kết cấu truyện ngắn không gồm không gian, thời gian nhiều tầng bậc, nhiều
tuyến, mà được tổ chức theo kiểu tương phản, liên tưởng. Truyện ngắn có
thể có các kiểu kết cấu sau đây:
- Kết cấu vòng tròn (đầu cuối tương ứng): Chí Phèo (Nam Cao)
- Kết cấu theo trục thời gian: Truyện được kể theo thời gian, theo diễn biến
của dòng sự kiện: Chữ người tử tù(Nguyễn Tuân)
- Kết cấu tâm lý: Truyện được kể men theo dòng tâm lý nhân vật, làm sáng
rõ nội tâm nhân vật và tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện: Đời thừa (Nam
Cao).
- Kết cấu đồng hiện: Nhà văn miêu tả sự kiện, quan sát tình huống ở các địa
3
điểm khác nhau trong cùng một thời điểm. Kiểu kết cấu này đem lại khả
năng mở rộng dung lượng cho tác phẩm: Bức tranh (Nguyễn Minh Châu).
- Kết cấu trùng phức (kết cấu truyện lồng trong truyện): Người kể chuyện
đứng ra ngoài, đóng vai trò là đạo diễn để tổ chức diễn biến câu chuyện qua
lời kể, qua đó hoàn thiện chân dung NV: Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn
Minh Châu).
- Kết cấu mở: Truyện kết thúc nhưng cái kết còn để ngỏ, mở ra những khả
năng liên tưởng rộng lớn: Chí Phèo (Nam Cao) Vợ nhặt (Kim Lân).
1.2.4 Về cốt truyện:
Cốt truyện là một đặc trưng thi pháp của truyện ngắn vì nó là kết quả của
sự sáng tạo của nhà văn, là một phương thức khắc họa số phận và tính cách
nhân vật, qua đó thể hiện đời sống một cách chân thực. Dựa vào cốt truyện,
có thể chia làm hai loại truyện:
Truyện không có cốt truyện (hoặc cốt truyện rất mờ nhạt): do chủ ý nghệ
thuật của nhà văn chỉ nhằm thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật trong mối
liên hệ với hoàn cảnh. Truyện chỉ có những ý tưởng, không có sự kiện gay
cấn, thời gian cụ thể, thậm chí không có đầu đuôi (truyện ngắn Thạch Lam).
Truyện ngắn có cốt truyện rất chú ý xây dựng những tình tiết, sự kiện bộc
lộ tính cách của nhân vật và thúc đẩy hướng phát triển, vận động của mạch
truyện. Bản thân cốt truyện là hệ thống các sự kiện, được chia theo lớp lang
từ đầu đến cuối truyện. Các sự kiện càng gay cấn, nổi bật càng tạo kịch tính,
sức hấp dẫn cho truyện (Chí Phèo - Nam Cao).
1.2.5 Về nhân vật:
Nhân vật là linh hồn của tác phẩm, là người phát ngôn cho tư tưởng của
nhà văn. Do đó, xây dựng nhân vật là điểm quan trọng của truyện ngắn.
4
Nhân vật trong truyện ngắn ít hơn tiểu thuyết và thường bắt buộc phải được
xây dựng theo nguyên tắc điển hình hóa. Nhân vật phải được đặt trong một
hoàn cảnh cụ thể, vừa mang tính chung phổ quát vừa mang tính riêng độc
đáo. Trong truyện ngắn, nhân vật là một mảnh nhỏ của thế giới, là hiện thân
cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của
con người, phát ngôn trực tiếp hoặc gián tiếp cho tư tưởng nhà văn. Ngoài
ra, còn có loại nhân vật tư tưởng.
1.2.6 Về điểm nhìn, người kể chuyện và phương thức kể chuyện:
* Điểm nhìn có 3 loại: Điểm nhìn bên trong; Điểm nhìn bên ngoài; Điểm
nhìn toàn tri.
* Người kể chuyện: Người kể chuyện tường minh (xưng Tôi); Người kể
chuyện hàm ẩn.
* Phương thức kể chuyện:
- Trong truyện ngắn, người ta thường dùng nhiều cách kể chuyện. Các nhà
văn thường thay đổi cách kể và có thể có các hình thức kể hỗn hợp. Có hai
hình thức phổ biến là:
+ Tường thuật lại quá trình, diễn biến sự việc: Vợ nhặt (Kim Lân)
+ Miêu tả lại diễn biến sự kiện: Vi hành (Nguyễn Ái Quốc)
- Để nhận thức phương thức kể chuyện, người ta căn cứ vào các tình huống
kể chuyện:
+ Tình huống khách quan: Tác giả đứng bên ngoài kể lại điều xảy ra: Chiếc
lá cuối cùng (Ohenry)
+ Tình huống chủ quan: Tác giả hoặc người kể chuyện tự đóng vai trò là
nhân vật chính của tác phẩm; kể lại những sự kiện, hành động, việc làm, ý
nghĩa hoặc mối quan hệ người – người, hoặc phân tích, bình luận chung.
Cũng cần chú ý đến quan điểm của người trần thuật trong truyện ngắn. Quan
5
điểm đó thể hiện trong cách kể, nhưng cũng có khi thái độ bề mặt qua ngôn
ngữ lại đánh lừa ta (Chí Phèo – Nam Cao). Truyện ngắn cũng thường có
viễn cảnh – khung cảnh được mở ra trong tương lai mà qua tác phẩm người
đọc phát hiện hoặc cảm nhận được.
1.2.7 Về cách xây dựng tình huống:
Tình huống là thời điểm, khoảnh khắc nhất định trong tác phẩm, ở đó tập
trung điểm nút chủ đạo trong tác phẩm của nhà văn. Tạo tình huống là một
đặc điểm thi pháp truyện ngắn. Do dung lượng nhỏ, truyện ngắn buộc phải
tìm đến một tình huống – tức là một khoảnh khắc đặc biệt trong đời sống –
để thể hiện tập trung mối quan hệ con người, bật sáng tư tưởng của bản thân
tác giả. Truyện ngắn có thể có một hay nhiều tình huống, tạo thành một hệ
thống.
Các kiểu tình huống truyện tiêu biểu là: tình huống nhận thức, tình huống
tâm lý, tình huống lựa chọn…
Tình huống truyện ngắn thường rất độc đáo, ấn tượng, gây hiệu quả thẩm mĩ
cao.
1.2.8 Về chi tiết nghệ thuật:
Đây là một yếu tố giữ vai trò trọng yếu trong tác phẩm tự sự. Truyện ngắn
có thể thiếu cốt truyện nhưng không thể thiếu chi tiết nghệ thuật.
Chi tiết trong truyện ngắn hay tiểu thuyết đều nhằm bộc lộ tính cách, tâm tư
nhân vật, đan dệt nên các tình huống truyện, đều cùng có hai loại chi tiết:
Chi tiết trung tâm và chi tiết phụ trợ. Nhưng chi tiết ở truyện ngắn thường ẩn
chứa dung lượng phản ánh rất lớn. Cũng có nghĩa là tính cô đọng, hàm súc
và tượng trưng của chi tiết cao. Một chi tiết nổi bật có thể gợi cho người đọc
6
liên tưởng đến cả một trạng thái nhân sinh xã hội, suy rộng ra bề sâu, bề xa
của nội dung phản ánh.
1.2.9 Về ngôn ngữ:
Ngôn ngữ trong truyện ngắn rất chọn lọc, cô đúc.Ngôn ngữ truyện ngắn
hiện đại còn có các tính chất: tính biểu cảm, tính chính xác, tính hình tượng,
tính hệ thống, tính đa thanh, tính đối thoại.
Đặc điểm trần thuật của truyện ngắn: Tính chấm phá. Do không phản ánh cả
một quá trình cuộc sống trong không gian rộng, thời gian dài như ở tiểu
thuyết nên truyện ngắn thiên về lối hành văn khơi gợi hơn là miêu tả tỉ mỉ,
câu văn nhiều ẩn ý, tạo chiều sâu cho tác phẩm.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản của thể loại truyện ngắn. Đó chính
là những định hướng để chúng ta có thể tiếp cận, phân tích và làm rõ những
truyện ngắn cụ thể.
2. Phân tích nội dung
2.1 Phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” thông qua những đặc trưng của
thể loại truyện ngắn.
2.1.1 Giới thiệu tác giả tác phẩm
Nguyễn Trung Thành là bút danh của Nguyên Ngọc trong thời kì vào
hoạt động ở chiến trường miền Nam. Ông thuộc thế hệ những nhà văn
trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Những
sáng tác của Nguyên Ngọc thường đậm đà tính chất sử thi, đề cập đến những
vấn đề trọng đại của dân tộc, của đất nước, qua những nhân vật anh hùng.
Nguyên Ngọc có vốn sống khá phong phú và sự gắn bó sâu sắc với chiến
trường Tây Nguyên, với những dân tộc ít người.
7
Mảnh đất Tây Nguyên và con người Tây Nguyên đã xuất hiên trong
những sáng tác của Nguyên Ngọc với một tinh thần quật cường, thiết tha với
cách mạng, yêu quý tự do, chân thành, đôn hậu…Cùng với tác phẩm Đất
nước đứng lên, Rừng xà nu, có thể coi như một bản anh hùng ca của nhân
dân Tây Nguyên anh hùng chống kẻ thù xâm lược, mà dân làng Xô Man
trong truyện là những con người tiêu biểu. Đại diện cho dân làng này phải kể
đến những nhân vật thiếu niên như Heng, như Tnú, như Dít và già Mết…
Bên cạnh đó còn có một nhân vật hết sức quan trọng là cây xà nu. Cây xà nu
là hình tượng nổi bật xuyên suốt truyện ngắn này. Nó được tác giả dụng
công mô tả ,và trên thực tế, hình tượng cây xà nu đã mang lại hiệu quả đáng
kể.
Trong bài viết Về một truyện ngắn – Rừng xà nu in trong tác phẩm văn
học 1930-1975, chính tác giả đã tâm sự: Ngay từ năm 1962, trên đường cùng
một số văn nghệ sĩ từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam, đến miền Tây
tỉnh Thừa Thiên Huế giáp Lào , Nguyên Ngọc được tấn mắt trông thấy
những rừng xà nu bát ngát “xanh tít tận chân trời”. Đó là những rừng cây
“hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ
nhựa, tán lá vùa thanh nhã, vừa rắn rỏi”. Những rừng cây này đã gây ấn
tượng mạnh mẽ khơi nguồn cảm hứng cho Nguyên Ngọc để 3 năm sau
(1965) nó trở thành hình tượng chính trong truyện ngắn tiêu biểu của văn
học thời chống Mĩ - truyện ngắn “Rừng xà nu”.
2.1.2 Kết cấu tác phẩm, kết cấu của hệ thống nhân vật
Thứ nhất: Kết cấu tương phản trong tác phẩm “rừng xà nu”.
Trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, kết cấu tương phản được
chia làm hai kết cấu cụ thể: Đó là hình ảnh làng Xô Man anh hùng với sự
8
tàn bạo của quân thù; Làng Xô Man đau thương với làng Xô Man chiến
thắng sau đồng khởi.
“Hình ảnh làng Xô Man anh hùng với sự tàn bạo của quân thù” được
tác giả khắc họa rất chi tiết và chân thực. Đó hình ảnh những nhân vật anh
hùng, tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn thời đại vừa đậm đà phong cách
Tây Nguyên. Mặc cho sự tàn bạo của quân thù, họ vẫn hiên ngang, kiên
cường và bất khuất. Những anh hùng được kể tới trong đó đều có tính đại
diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng
trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt
anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng trong cuộc đời
chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản : gan dạ, trung
thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Chiến công của mỗi người tuy đa
dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên
không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường
ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều
giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân
vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa
cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều
muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc.
Sự tàn bạo của quân thù được thể hiện ngay từ đầu tác phẩm với hàng
loạt chi tiết miêu ta sự tàn phá hủy diện cây xà nu. Thâm nhập vào tác phẩm
là sự tàn ác của bọn giặc tay sai khi bắt bớ và sát hại nhân dân, sát hại cán bộ
cách mạng. Những nhân vật trong truyện phải hứng chịu nhiều nỗi đau và
mất mát do sự tàn bạo ấy gây ra.
Hình ảnh “làng Xô Man đau thương với làng Xô Man chiến thắng sau
đồng khởi”. Với sự tàn bạo của quân thù làng Xô Man đã phải chịu đựng rất
9
nhiều đau thương và mất mát. Đó là hình ảnh làng Xô Man phải chịu hậu
quả tàn khốc của chiến tranh gây ra. Bà Nhan, anh Sút vì giúp đỡ cán bộ
cách mạng nên đã bị chặt đầu. Anh Quyết gắn bó với làng cũng hi sinh dưới
họng súng kẻ thù. Đến mẹ con Mai bị bọn thằng Dục tra tấn cho đến chết là
niềm đau lớn nhất đối với Tnú nói riêng và sự đau thương mất mát nói
chung của dân làng Xô Man. Đến Tnú là sự mất đi mười đầu ngón tay khi
dũng cảm ra cứu mẹ con Mai. Và cả những cây xa nu nữa, đó là biểu tượng
của dân làng Xô Man phải chịu đang thương mất mát.
Đối lập với sự đau thương mất mát đó là tâm trạng vui tươi, hồ hởi, lạc
quan về tương lai của dân làng Xô Man sau chiến thắng đồng khởi. Đó là sự
quên đi nỗi đau riêng mình để bảo vệ người khác, đó là niềm tin vào Đảng,
vào cách mạng, niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Thứ hai: Kết cấu tương phản trong hệ thống nhân vật. Sự đối lập
tương phản của các nhân vật đã tạo cho truyện ngắn “Rừng xà nu” những
tình huống truyện, những tình tiết hấp dẫn và những xung đột mang tính lịch
sử của thời đại. Hệ thống nhân vật chính diện trong làng Xô Man. Nổi bật
lên trong tập thể nhân vật ấy chính là nhân vật Tnú, một nhân vật độc đáo
giàu chất sử thi với những phẩm chất tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng.
Đó là một con người gan góc, táo bạo, trung thực, biết vượt lên mọi đau đớn
và bi kịch cá nhân để quyết tâm ra đi trả thù cho quê hương và gia đình. Đó
là con người có tinh thần kỉ luật cao, giàu lòng yêu thương đối với mọi
người…Ngoài Tnú, các nhân vật chính diện khác như cụ Mết trầm ngâm,
lừng lững như cây cổ thụ, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần và vật chất có
tính truyền thống của dân tộc Tây Nguyên đến vẻ đẹp mảnh mai, hiền diệu
nhưng đầy cứng rắn, kiên quyết của Dít như một hậu thân trực tiếp của Mai;
10
bé Heng như cây xà nu mới lớn, tuy còn non trẻ nhưng đã cho người đọc
thấy hình ảnh của cây xà nu vạm vỡ tràn đầy sức sống của ngày mai.
Đối lập với những nhân vật trên đó là Dục – Nhân vật phản diện của truyện
với thú tính tàn bạo, bất nhân đã không ít lần gây ra nỗi đau cho dân làng.
Ở đây suy rộng ra là sự đối lập với những người con anh hùng của làng Xô
Man một lòng theo Đảng, theo cách mạng với một bên là những kẻ tay sai
bán nước, độc ác và bất nhân. Một bên là nhân dân Tây Nguyên anh hùng
với một bên là bè lũ bán nước và cướp nước…
2.1.3 Các chi tiết nghệ thuật đắt giá và bút pháp chấm phá trong tác phẩm
Trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta dễ dàng nhận thấy ba
chi tiết nghệ thuật được coi là đắt giá nhất của truyện ngắn.
Thứ nhất: Hình ảnh bàn tay của Tnú. Hình ảnh bàn tay Tnú xuất hiện
nhiều lần trong tác phẩm góp phần khắc họa chân dung Tnú và khái quát chủ
đề tư tưởng của tác phẩm. Nhà văn đã tả bàn tay Tnú bằng ngòi bút mang
đậm chất sử thi. Hình tượng bàn tay Tnú hiện lên vừa thực vừa có ý nghĩa
biểu tượng khái quát cao. Hình ảnh bàn tay Tnú gợi ra nhiều đau thương mất
mát của Tnú cũng như của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ, bàn tay là chứng tích cho những đau thương mất mát của Tnú.
Hình ảnh bàn tay Tnú là 1 hình tượng có ý ngĩa nghệ thuật to lớn góp phần
thể hiện những phẩm chất cao đẹp của nhân vật. Đó là bàn tay của sự gan
góc, thể hiện sự bộc trực khi học chữ với Mai.
Bàn tay thể hiện tấm lòng yêu thương, trái tim nhân hậu của anh đối với vợ
con khi Tnú lao ra cứu vợ con lúc thằng Dục tra tấn.
Bàn tay thể hiện tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng khi một
lòng theo Đảng và cách mạng.
11
Bàn tay thể hiện ý chí kiên cường bất khuất, sức mạnh vươn lên đau
thương thực hiện chân lý: "Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo"…
Bàn tay Tnú còn thể hiện sức sống kiên cường của con người Tây Nguyên,
núi rừng Tây Nguyên không chịu khuất phục trước kẻ thù.
Thứ hai: Hình ảnh nhựa cây xà nu và hình ảnh ngọn xà nu nhọn hoắt
phóng thẳng lên bầu trời.
“Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc… Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào
ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có
cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ
ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa úa ra, tràn trề, thơm ngào
ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại
thành từng cục máu lớn”. Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện đã cho thấy
cuộc đấu tranh quyết liệt của dân làng. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói
lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của
kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân
làng Xô Man ngã xuống.
Nhưng hình tượng cây xà nu cũng tượng trưng cho sức sống dẻo dai, mãnh
liệt của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên. “Trong rừng ít có loại
cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có
bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên
bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Chúng phóng
lên rất nhanh để đón lấy ánh sáng…”
“Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê”. Rừng
xà nu mang ý nghĩa biểu tượng cho con người. “Đặt trong hệ thống chủ đề,
trong mạch truyện, những cây xà nu này mang tính biểu tượng cho những
Tnú, Mai, Dít, bé Heng… thế hệ trẻ của làng Xô Man bất khuất, gắn bó với
12
cách mạng”. Chỉ đơn giản một chi tiết này, thấy cây xà nu giống người biết
mấy! “Nhưng cũng có những cây vượt lên đựơc đầu người, cành lá sum sê
như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi
chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường
tráng”. Hình ảnh đó giống Tnú biết bao, Tnú bị bọn giặc chém nhiều nhát
sau lưng, trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại đó ứa
một vệt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện, tím thẫm như “nhựa xà
nu”. Nhưng sau khi ở tù vượt ngục trở về, những vết thương đã lành
lặn, Tnú khoẻ mạnh, cường tráng, rồi trở thành một chiến sĩ kiên cường.
Cái chết của những cây xà nu giống cái chết của mẹ con Mai . “Có những
cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở
những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng; vết thương không lành
được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”.
Và đây, Dít giống một cây xà nu non lao thẳng lên trời bất khuất. Dít nhỏ
như lanh lẹ, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra từng cho cụ
Mết và thanh niên. Chúng bắt đựơc con bé. Chúng để con bé đứng ở giữa
sân, lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một. Không bắn trúng, đạn chỉ
sượt qua tai, sém tóc, váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng
rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó nó im bặt. Nó đứng lặng giữa
bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một
cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng.
Tác giả đã lấy hình ảnh xà nu làm biểu tượng cho những nhân vật trong
truyện và từ những nhân vật trong truyện ta lại nhìn thấy hình ảnh cây xà nu
kiên cường bất khuất…
Truyện ngắn “Rừng xà nu” đã thành công khi sử dụng bút pháp chấm phá
để khắc hoạ hình tượng nhân vật.
13
Cụ Mết là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền
thống và cội nguồn – là chỗ dựa tinh thần và là pho sử sống – là nhịp cầu nối
giữa quá khứ và hiện tại của các thế hệ người dân Tây Nguyên. Cụ xuất hiện
với một dáng hình oai phong, lẫm liệt : “ râu dài tới ngực, mắt vẫn sáng và
xếch ngược. Ông cụ ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn...”.Tiếng
nói của cụ “ồ ồ dội vang trong lồng ngực”. Tinh cách dứt khoát: chỉ một lời
khen “Được!” Cụ là đại diện của quần chúng, là các gạch nối giữa Đảng và
đồng bào dân tộc “cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn”; “Chúng nó
đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Trong những giờ phút trọng đại nhất
giữa cái chết và cái sống, Cụ Mết đã thay mặt Tnú lãnh đạo buôn làng nổi
dậy đồng khởi, với“lưỡi mác dài trong tay....thằng Dục nằm dưới lưỡi mác
của cụ Mết”.
Tnú - một chàng trai dũng mãnh, là niềm tự hào của buôn làng Xô Man Tnú còn là một con người biết vươn lên mọi đau đớn và bi kịch cá
nhân: Chứng kiến kẻ thù giết vợ con trong nỗi đau đớn và xót xa vô cùng
Anh đã bất chấp sự can ngăn của cụ Mết xông ra giữa vòng vây của kẻ thù
để cứu vợ con. Bị bắt, Tnú chịu đựng sự tra tấn man rợ của kẻ thù, hai bàn
tay bị đốt cháy, “mười ngón tay đã trở thành mười ngọn đuốc” anh vẫn
không kêu van... Sau đó anh vẫn tham gia bộ đội để giết giặc trả thù cho
người thân và quê hương.
Cùng với TNú, là hình ảnh của Mai và Dít, tiêu biểu cho hình ảnh của
người phụ nữ mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mỹ.
Thuở bé, Mai đã vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ. Khi trở thành người vợ,
người mẹ, Mai đã dũng cảm lấy thân mình để bảo vệ đứa con thơ và chị đã
bất khuất hy sinh trước những trận mưa cây sắt của thằng Dục.
14
Còn Dít (em gái của Mai), là một cô gái gan dạ, có tinh thần trách nhiệm
cao, có bản lĩnh từ bé: liên lạc cho du kích, bị bắt, bị uy hiếp “đạn xượt qua
tai, xém tóc, cày đất xung quanh cho hai chân nhỏ...đôi mắt... vẫn nhìn bọn
giặc bình thản...” Dít chính là hiện thân và là sự tiếp nối của Mai: tự giác và
quyết liệt trong cuộc đối mặt với kẻ thù.
Bé Heng là một chú bé nhanh nhẹn, thông minh, thuộc con đường và
những hầm chông, những ác chiến điểm của làng mình như thuộc lòng bàn
tay mình.Tuy chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, đóng vai trò của người dẫn
đường, nhưng hình của cậu bé lại hết sức ấn tượng. Bé Heng đã trưởng
thành cùng với cuộc chiến đấu vũ trang của dân làng Xô Man.
Em chính là hình ảnh mang những nét tương đồng với lứa cây xà nu mới
lớn, mang trong mình bao sinh lực và nhựa sống, hứa hẹn sẽ trở thành
những cây xà nu mạnh mẽ và bất tử.
2.1.4 Truyện ngắn Rừng Xà-nu hướng tới khắc hoạ 1 hình tượng nhân sinh,
khám phá nét bản chất trong tâm hồn con người
Thứ nhất: Đó là khắc họa thành công hình tượng nhân sinh: sự kiện
đồng khởi của đồng bào Tây Nguyên trong chế độ Mỹ-Diệm đen tối, tàn
bạo.
Sự kiện đồng khởi của đồng bào Tây Nguyên là sự kiện có tính chất toàn
dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không
có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền
Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tính thế bị o
ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc
sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi
hành luật 10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người
kháng chiến cũ. Khi làng Xô Man đứng dậy đấu tranh thì gương mặt của
15
làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm
đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận
những thử thách mới.
Thứ hai: Truyện ngắn đã khắc một trạng thái tồn tại của con người:
“Con người Tây Nguyên yêu nước từ đau thương mà đứng dậy chiến đấu, từ
sự giác ngộ của Đảng mà đồng khởi, từ chiến đấu anh hùng, tự giác mà trở
thành những anh hùng cách mạng, có sức sống tiềm tàng”.
Con người Tây Nguyên yêu nước từ đau thương mà đứng dậy chiến đấu:
Trong truyện đó là sự tra tấn, giết hại người dân trong làng khi giúp đỡ cán
bộ cách mạng. Từ bà Nhan, anh Sút vì đi nuôi cán bộ mà bị chặt đầu. Người
bạn của dân làng Xô Man là cán bộ Quyết cũng rơi vào bi kịch chung đó là
bị bọn giặc giết hại. Mai tham gia cách mạng rồi cũng bị bọn thằng Dục tra
tấn dã mang cho đến chết. Tnú cũng vậy, anh bị bắt và tra tấn nhiều lần,
mười ngón tay bị mất đi một đốt… Từ những đau thương mất mát ấy, dân
làng Xô Man càng căm thù giặc, biến đau thương thành hành động… Đó là
sự kiện đồng khởi của đồng bào Tây Nguyên hay sự kiện cụ Mết cùng dân
làng hạ gục thằng Dục và tay say khi chúng tra tấn Tnú.
Con người Tây Nguyên được giác ngộ mà đồng khởi: Dưới ánh sáng của
lý tưởng cách mạng và niềm tin vào đảng dân làng Xô Man ngày càng nhận
ra kẻ thù chung của dân tộc. Đó chính là Mĩ - Diệm và bè lũ tay sai. Những
người truyền lửa cách mạng cho dân làng và khiến dân làng giác ngộ lý
tưởng của Đảng không ai khách đó chính là cụ Mết (“chúng nó cầm súng thì
mình phải cầm giáo; Cán bộ là Đảng! Đảng còn thì núi nước này còn!”…)
và còn cả những thế hệ đi sau như Tnú, Mai, anh Quyết. Đó là những người
trực tiết truyền ngọn lửa cách mạng tới nhân dân làng Xô Man khiến họ giác
ngộ và đứng lên đấu tranh.
16
Con người Tây Nguyên từ chiến đấu anh hùng, tự giác mà trở thành
những anh hùng cách mạng, có sức sống tiềm tàng.
Tiêu biểu đó là nhân vật Tnú- người anh hùng của dân làng Xô Man. Khi
Tnú còn nhỏ anh có trọng trách đi giao thư cho cán bộ, bị giặc bắt và tra tấn
(“Lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém.”). Ba năm sau vượt ngục trở về
anh lại tiếp tục hoạt động cách mạng. Sau đó anh phải chịu nhiều đau thương
hơn nữa khi phải chứng kiến cảnh vợ con mình bị tàn sát; bàn tay của mình
thị bị đốt. Nhưng với Tnú thì từng đó vần là chưa đủ để hạ gục một chiến sĩ
cách mạng như anh. Vì trong dòng máu đang chảy trong người đó là dòng
máu của những anh hùng cách mạng- dòng máu có sức sống tiềm tàng.
2.2 Kết luận
Như vậy thông qua việc phân tích, chứng minh ta đã thấy được những
đặc trưng cơ bản của thể loại truyện ngắn. Đây là một thể loại phổ biến của
văn học từ trước cho tới nay. Việc vận dụng thể loại này vào việc sáng tác
văn học đã và đang mang lại cho nhưng nhà văn sự thành công trong sự
nghiệp văn chương.
Từ những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện ngắn, ta áp dụng vào phân
tích tác phẩm cụ thể để làm rõ hơn nữa những đặc trưng ấy. “Rừng xà nu”
của Nguyễn Trung Thành chính là một minh chứng cụ thể đã cho ta thấy chi
tiết những đặc trưng thể loại mà nhà văn áp dụng vào trong đứa con tinh
thần của mình một cách chân xác nhất. Từ đó không chỉ thấy được đặc trưng
thể loại trong một tác phẩm cụ thể mà ta còn thấy được sự kì công của tác
giả khi xây dựng tác phẩm theo những đặc trưng của thể loại.
17
3. Tài liệu tham khảo
1. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2007), Truyện ngắn Việt Nam, lịch sử - thi pháp –
chân dung, Nxb Giáo dục
2. Hà Minh Đức (chủ biên) (1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục
3. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục
4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục
5. Nguyễn Đức Hạnh (2013), Đề cương bài giảng Lý luận văn học II, Nxb
ĐHSP TN
6. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn
thể loại, Nxb ĐHQG HN
7. />8. />
18