BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
TRẦN MINH THÀNH
TỔ CHỨC THỰC HIỆN HƯƠNG ƯỚC
LÀNG VĂN HÓA Ở HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Hà Nội, năm 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SỰ PHẠM HÀ NỘI
Trần Minh Thành
TỔ CHỨC THỰC HIỆN HƯƠNG ƯỚC LÀNG VĂN HÓA
Ở HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Giáo dục và Phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ: THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Mai Lan
Hà Nội, năm 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của Đề tài
2.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.
Giới hạn nghiên cứu
5.
Phương pháp nghiên cứu
6.
Cấu trúc của Luận văn
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
HƯƠNG ƯỚC LÀNG VĂN HÓA
Trang
1
1.1
Tổng quan tình hình nghiên cứu tổ chức thực hiện hương ước làng
văn hóa
1
1.2
Hương ước
7
1.2.1
Khái niệm Hương ước
7
1.2.2
Nội dung của Hương ước
9
1.2.3
Vai trò của hương ước
13
1.3.
Làng văn hóa
16
1.3.1
Khái niệm Làng văn hóa
16
1.3.2
Tiêu chí Làng văn hóa
17
1.4.
Hương ước Làng văn hóa
20
1.4.1
Khái niệm hương ước Làng văn hóa
20
1.4.2
Vai trò của hương ước Làng văn hóa
20
1.4.3
Quy trình xây dựng hương ước làng văn hóa
23
Tổ chức thực hiện Hương ước Làng văn hóa
29
Khái niệm tổ chức và tổ chức thực hiện
29
1.5
1.5.1
1.5.2
Tổ chức thực hiện hương ước Làng văn hóa
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN HƯƠNG ƯỚC
LÀNG VĂN HÓA Ở HẢI PHÒNG
33
37
2.1.
Một số đặc điểm về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội của Hải Phòng
37
2.1.1
Một số đặc điểm về vị trí địa lý, chính trị, kinh tế thành phố Hải Phòng
37
2.1.2
Một số nét về lịch sử, văn hóa, xã hội con người Hải Phòng
38
Kết quả tổ chức thực hiện hương ước Làng văn hóa ở Hải Phòng
39
2.2.1
Quá trình xây dựng làng văn hoá và hương ước làng ở Hải Phòng.
37
2.2.2
Kết quả tổ chức thực hiện hương ước Làng văn hoá ở Hải Phòng
37
2.3
Thực trạng tổ chức thực hiện hương ước Làng văn hóa ở Hải Phòng
42
2.3.1
Thực trạng tổ chức thực hiện quy trình soạn thảo hương ước Làng văn hóa
42
2.4
Thực trạng mức độ tổ chức thực hiện xây dựng hương ước Làng văn hóa
44
2.4.1
Thực trạng mức độ tham gia của các tổ chức chính trị xã hội trong việc duy trì tổ
chức thực hiện hương ước làng văn hóa
44
2.4.2
Thực trạng mức độ thực hiện xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện hương ước
Làng văn hóa
46
2.4.5
Thực trạng mức độ thực hiện các bước xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện
hương ước làng văn hóa
47
2.4.6
Thực trạng mức độ thực hiện các nội dung quy định trong hương ước làng văn
hóa
49
2.4.7
Thực trạng mức độ thực hiện các nội dung tổ chức thực hiện hương ước làng
văn hóa tại Hải Phòng
52
2.4.8
Thực trạng tác động của hương ước làng văn hóa đối với người dân
53
Đánh giá chung về kết quả tổ chức thực hiện hương ước làng văn hóa Hải
Phòng và những tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
54
2.5.1
Tác động phát triển kinh tế, xây dựng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật
54
2.5.2
Tác động phát triển đời sống văn hóa – xã hội
55
2.5.3
Tác động của hương ước làng văn hóa tới việc thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật Nhà nước của người dân
56
2.2
2.5
Kết quả một số nhóm xã hội điển hình
57
Đánh giá mối quan hệ giữa các tổ chức chính trị xã hội trong việc tổ
chức thực hiện hương ước làng văn hóa tại Hải Phòng
55
2.6.1
Vai trò của trưởng làng văn hóa
58
2.6.2
Vai trò của các trưởng các dòng họ trong việc tổ chức thực hiện hương ước làng
59
2.6.3
Quan tâm, phát huy vai trò của tổ chức Hội Cựu chiến binh – tổ chức có uy tín
đối với xã hội và hệ thống chính trị
59
2.6.4
Tổ chức thực hiện hương ước làng luôn gắn với vai trò lãnh đạo của Chi bộ
Đảng, cấp ủy và Bí thư chi bộ
60
2.6.5
Các chức sắc tôn giáo có ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện hương ước làng
văn hóa
60
2.7
Những tồn tại, hạn chế trong việc tổ chức, thực hiện hương ước làng
văn hóa ở Hải Phòng
60
2.7.1
Sự thống nhất giữa trưởng làng và trưởng thôn chưa cao
60
2.7.2
Sự tham gia của các trưởng dòng họ không đều
61
2.7.3
Ý thức chấp hành hương ước của một bộ phận cư dân còn hạn chế
61
2.7.4
Việc xử lý các hành vi vi phạm hương ước chưa thật sự nghiêm minh
61
Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn tổ chức thực
hiện hương ước Làng văn hóa ở Hải Phòng
62
2.8.1
Nguyên nhân khách quan
62
2.8.2
Nguyên nhân chủ quan
62
2.8.3
Bài học kinh nghiệm
63
2.5.4
2.6
2.8
CHƯƠNG 3
66
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN HƯƠNG ƯỚC
LÀNG VĂN HÓA Ở HẢI PHÒNG
Các nguyen tắc đề xuất biện pháp tổ chức và thực hiện hương ước
làng văn hoá ở Hải Phòng
66
3.1.1
Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa
66
3.1.2
Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
66
3.1.3
Nguyên tắc đảm bảo hệ thống
66
3.1
Nguyên tắc đảm bảo phối hợp hài hòa giữa các lợi ích
67
Các biện pháp tổ chức thực hiện hương ước làng văn hoá ở Hải Phòng
67
3.2.1
Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ,chính quyền đối với
xây dựng làng văn hoá, hương ước làng
67
3.2.2
Kiện toàn và đẩy mạnh hoạt động của Ban chỉ đạo phong trào “ Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”
68
3.2.3
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động xây dựng hương ước
làng văn hóa
70
3.1.4
3.2
KẾT LUẬN
72
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ ĐẦY ĐỦ
BCH
Ban chấp hành
BCĐ
Ban chỉ đạo
BTP
Bộ Tư pháp
BTV
Ban Thường vụ
BTTUBTƯMTTQVN
Ban Thường trực Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
VHTT
Văn hoá Thông tin
CHXHCN
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
CP
Chính phủ
CT
Chỉ thị
GDP
Tổng thu nhập quốc dân
HĐND
Hội đồng nhân dân
HƯ
Hương ước
KHCN
Khoa học công nghệ
KL
Kết luận
NĐ
Nghị định
QĐCĐ
Quyết định chuyên đề
QĐ
Quyết định
TDTT
Thể dục Thể thao
TT
Thông tư
TTg
Thủ tướng Chính phủ
TS
Tiến sĩ
TTLT
Thông tư liên tịch
TU
Thành uỷ
TW
Trung ương
UB
Uỷ ban
UBND
Uỷ ban Nhân dân
UBMTTQ
Uỷ ban Mặt trận tổ quốc
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Ở nông thôn nước ta nói chung và nông thôn Hải Phòng nói riêng, làng đã
hình thành, phát triển từ lâu đời và có những đóng góp to lớn vào quá trình dựng
nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc. Trong tiến trình phát triển, làng
luôn có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng, bảo tồn và phát
triển bản sắc văn hoá dân tộc. Trong kho tàng văn hóa đa dạng, đặc sắc của làng
quê Việt Nam còn ẩn dấu một di sản văn hóa vô cùng quý giá, đó chính là các
hương ước hay nhân dân ta vẫn gọi nôm na là “lệ làng”. Trong lịch sử dân tộc,
hương ước được xem như hệ thống luật tục tồn tại song song với pháp luật của
Nhà nước nhưng không đối lập với pháp luật của Nhà nước. Hương ước đề cập
tới những nội dung cụ thể gắn với hoàn cảnh, phong tục tập quán lâu đời của
từng làng, là địa vực về địa lí, văn hóa, tôn giáo...Hương ước giúp cho làng xã
ràng buộc mọi thành viên trong làng bằng những nhiệm vụ, quyền lợi chung.
Hương ước, quy ước được coi là một công cụ quan trọng góp phần quản lý xã hội
trong phạm vi thôn, làng Việt Nam từ nhiều thế kỷ qua.
Thực tế quá trình xây dựng và phát triển nông thôn ở nước ta trong lịch sử
cũng như trong giai đoạn hiện nay đã chứng minh rằng bên cạnh việc quản lý xã
hội nông thôn bằng pháp luật vẫn nên duy trì hệ thống hương ước, quy ước. Bởi
đó là nét văn hóa truyền thống với nhiều thuần phong mỹ tục cần được duy trì để
bảo tồn những nét văn hóa đặc sắc của mỗi làng quê Việt Nam.
Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 7, ngày
10/6/1993, Đảng ta đã có chủ trương “khuyến khích xây dựng và thực hiện các
hương ước, các quy chế về nếp sống văn minh ở các thôn xóm”. Điều này đã trở
thành nền móng vững chắc cho việc xây dựng hệ thống thể chế về hương ước,
quy ước và thực hiện hương ước, quy ước ở nhiều địa phương trong cả nước.
Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nêu “thực
hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân, làm chủ thông qua đại diện là các cơ
quan dân cử và các đoàn thể, làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự
quản bằng các hương ước tại cơ sở phù hợp với pháp luật nhà nước”.
1
Trên cơ sở đó, từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, thực hiện sự
chỉ đạo của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
thành phố Hải Phòng đã triển khai xây dựng thí điểm mô hình Làng văn hóa. Từ
đó đến nay, Làng văn hóa không chỉ là một thuật ngữ mà đã trở thành một mô
hình hiện thực trong đời sống văn hóa xã hội, một phong trào có sức sống mạnh
mẽ, nhanh chóng lan rộng trong cả nước cũng như trên địa bàn thành phố Hải
Phòng, với sự phát triển đa dạng và phong phú. Cùng với việc triển khai xây
dựng làng văn hóa các làng biên soạn và xây dựng hương ước trở lại. Việc soạn
thảo hương ước tuân thủ theo những quy định của pháp luật, kế thừa những mặt
tích cực của các hương ước cổ, duy trì thuần phong mỹ tục, xây dựng nếp sống
văn hóa phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội. Vấn đề xây dựng và tổ chức thực
hiện hương ước làng văn hóa ở Hải Phòng cũng được đặt ra để phù hợp với cuộc
sống hiện tại.
Thành phố Hải Phòng được Chính phủ công nhận đô thị loại I cấp quốc gia
và năm 2017, Hội đồng Nhân dân thành phố đã ban hành Nghị quyết về xây dựng
nông thôn mới, quyết tâm phấn đấu đến năm 2020, 100% số xã trên địa bàn thành
phố đạt 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Đây là thuận lợi to lớn để các huyện
ngoại thành thành phố phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Do đó phong trào xây dựng làng văn hóa ở Hải Phòng nói chung
và việc tổ chức thực hiện hương ước làng văn hóa nói riêng sẽ chịu nhiều tác động
quan trọng, mạnh mẽ từ sự phát triển chung của thành phố.
Bên cạnh những hiệu quả quan trọng của hương ước như một công cụ quan
trọng hỗ trợ luật pháp để duy trì, phát triển thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn
mực đạo lý và đạo đức truyền thống trong sinh hoạt cộng đồng thì việc tổ chức thực
hiện hương ước hiện nay cũng còn nhiều vấn đề tồn tại, hạn chế. Qua quá trình triển
khai cho thấy, nội dung hương ước, quy ước ở nhiều nơi còn sơ sài, rập khuôn, hình
thức thể hiện còn nhiều hạn chế về kỹ thuật soạn thảo, câu chữ; thủ tục xây dựng,
soạn thảo, thông qua hương ước, quy ước ở một số nơi còn chưa theo đúng quy
định, chưa đảm bảo tính dân chủ, còn mang tính áp đặt...
Trong những năm qua, chính quyền các cấp từ thành phố tới cơ sở cùng
với các tầng lớp nhân dân đã có nhiều cố gắng trong phong trào xây dựng làng
2
văn hoá và tỏ chức soạn thảo, biên soạn hương ước. Thành phố và các địa
phương đã có nhiều văn bản chỉ đạo và chính sách, hướng dẫn việc xây dựng, tổ
chức và thực hiện hương ước. Việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của thành
phố trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi mỗi địa phương bên cạnh việc đầu tư phát
triển kinh tế còn cần phải phát huy các giá trị văn hóa riêng biệt, các thuần phong
mỹ tục để giữ gìn bản sắc văn hóa. Nếu như trước kia, mỗi bản hương ước là một
bức tranh tổng thể về vị trí địa lý, lịch sử phát triển cũng như các đặc trưng văn
hóa, xã hội, thuần phong mỹ tục của mỗi làng quê thì hiện nay hương ước chưa
thể hiện được điều đó, chưa phản ánh được nét đặc thù về kinh tế, văn hóa truyền
thống của mỗi làng. Các hương ước có xu hướng giống nhau. Cá biệt có những hương
ước có bố cục chương, điều không chặt chẽ, thiếu tính hệ thống, dường như sao chép
của nhau, nặng về giới thiệu thành tích. Ngôn ngữ thiếu chuẩn xác, dùng nhiều mỹ từ,
liên từ làm cho người đọc có thể hiểu theo nhiều nghĩa, đề ra nhiều chỉ tiêu không phù
hợp với thực tế, không khả thi... vỡ vậy rất khó thực hiện.
Vì tất cả những lý do chủ yếu trên, cho thấy việc thực hiện luận văn thạc sĩ về
đề tài “Tổ chức thực hiện hương ước làng văn hóa ở Hải Phòng” là cần thiết trong
giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng tổ chức thực hiện
hương ước làng văn hóa ở Hải Phòng để đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu
quả tổ chức thực hiện hương ước làng văn hóa ở Hải Phòng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện hương ước làng văn hóa;
- Khảo sát và đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện hương ước làng ở Hải Phòng.
- Biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện hương ước làng văn hóa ở
Hải Phòng.
3. Đối tượng khách thể và phạm vi nghiên cứu:
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp tổ chức thực hiện hương ước làng văn hóa ở Hải Phòng.
3.2 Khách thể nghiên cứu
3
Đề tài luận văn sẽ tiến hành nghiên cứu đánh giá thực trạng tổ chức thực
hiện hương ước làng văn hóa ở một số làng thuộc thành phố Hải Phòng.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn tiên hành nghiên cứu tại 75 làng đạt danh hiệu Làng văn
hóa; 30 làng đã phát động xây dựng làng văn hóa (xây dựng và thực hiện hương
ước) nhưng chưa được công nhận danh hiệu Làng văn hóa, bằng 2 loại phiếu:
một loại hỏi về quy trình, bố cục, hình thức, nội dung, nguyên tắc, tính chất,
phương pháp và vai trò của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, các dòng họ,
gia đình trong việc xây dựng và thực hiện hương ước; một loại phiếu hỏi nhân
dân về công tác tổ chức thực hiện hương ước, kết quả và tác động của hương ước
đến ý thức, gia đình và cộng đồng, đề xuất, kiến nghị...
4. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
4.1. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tổ chức thực hiện hương ước làng văn hóa tại
các huyện và làng ở Hải Phòng
4.2 Giới hạn về thời gian nghiên cứu
Thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện hương ước làng văn hóa ở Hải
Phòng từ năm 1995 - 2017
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản.
5.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi.
5.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
5.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
5.5.Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kế toán học.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phục lục, có kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện hương ước làng văn hóa.
- Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức thực hiện hương ước làng văn
hóa ở Hải Phòng;
- Chương 3: Một số biện pháp tổ chức thực hiện hương ước làng văn ở Hải Phòng.
4
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN HƯƠNG ƯỚC
LÀNG VĂN HÓA
1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu tổ chức thực hiện hương ước làng
văn hoá
Vấn đề khai thác, phát huy vai trò của văn hóa, của quy ước làng văn hóa
đối với đời sống xã hội đã được nhiều tác giả quan tâm, nhiều công trình, bài viết
đã được công bố với cách tiếp cận khác nhau.
Trong tác phẩm: “Việt Nam phong tục”, tác giả Phan Kế Bính có dẫn một bản
hương ước của làng Đề Kiều, xã Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh về vấn đề “nghĩa thương”.
Cố giáo sư Nguyễn Từ Chi trong tác phẩm “Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc
Bộ” đã có những khám phá vai trò của hương ước một cách gợi mở nhất, tác giả nhìn
nhận hương ước như một cương lĩnh điều hoà các quan hệ xã hội trong làng Việt. Phó
giáo sư, Tiến sĩ khoa học Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở Văn hóa Việt Nam đã
nêu “Mỗi làng là một “vương quốc” nhỏ khép kín với luật pháp riêng (mà các làng
gọi là hương ước).....Tình trạng này thể hiện quan hệ dân chủ đặc biệt giữ Nhà nước
phong kiến với làng, xã ở Việt Nam” [11, tr.96]. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam
do cố Giáo sư Trần Quốc Vượng chủ biên, đã nói về hương ước “Các cư dân trong
một cộng đồng lãng xã Việt ngày xưa vẫn phải tuân theo một hệ thống các lệ làng gọi
là hương ước, có thể coi đó là một hệ thống luật tục. Hương ước hàm chứa những
điều giáo huấn về một lối sống gọi là “thuần phong mỹ tục”. Nó đề ra các hình thức
trừng phạt đối với những việc làm trái với lệ làng và để ra những hình thức khen
thưởng đối với những việc làm tốt, có ích cho làng. Hương ước được xây dựng trên
cơ sở những mối quan hệ giữa các thành viên của cộng đồng làng xã với nhau, giữa
mỗi thành viên với cộng đồng, giữa các cộng đồng nhỏ trong làng và cộng đồng làng.
Nó không đối lập với luật pháp Nhà nước mà tồn tại song song với luật pháp nhà
nước...” [23, tr.109].
Tổng quan và tiếp cận nghiên cứu các tư liệu, tài liệu của các cuộc hội
thảo, của nhiều tác giả liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm xác định nội
dung của hương ước. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu, gồm các sách và bài
báo đã được công bố như: Cuốn sách “Lệ làng phép nước” (NXB Pháp lý,
5
H;1995) và "Hương ước và quản lý làng xã" (NXB Khoa học xã hội, H; 1998)
của tác giả Bùi Xuân Đính đã nêu lên mối liên hệ cũ và mới trong nội dung
hương ước xưa và nay, đồng thời, tác giả cũng nêu rõ những vấn đề mà hương
ước hiện nay cần giải quyết. Từ nguồn gốc, điều kiện xuất hiện hương ước, nội
dung cơ bản của hương ước, mối quan hệ giữa hương ước và pháp luật nhà nước
phong kiến, tác động tích cực, tiêu cực, đặt hương ước trong di sản của thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tác giả Hoàng Sơn Cường trong bài viết “Bài học về quản lý văn hóa được
rút ra từ tổ chức làng xã xưa” đăng trên Thông báo khoa học – Tập 3 của Trường
Đại học Văn hóa Hà Nội đã đưa ra những bài học quản lý văn hóa trong các lệ làng
xưa kia để bổ sung những điều thích hợp cho các quy ước nếp sống hôm nay [tr.17].
Tác giả Lê Thị Hiền trong bài viết “Văn hóa hương ước- từ truyền thống
đến hiện đại” trên Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, số 5, đã đề cập đến nguồn gốc,
vị trí, vai trò của văn hóa hương ước cổ. Bàn về nội dung tư tưởng chính của
hương ước mới và những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc
biên soạn và thực thi hương ước [tr.20].
Gần đây, cuộc vận động xây dựng và thực hiện hương ước làng văn hóa
được đẩy mạnh đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu hương ước thuận lợi hơn.
Trong tài liệu giảng dạy của Trường Cán bộ Quản lý VHTT - Bộ VHTT; "Hương
ước và một số vấn đề tổ chức quản lý việc xây dựng đời sống văn hóa mới ở nông
thôn" và tài liệu "Một số giá trị văn hóa truyền thống với đời sống văn hóa ở cơ
sở nông thôn hiện nay" do Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc ấn hành đã đề cập đến
nguồn gốc, vị trí, vai trò của hương ước trong đời sống xã hội hiện nay.
Thực hiện phong trào xây dựng làng văn hóa, những năm gần đây, các địa
phương đã có các nghiên cứu hương ước cổ để đề ra hướng đi cho “hương ước
mới” như: “Xây dựng qui ước làng văn hoá mới ở Hà Bắc”, Sở Văn hóa – Thông
tin Hà Bắc, 1993; Hương ước Hà Tĩnh, Sở VHTT Hà Tĩnh, 1996; Hương ước
Nghệ An, NXB Chính trị quốc gia, 1998; Hương ước Thái Bình, NXB Văn hóa
dân tộc, 2000...
Qua đây cho thấy, đã có rất nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học, các
địa phương về vấn đề xây dựng hương ước, tổ chức thực hiện hương ước.
6
Tuy nhiên, trên thực tế, việc ban hành và tổ chức thực hiện hương ước còn
có những hạn chế, khiếm khuyết. Mặc dù đã được các cơ quan Nhà nước, chính
quyền địa phương hết sức quan tâm thực hiện nhưng vẫn thể hiện nhiều thiếu sót.
Nhiều bản hương ước đã không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước. Việc nghiên cứu, soạn thảo hương ước vẫn mang nhiều ý nghĩa
chủ quan, chưa đi sâu vào đời sống nhân dân.
Để khắc phục tất cả những vấn đề nói trên, đòi hỏi không chỉ nỗ lực của
các nhà hoạch định chính sách mà cần cả sự tham gia của giới nghiên cứu khoa
học xã hội, sự đồng thuận của tất cả nhân dân vì quá trình vận dụng luật pháp và
hương ước trong quản lý xã hội nông thôn mới hiện nay thực sự là một quá trình
xã hội sâu sắc và toàn diện, đòi hỏi những nhận thức và kiến giải khoa học xã hội
thực chứng.
Trước khi nghiên cứu sâu hơn về việc tổ chức thực hiện hương ước làng
văn hóa tại Hải Phòng, tôi xin trình bày một số cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện
hương ước làng văn hóa.
1.2. Hương ước làng văn hoá
1.2.1. Khái niệm hương ước
Hương ước là một nét đẹp văn hóa, một hiện tượng pháp luật phổ biến
trong xã hội phong kiến Việt Nam. Hương ước xuất hiện từ thế kỷ XV và tồn tại
trong suốt chiều dài lịch sử đến năm 1945. Hương ước bao gồm các quy ước về
nhiều mặt đời sống của làng xã. Nó phản ánh quá trình hình thành và phát triển
của làng xã người Việt. Hương ước được xem là nguồn tài liệu quan trọng để tìm
hiểu về xã hội làng việt cổ truyền, là tư liệu, là bức tranh văn hóa tổng hợp của
làng quê Việt Nam.
Từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước, thấy rõ ý nghĩa tích cực của hương
ước trong việc quản lý xã hội và thực hiện dân chủ ở nông thôn, Đảng và Nhà nước
đã quan tâm, chỉ đạo và ban hành các chủ trương, đường lối để phát huy hiệu quả
của hương ước trong đời sống xã hội. Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương khóa VII đã nhấn mạnh “khuyến khích xây dựng và thực hiện các
hương ước, quy chế về nếp sống văn minh ở các thôn xã”. Từ đó, vấn đề quản lý
7
Nhà nước đối với việc ban hành và thực hiện hương ước đã được tăng cường thông
qua những chỉ đạo hướng dẫn sát sao, cụ thể của các cấp, các ngành.
Cùng với phong trào xây dựng làng văn hóa, việc tổ chức và thực hiện
hương ước với nhiều các quy định cụ thể, dễ nhớ, dễ làm hương ước đã có những
tác động tích cực đối với mỗi làng quê Việt Nam trong quá trình đổi mới và phát
triển. Góp phần duy trì và phát huy thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa
cộng đồng, củng cố các giá trị và đạo lý, nhân văn. Nuôi dưỡng, vun đắp ý thức
cộng đồng, tinh thần đoàn kết, tự lực, tự chủ của mỗi thành viên trong cộng đồng
làng; bảo tồn, giữ gìn vá phát huy các giá trị văn hóa, danh lam thắng cảnh; tổ
chức các mặt của đời sống làng xã, duy trì trật tự, kỷ cương, tạo ra mội trường ổn
định và an toàn cho cộng đồng làng xã. Từ đó cho thấy hương ước là một phần
quan trọng trong việc xây dựng làng văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh, đời
sống tinh thần phong phú, hướng người dân đến lối sống lành mạnh, tránh xa các
tệ nạn xã hội…
Do vậy, đã có một số khái niệm hương ước được nêu dẫn trong các nghiên
cứu. Cụ thể như sau: Khái niệm hương ước được trình bầy trong từ điển và trong
các nghiên cứu cụ thể. Trong cuốn từ điển Tiếng Việt do ông Hoàng Phê chủ
biên, hương ước được hiểu như sau: "Hương ước là luật lệ ở làng xã dưới chế độ
cũ, do dân làng đặt ra" [15, tr. 474].
Trong cuốn “Hương ước và quản lý làng xã”, tác giả Bùi Xuân Đính đưa ra
khái niệm hương ước như sau: “Hương ước gồm các điều hay quy định về nhiều
mặt của đời sống làng xã: sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường, cơ cấu tổ
chức và quan hệ xã hội, bảo vệ an ninh, thờ cúng, khuyến học, bảo đảm nghĩa vụ
đối với nhà nước... Những quy ước đó được tuân thủ qua nhiều thế hệ, trở thành
những "Thông lệ pháp lý" và là "Cương lĩnh về nếp sống của từng cộng đồng cư
dân Việt ở nông thôn, một công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, một tri
thức dân gian về quản lý cộng đồng" [tr.9]
Theo tập bài giảng của Trường Cán bộ Quản lý Văn hóa Thông tin, Bộ
Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đưa ra định nghĩa
về hương ước như sau: "Hương ước là văn bản có tính chất quy ước, luật lệ
của một cộng đồng dân cư (làng) đặt ra. Là một văn bản có tính chất luật lệ, lệ
8
tục do dân làng đặt ra, mang tính nội bộ, là sản phẩm tinh thần của làng, xã
gắn liền với làng xã. Tuỳ theo cách ghi chép của từng làng hoặc tên gọi đơn vị ở
từng vùng khác nhau mà hương ước được gọi bằng những tên khác nhau: hương
biên, hương khoán, hương lệ, khoán ước, tục lệ, luật tục, luật học, cựu khoán,
điều ước, điều lệ...". [5, tr.23]
Theo Thông tư Liên tịch số 03/2000/BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN của
Bộ Tư pháp - Bộ Văn hóa Thông tin - Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam thì “Hương ước là văn bản quy phạm xã hội, trong đó quy định các
quy tắc xử sự chung do cộng đồng dân cư cùng thoả thuận đặt ra để điều chỉnh
các quan hệ xã hội mang tính tự quản của nhân dân nhằm giữ gìn và phát huy
những phong tục, tập quán tốt đẹp và truyền thống văn hóa trên địa bàn làng,
bản, thôn, ấp, cụm dân cư, góp phần tích cực cho việc quản lý nhà nước bằng
pháp luật. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội, trình
độ dân trí, phát huy phong tục tập quán tốt đẹp, góp phần đưa pháp luật vào
cuộc sống của cộng đồng dân cư”. [31, tr.1]
Việc xây dựng hương ước ngày nay tiến hành theo thể chế dân chủ, khác chế
độ phong kiến trước đây. Trước hết, ban soạn thảo hương ước là do dân làng cử ra,
quá trình soạn thảo nhiều lần tổ chức lấy ý kiến tham gia của dân làng, thông qua các
cuộc họp toàn thể hoặc đại biểu dân làng, qua các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội
nghề nghiệp, các dòng họ tham gia góp ý và cuối cùng phải được hội nghị toàn thể
dân làng biểu quyết thông qua, sau đó mới trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Khi văn bản hương ước được cấp có thẩm quyền phê duyệt, làng tổ chức Lễ phát
động xây dựng làng văn hóa, công bố và triển khai thực hiện hương ước. Đây là sự
khác về "chất" so với cách làm hương ước của chế độ phong kiến trước đây, điều này
thể hiện tính dân chủ thực sự, bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Trong đề tài luận văn này, chúng tôi sử dụng khái niệm hương ước theo
Thông tư Liên tịch số 03/2000/BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN của Bộ Tư pháp
- Bộ Văn hóa Thông tin - Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
như đã trình bầy ở trên để làm khái niệm công cụ nghiên cứu luận văn này.
1.2.2 Nội dung hương ước
9
Có thể nói rằng, hương ước đã được quy định rất cụ thể theo Thông tư Liên
tịch số 03/2000/BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN của Bộ Tư pháp - Bộ Văn hóa
Thông tin - Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong đó, nội
dung của hương ước cơ bản như sau:
Nội dung hương ước gồm có:
* Quy định chung:
Quy định này gồm các điều thể hiện nguyên tắc của việc tổ chức và thực
hiện hương ước như: Đối tượng điều chỉnh của hương ước; phạm vi điều chỉnh;
các mối quan hệ xã hội mang tính tự quản của cộng đồng.
Hầu hết các quy định trong các hương ước làng văn hóa trên địa bàn thành
phố đều không trái với pháp luật và quy tắc đạo đức xã hội, lợi ích của cộng
đồng; duy trì và phát triển những phong tục tập quán tốt đẹp của địa phương.
* Các quy định tiếp theo thường được chia theo lĩnh vực quản lý:
- Quy định về xây dựng nếp sống văn hoá trong việc cưới việc tang, mừng
thọ, lễ hội, xây cất mồ mả, những vấn đề liên quan đến hôn nhân gia đình, thực
hiện chính sách dân số: Nội dung của Chương này tuy có thể hiện đặc thù riêng
của mỗi làng, nhưng các quy định đều phù hợp với Chỉ thị, Nghị quyết của Chính
phủ, Thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành liên quan về thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Đặc biệt đối với Hải Phòng, Ban Thường
vụ Thành uỷ đã sớm ban hành chỉ thị số 15/CT - TU ngày 12/12/1997 về việc
thực hiện nếp sống văn hoá, thực hành tiết kiệm trong việc cưới, việc tang, lễ hội
và bài trõ mê tín dị đoan, Kết luận số 04-KL/TU ngày 20/5/2013 của Ban
Thường vụ Thành ủy Hải Phòng về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
có hiệu quả Chỉ thị số 27-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) và Chỉ thị số
15-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy (khóa XI) về thực hiện nếp sống
văn hóa, thực hành tiết kiệm trong việc cưới, việc tang, lễ hội và bài trừ mê
tín dị đoan. Đây là những văn bản quan trọng, làm cơ sở định hướng cho xây
dựng hương ước, hạn chế việc áp dụng luật tục vào hương ước.
- Quy định về các biện pháp nhằm xoá đói giảm nghèo, giúp nhau phát
triển sản xuất, xây dựng kinh tế gia đình và cộng đồng: Chương này các làng đều
căn cứ vào vị trí địa lý, tập trung khai thác các yếu tố tự nhiên, ngành nghề truyền
10
thống, nguồn lực, có dự báo khả năng phát triển, tìm biện pháp khai thác triệt để
tiềm năng, lợi thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi, chú trọng hạch
toán giá trị kinh tế, thay đổi tập quán tự cấp, tự túc, thâm canh, tăng năng suất,
tăng giá trị trên đơn vị diện tích, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, từng
bước cơ khí hoá nông nghiệp, tiến hành mạnh mẽ việc phân công lao động ngay
trong từng hộ gia đình tới cộng đồng làng, làm cho thu nhập của từng gia đình,
của làng tăng lên rõ rệt góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, bước đầu có tích luỹ để cải thiện điều kiện nhà ở, phương tiện đi lại, phương
tiện nghe nhìn, đầu tư cho con em học tập, đóng góp cải tạo đường làng, ngõ
xóm, xây dựng, cải tạo các công trình phúc lợi, tín ngưỡng... làm cho bộ mặt
nông thôn thay đổi rõ rệt. Đặc biệt là việc chấp hành nghĩa vụ Nhà nước, các sắc
thuế có chuyển biến tích cực, vì danh dự làng văn hóa mà mọi người phấn đấu
thực hiện tốt nghĩa vụ công dân.
- Quy định về bảo vệ trật tự, trị an, an toàn của làng, căn cứ đặc điểm địa
lý, khả năng phát triển kinh tế, các làng đều chú trọng đến công tác bảo vệ sản
xuất. Hầu hết các làng đều có đội an ninh tự quản để bảo vệ an toàn cho sản xuất,
tham gia với Ban vận động xây dựng làng văn hóa, các tổ chức chính trị xã hội,
các tổ hoà giải làm nhiệm vụ đảm bảo trật tự an ninh ở các làng, đây còng là lực
lượng nòng cốt trong phòng chống bão lụt, ngăn chặn các tệ nạn xã hội như cờ
bạc, ma tuý; tham gia hoà giải các vụ tranh chấp, mâu thuẫn trong nông thôn, làm
đẹp thêm truyền thống đạo lý, phát huy tình làng nghĩa xóm.
Tuỳ theo đặc điểm và nhu cầu của mỗi làng mà hương ước có thêm hoặc bỏ
một số chương quy định mang tính đặc thù của thôn làng như: Thủ tục lễ hội truyền
thống, bảo vệ, tu bổ, tôn tạo và phát huy các giá trị di tích văn hoá- lịch sử, danh lam
thắng cảnh của địa phương hoặc các quy định về huy động sự đóng góp của nhân
dân trong xây dựng, duy tu các công trình phúc lợi, cơ sở hạ tầng trên địa bàn,đảm
bảo vệ sinh môi trường...
* Điều khoản thi hành:
Gồm các quy định về triển khai thực hiện hương ước, khen thưởng và xử
lý vi phạm, trách nhiệm của cá nhân và gia đình, dòng họ, cộng đồng trong việc
11
tuyên truyền, thực hiện hương ước, đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng,
sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hương ước.
Nhìn chung, nội dung của các bản hương ước tập trung vào việc đề ra các biện
pháp thích hợp để nhân dân phát huy quyền làm chủ tham gia quản lý Nhà nước,
quản lý xã hội trên các lĩnh vực của đời sống cộng đồng, động viên và tạo điều
kiện để nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân, thực hiện nghiêm
chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước; Quy
định quyền và nghĩa vụ của cá nhân, gia đình, dòng tộc trong ứng xử, giao tiếp
nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp, nếp
sống văn minh và đấu tranh bài trõ các hủ tục, mê tín dị đoan trong việc cưới,
mừng thọ, việc tang, xây cất mồ mả, lễ hội; khuyến khích các hình thức sinh hoạt
văn hoá lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống lãng phí, tốn kém; Quy định việc
thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, hình thành các các quy tắc đạo đức,
các giá trị văn hóa trong gia đình và cộng đồng, khuyến khích mọi người giúp đỡ
nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, đau ốm, xây dựng gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình
văn hoá; Quy định các biện pháp thực hiện chính sách dân số, gia đình và trẻ em,
khuyến khích xây dựng gia đình ít con, ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, vận
động nhân dân thực hiện không sinh con thứ 3 trở lên; Quy định biện pháp nhằm
vận động thực hiện phong trào xoá đói giảm nghèo, phát triển sản xuất, nâng cao
đời sống, khuyến học, khuyến nghề, xây dựng các loại quỹ của cộng đồng trong
khuôn khổ pháp luật, phù hợp với khả năng của nhân dân; Quy định các biện
pháp cụ thể bảo vệ trật tự trị an, an toàn trong cộng đồng, phòng chống các tệ nạn
xã hội ma tuý, cờ bạc, rượu chè, trộm cắp, mại dâm và các hành vi khác nhằm
xây dựng địa bàn an toàn lành mạnh; Quy định hình thức khen thưởng, xử lý vi
phạm phù hợp để đảm bảo thực hiện hương ước nghiêm túc và đạt hiệu quả.
Hầu hết các bản hương ước đã kế thừa và phát huy được những phong tục,
tập quán tốt đẹp, nét đặt thù riêng của mỗi làng, làm phong phú văn hóa của Hải
Phòng. Những quy định của hương ước nhằm cụ thể hoá các văn bản quy phạm
pháp luật và các chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước, điều lệ của các đoàn
thể chính trị xã hội, quy chế, quyết định của cấp trên, không trái với pháp luật mà
còn làm rõ hơn góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống. Có các quy định cụ thể về
12
tổ chức các hoạt động của cộng đồng làng như phát triển kinh tế, văn hóa, giáo
dục, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đều xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và trình
độ dân trí, kinh tế của mỗi làng, tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, tập trung đầu tư đẩy mạnh sản xuất, phát huy thế mạnh của mỗi địa phương
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Hương ước của
mỗi làng đều chú ý bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của
làng, răn dạy con cháu cách ứng xử, tình làng nghĩa xóm; chăm lo tu bổ các thiết
chế văn hóa làng nhằm gắn kết cộng đồng...
Nhìn chung, các hương ước làng văn hóa ở Hải Phòng được tổ chức thực
hiện trong giai đoạn (2000 – 2017) cơ bản đảm bảo nguyên tắc, hình thức và nội
dung của một bản hương ước quy định tại Thông tư liên tịch số
03/2000/TTLT/BTP - BVHTT - BTTUBMTTQVN của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá
Thông tin, Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1.2.3.Vai trò của hương ước
1.2.3.1. Vai trò của Hương ước trong xã hội nông nghiệp cổ truyền
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, là nơi giao lưu
của các luồng tư tưởng văn hóa khác nhau. Với địa hình phong phú và đa dạng,
nước ta thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, thiên nhiên khắc nghiệt. Vị trí địa lý,
môi trường thiên nhiên ấy đã ảnh hưởng sâu đậm đến sắc thái của nền văn hoá,
gắn liền với sông nước, thực vật và lúa nước. Đại bộ phận cư dân Việt Nam sống
bằng nghề lúa nước. Dân tộc Việt Nam luôn phải đương đầu chống ngoại xâm và
luôn giành chiến thắng vẻ vang, trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc và đã đánh
thắng nhiều đế quốc lớn. Truyền thống yêu nước và tinh thần xả thân vì đại nghĩa
trở thành nét văn hoá chủ đạo trong lịch sử, truyền thống nước ta.
Xuất phát từ những đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và văn hóa như trên, để
tồn tại và phát triển, người Việt Nam từ xưa đến nay đã rất linh hoạt trong sự
thích ứng và vươn lên làm chủ những điều kiện ấy, khắc họa bản sắc văn hóa
truyền thống Việt Nam, chi phối sự hình thành và phát triển không gian và văn
hóa làng Việt. Có thể nói sự hình thành và phát triển không gian và văn hóa làng
là kết quả của cuộc đấu tranh bền bỉ và kiên cường trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước của nhân dân ta. Hàng vạn cây số đê hình thành trên những triền sông ở
13
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nói nên sự cần cù, trí thông minh, tinh thần đoàn kết,
sức mạnh lao động phi thường, đồng thời là khả năng thích ứng và cải tạo thiên
nhiên, bảo vệ môi trường sống của con người Việt Nam. Mỗi làng đều có đình,
đền, miếu thờ các vị thành hoàng, đại bộ phận nhân vật được thờ là người có
công với dân với nước. Có thể nói mỗi tấc đất ngày nay đều thấm mồ hôi và
xương máu của bao thế hệ dân làng. ý thức cộng đồng làng xã được sinh ra từ
hoàn cảnh lịch sử như thế, vì vậy hương ước từ góc nhìn văn hóa chính là sự hiển
thị rõ nhất của ý thức cộng đồng.
Do điều kiện thời gian và khuôn khổ của một chuyên đề nghiên cứu, không có
điều kiện đi sâu vào hương ước cổ, xin nêu một vài nhận xét khái quát như sau:
Hương ước xưa bắt nguồn từ tục lệ, tập quán của cộng đồng người, có quan hệ về
huyết thống, dòng họ và quan hệ láng giềng, đó là những quy định của làng, xã; nội
dung có liên quan đến mọi mặt của đời sống do một số nho sỹ, chức sắc soạn thảo và
được chính quyền cấp trên phê duyệt. Hương ước là tập quán pháp của làng buộc mọi
người thực hiện, khiến cho người dân phải chấp nhận sống theo tục lệ phiền hà. Giới
chức làng, xã phong kiến vốn mang nặng tư tưởng cục bộ, bè phái dẫn đến hiện
tượng chuyên quyền của người có chức sắc, ngược lại những người dân "thấp cổ
bé họng" thường mặc cảm tự ty, an phận trước bất công xã hội.
Tuy vậy, hương ước cổ có vai trò nhất định trong đời sống xã hội nông
thôn thời xưa. Hương ước là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ trong quản
lý làng xã, vừa có tác dụng tổ chức vừa quản lý các hoạt động kinh tế, văn hóa xã
hội buộc các thành viên và các tổ chức xã hội trong cộng đồng phải tuân thủ. Đó
là sự quản lý bằng phong tục, đạo đức, tôn giáo, tín ngưỡng..., mang lại hiệu quả
nhất định trong việc thiết lập trật tự xã hội làng, xã. Hương ước quy định trách
nhiệm của các nhân đinh khi lễ sóc, lễ vọng ở đình đền, chùa, miếu và các lễ hội,
quy định chủ tế, tây xướng, đông xướng - là những người phải có phẩm hạnh và
uy tín. Hương ước trở thành công cụ để nhà nước thuộc địa nửa phong kiến can thiệp
vào làng, quy định quyền lợi và nghĩa vụ giữa làng với nhà nước. Tìm hiểu các bản
hương ước cũ thời kỳ cải lương hương chính, đặc biệt là những quyển hương
ước thuộc phủ Vĩnh Bảo, soạn thảo từ năm 1932 đến năm 1936 và một số bản
14
sao trước giai đoạn trên không đề rõ năm, nhận thấy hầu hết các bản hương
ước đều được chia thành 2 phần:
+ Phần 1: Nói về điều lệ tổng cục - quy định về chính trị, thu, chi, sắc thuế,
kiện cáo, canh phòng, cấp cứu, vệ sinh, sửa sang đường sá, vệ nông, gác của
công, giao thiệp, trò gian lận, giáo dục, ngụ cư, kí táng đều do hội đồng viên chức
do quan Chánh công sứ và Tổng đốc Hải Dương, cùng với các tri phủ Kinh Môn,
Vĩnh Bảo, Nam Sách, Ninh Giang, Gia Lộc, Chí Linh và Tham Tán toà sứ áp đặt
bằng một đề cương chi tiết, các hội đồng chức dịch và hội đồng kỳ mục của các
làng chỉ việc điền bổ sung chi tiết về những vấn đề đặc điểm riêng của làng.
+ Phần 2: Quy định về tục lệ, các hội đồng của làng căn cứ vào các đặc
điểm về tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán để soạn thảo. Nhưng cuối cùng
vẫn phải có chữ ký của quan sở tại, của tuần - phủ rồi chánh công sứ duyệt y mới
được thực hiện.
Như vậy, hương ước thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, là công cụ để
nhà nước thuộc địa nửa phong kiến can thiệp vào làng, điều hoà lợi ích giữa làng
với nhà nước, được cụ thể hoá bằng các điều trong hương ước, tựa như một văn
bản trong hệ thống pháp luật của nhà nước. Hương ước làng còn là văn bản
hướng dẫn, tiếp dẫn pháp luật nhà nước, để pháp luật nhà nước được thực hiện
nghiêm túc, triệt để hơn dù đó là thứ pháp luật hà khắc, vi phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân. Hương ước duy trì nền kinh tế tự cấp, tự túc, biểu hiện
sự khép kín của làng có nhiều nhược điểm, làm kìm hãm sự phát triển của cộng
đồng, nhưng nó còng có yếu tố tích cực như củng cố được tính cấu kết cộng
đồng, tăng cường sức mạnh chống ngoại xâm, chống thiên tai để bảo toàn cuộc
sống, bảo tồn truyền thống văn hóa của mỗi làng.
Tóm lại, hương ước giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống làng xã cổ
truyền, là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng, công cụ tự
điều chỉnh và quản lý làng xã, là phương tiện để nhà nước thuộc địa nửa phong kiến
can thiệp và điều hoà lợi ích giữa làng với nhà nước.
1.2.3.2. Vai trò của hương ước trong xây dựng cộng đồng làng trong giai
đoạn hiện nay
15
Hương ước ngày nay là văn bản quy phạm xã hội quy định các nguyên tắc xử
sự chung để phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở các làng, góp phần tích cực vào sự
phát triển bền vững của xã hội. Hầu hết các bản hương ước mới đều được soạn
thảo theo một kết cấu chung gồm các chương, điều, khoản, mục; được sắp xếp
theo trình tự xác định gồm: Lời nói đầu; những nguyên tắc chung; những quy
định cụ thể về phát triển kinh tế, xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa,
bảo vệ các công trình văn hóa, môi trường, tổ chức xây dựng khu sinh hoạt văn
hóa của làng, quy định về khuyến nông, khuyến học, về an ninh trật tự và việc
chấp hành pháp luật, về khen thưởng và xử lý vi phạm, tài chính của làng; điều
khoản thực hiện.
Hương ước đề ra các biện pháp bảo vệ thuần phong mỹ tục, bài trừ các hủ tục,
tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan trong việc cưới, việc tang, lễ hội, thờ phụng... khuyến
khích những lễ nghi lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống lãng phí góp phần xây
dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa, hình thành các quy tắc đạo
đức trong gia đình và cộng đồng; vận động mọi người đùm bọc giúp đỡ nhau khi gặp
khó khăn, hoạn nạn, ốm đau, thực hiện các chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình.
Xây dựng tình đoàn kết tương thân tương ái trong cộng đồng, vận động các thành
viên trong gia đình, họ tộc, xóm làng đoàn kết, cùng nhau xoá đói giảm nghèo, phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống, khuyến học, khuyến nghề ở địa phương. Khuyến
khích phát triển các làng nghề, đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình
phúc lợi công cộng, các công trình văn hóa thể thao.
1.3. Làng văn hóa
1.3.1. Khái niệm Làng văn hóa
Tự ngàn xưa, ở nông thôn nước ta nói chung và ở Hải Phòng nói riêng,
người Việt thường cư trú và làm ăn, sinh sống trên một địa bàn nhất định thường
được gọi là làng. Theo Đại từ điển “Làng là nơi sinh sống, làm ăn lâu đời của
nông dân vùng đồng bằng, trung du, thường có phạm vi và đặc trưng riêng biệt”
[23, tr.12]. Trong cuốn từ điển Tiếng Việt do ông Hoàng Phê chủ biên, làng được
hiểu như sau: “ Làng là khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời
sống riêng nhiều mặt, là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến”, [12, tr.
542]. Xét về mặt lịch sử và xã hội, làng là một cộng đồng được hình thành và
16
phát triển thường dựa trên nguyên lý: cùng nơi cư trú, cùng huyết thống. Tính
bền vững của làng, độ gắn kết giữa các thành viên và tính đoàn kết gắn bó toàn
bộ cộng đồng làng phụ thuộc vào hai nguyên lý trên. Sự cố kết gắn bó nhiều
dòng họ, gia tộc và các thành viên trong làng trải nhiều đời đã tạo nên mỗi làng
quê Việt Nam là một không gian văn hoá. Cộng đồng văn hoá làng có những nét
riêng biệt và phong phú. Có thể nói, khái niệm làng từ lâu đã ăn sâu, thấm đượm vào
nhiều nét suy nghĩ, tình cảm, tập quán và quan hệ xã hội của mỗi người nông dân và
toàn thể cộng đồng làng. Những hình ảnh gần gũi: cây đa, giếng nước, mái đình, luỹ
tre, cổng làng, lời ru của mẹ, hội làng...dường như đã trở thành những biểu tượng
riêng biệt chứa đầy những tình cảm riêng tư của mỗi người đối với làng quê của mình.
Và đôi khi là nỗi nhớ khôn nguôi với mỗi người xa xứ. Từ những tình cảm, nếp nghĩ,
từ trong sinh hoạt và trong sản xuất con người đã gắn bó với nhau từ đời này sang đời
khác trong quan hệ huyết thống, tập tục, nếp sống và trong trật tự cộng đồng.
Làng văn hoá là một tên gọi mới được xuất hiện và sử dụng tại hội thảo do
Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức năm
1990 tại tỉnh Bắc Ninh, nhằm nghiên cứu mô hình làng, phát huy các giá trị văn
hoá tốt đẹp của làng trong các quan hệ và cơ cấu của nó. Và từ đó khái niệm
Làng văn hóa được sử dụng rộng rãi trong đời sống văn hóa xã hội của nước ta.
Làng văn hóa là làng có đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển; có đời
sống văn hoá tinh thần lành mạnh, phong phú và có sắc thái riêng; có môi trường
cảnh quan sạch đẹp; thực hiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước. Riêng đối với Hải Phòng, tại kế hoạch triển khai phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng:
Làng văn hóa là làng có đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển; đời
sống tinh thần lành mạnh, phong phú, có sắc thái riêng; môi trường cảnh quan
sạch đẹp; có khu vui chơi giải trí và hoạt động văn hoá thể thao; thực hiện tốt chủ
trương của Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và thực hiện
nghiêm túc hương ước, quy ước của làng.
1.3.2. Tiêu chuẩn Làng văn hóa
Ngày 10/10/2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư số
12/2011/TT-BVHTTDL quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự thủ tục, hồ sơ
17