BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
PHẠM THỊ QUÂN
Møc ®é thÊm nhiÔm vµ søc kháe cña c«ng
nh©n
tiÕp xóc víi toluen t¹i C«ng ty cæ phÇn
giµy Hng Yªn n¨m 2015
Chuyên ngành
: Y học dự phòng
Mã số
: 62727515
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ NỘI TRÚ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Khương Văn Duy
TS. Phạm Hồng Lưu
HÀ NỘI–2016
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn
này, tôi đã được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, các bạn bè và gia
đình. Nhân dịp này, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới:
PGS. TS Khương Văn Duy - người Thầy đã trực tiếp giảng dạy, tận
tình hướng dẫn, hết lòng tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành Luận văn này.
TS. Phạm Hồng Lưu - người Thầy đã hết lòng tạo điều kiện giúp đỡ
tôi trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành Luận văn này.
Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Bộ môn Sức Khỏe Nghề Nghiệp trường
Đại Học Y Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học
tập và tiến hành điều tra, hoàn thành Luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc công ty cổ phần giày
Hưng Yên đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè, những
người luôn bên cạnh giúp đỡ động viên và khuyến khích tôi trong những
tháng ngày học tập, nghiên cứu để hoàn thành Luận văn này.
Hà Nội, ngày 8 tháng 12 năm 2016
PHẠM THỊ QUÂN
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi:
Phòng Đào tạo sau đại học trường Đại học Y Hà Nội.
Bộ môn Sức khỏe nghề nghiệp trường Đại học Y Hà Nội.
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin cam đoan đã thực hiện quá trình làm Luận văn một cách khoa
học, chính xác và trung thực. Các kết quả thu được trong Luận văn là có thật
và chưa được công bố trên bất kỳ tài liệu khoa học nào.
Hà Nội, ngày 8 tháng 12 năm 2016
Học viên
PHẠM THỊ QUÂN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CN
Công nhân
DN
Doanh nghiệp
ILO
International Labour Organization
MTLĐ
Môi trường lao động
NLĐ
Người lao động
ppb
Parts per billion (1 phần tỷ)
ppm
Parts per million (1 phần triệu)
PX
Phân xưởng
QĐ-BYT
Quyết định – Bộ Y Tế
SK
Sức khỏe
SKĐK
Sức khỏe định kì
TCCP
Tiêu chuẩn cho phép
TNLĐ
Tai nạn lao động
VKH
Vi khí hậu
VN
Việt Nam
WHO
World Health Organization
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
8
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo tốc độtăng trưởng của kinh tế đất nước, ngành công nghiệp nước
ta cũng ngày càng phát triển. Trong quá trình sản xuất công nghiệp, có rất
nhiều chất và hợp chất được sử dụng phổ biến rộng rãi, do đó các bệnh nghề
nghiệp ngày càng nhiều hơn. Cho đến nay Việt Nam đã công bố có 34 bệnh
nghề nghiệp được bảo hiểm, trong đó có nhiễm độc benzen và đồng đẳng của
benzen (toluen và xylen)[1], tuy nhiên bệnh nghề nghiệp vẫn chưa được các
cơ quan quản lý và người lao động quan tâm đúng mức.
Ngành da giày của nước ta đã có từ lâu đời. Do nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội, ngành sản xuất da giày nhanh chóng trở thành ngành kinh tế kỹ thuật
riêng biệt và thu hút một lực lượng lớn lao động của xã hội. Hiện nay toluen
được sử dụng khá phổ biến trong công nghiệp da giày nhưng nhiễm độc toluen
nghề nghiệp thực tế là một bệnh hiếm gặp hoặc ít được biết đến, đồng thời
người lao động cũng chưa quan tâm, đặc biệt là một số triệu chứng thần kinh
không được gắn với nguyên nhân của bệnh nên dễ nhầm với những bệnh khác.
Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của toluen đến
sức khỏe của người lao động[2], [3]. Các nghiên cứu này cho thấy những ảnh
hưởng rõ rệt và nghiêm trọng, phổ biến nhất là bệnh về thần kinh mà giai
đoạn đầu rất khó chẩn đoán vì những dấu hiệu có thể mất đi khi ngừng tiếp
xúc, giai đoạn trung gian nếu phát hiện kịp thời vẫn có thể khắc phục được,
còn khi đã phát bệnh thì không thể hồi phục như ban đầu[4], [5].
Ở Việt Nam cũng có nghiên cứu về vấn đề này, nhưng hiện tại chưa có
trường hợp nhiễm độc toluen nào được xác định[4]. Do đó, mặc dù được đưa
vào danh mụcbệnh nghề nghiệp được bảo hiểm nhưng chưa được đưa vào
danh mục khám sức khỏe định kỳ của công nhân có tiếp xúc với toluen. Vì
vậy để góp phần bảo vệ sức khỏe người lao động trong lĩnh vực này trước hết
9
phải đánh giá mức độ thấm nhiễm của người lao động với toluen. Thực tế với
xu hướng phát triển không ngừng của ngành da giày thì việc đánh giá lượng
toluen trong máu và nước tiểu của công nhân làm việc trong ngành này là rất
cần thiết. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Mức độ thấm nhiễm
và sức khỏe của công nhân tiếp xúc với toluen tại Công ty cổ phần giày
Hưng Yên năm 2015” với mục tiêu sau:
1.
Khảo sátmôi trường lao động của công nhân tiếp xúc với toluen tại
2.
Công ty cổ phần giày Hưng Yên năm 2015.
Mô tả biểu hiện lâm sàng và mức độ thấm nhiễm toluen trong máu,
nước tiểu của công nhân tiếp xúc với toluen tại Công ty cổ phần giày
Hưng Yên năm 2015.
Từ đó đưa ra các khuyến nghị nhằm làm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm
môi trường và bảo vệ sức khỏe cho công nhân tiếp xúc với toluen.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Những đặc tính cơ bản và ứng dụng của toluen trong
sản xuất công nghiệp
1.1.1. Tính chất của toluen
Toluen được P.s.pelletier và P. Walter phát hiện năm 1937, khi điều chế
than từ nhựa thông. Toluen là chất thuộc dãy đồng đẳng của benzen còn được
gọi là Methylbenzene, Phenylmethane và Toluol, là một chất lỏng trong suốt,
không tan trong nước, có mùi đặc trưng của sơn pha loãng (paint thinner),
trong những hợp chất với benzen thì có mùi thơm ngọt ngào của mật ong[4],
[6].
Hình 1.1: Cấu trúc phân tử của Toluen
Toluen có công thức phân tử là C7H8, khối lượng phân tử 92 đvC, nhiệt độ
sôi là 1100C, nhiệt độ nóng chảy là - 94,990C, là một dung môi hòa tan rất tốt các
chất béo, dầu, nhựa thông, lưu huỳnh, phốt pho và iod. Toluen có thể tan lẫn
hoàn toàn với hầu hết các dung môi hữu cơ như rượu, ete, xeton[6], [7].
11
Toluen là một hydro cacbon thơm, được sử dụng rộng rãi trong công
nghiệp, cung cấp nguyên liệu cho máy để chế biến (industrial feedstock) và
làm dung môi. Tương tự như những dung môi khác, toluen cũng được sử
dụng như một loại thuốc xông (inhalant drug) do đặc tính gây say của nó[8].
Trong tự nhiên, toluen có trong dầu thô với một lượng rất nhỏ và
thường được tạo ra trong quá trình sản xuất xăng thông qua một chất xúc tác
cải tiến (catalytic reformer), trong phản ứng Ethylene Crackerhay trong quá
trình tạo ra than cốc (coke) từ than đá (coal)[6], [9].
1.1.2. Ứng dụng của toluen trong công nghiệp
- Sơn bề mặt
Toluen được dùng chủ yếu trong các ứng dụng cần khả năng hòa tan và
độ bay hơi cao nhất như sản xuất nhựa tổng hợp, sản xuất sơn. Toluen còn
được dùng rộng rãi trong cả sơn xe hơi và sơn đồ đạc trong nhà, sơn quét và
sơn tàu biển.
Toluen cũng được dùng làm chất pha loãng và là một thành phần quan
trọng của chất tẩy rửa.
- Keo dán
Do khả năng hòa tan mạnh nên toluen được dùng trong sản xuất keo
dán và các sản phẩm cùng loại, dùng trong keo dán cao su, xi măng cao su.
Chính vì vậy, toluen được dùng rất phổ biến trong ngành da giày, dùng làm
keo dán đế giày...
- Phụ gia cho nhiên liệu
Toluen được dùng làm chất cải thiện chỉ số octane của xăng dầu và làm
chất mang phụ gia cho nhiên liệu. Thông thường, khi thêm chỉ một lượng
tương đối nhỏ toluen vào xăng dầu sẽ làm tăng đáng kể chỉ số octane của
nhiên liệu.
12
- Các ứng dụng khác của toluen
•
•
•
•
Sản xuất thuốc nhuộm.
Sử dụng trong ngành y.
Sản xuất nước hoa.
Sản xuất mực in.
1.1.3. Quá trình xâm nhập của toluen vào cơ thể
- Hấp thụ qua đường tiêu hóa :
Toluen có thể hấp thu qua đường tiêu hóa nhưng với hàm lượng rất nhỏ.
Theo nghiên cứu của Baeliun và cộng sự (1993) thí nghiệm trên những người
tình nguyện, các tình nguyện viên được tiếp xúc toluen với nồng độ 2mg/phút
trong 3 giờ qua một ống thông dạ dày rồi định lượng nồng độ toluen trong máu
và trong nước tiểu. Kết quả xét nghiệm máu và nước tiểu cho thấy chỉ có 10%
lượng toluen được hấp thu qua đường tiêu hóa[10].
- Hấp thụ qua đường hô hấp
Toluen được hấp thụ chủ yếu qua đường hô hấp. Các nghiên cứu khác
nhau đánh giá mức độ hấp thụ toluen qua đường hô hấp khác nhau. Theo
nghiên cứu của Benoit và cộng sự (1985), tiến hành thử nghiệm trên bốn công
nhân bằng cách cho họ hít 50ppm toluen (189mg/m 3) trong 90 phút, kết quả
thu được là 83% lượng toluen được hấp thụ qua phổi[11].
Trong báo cáo của Carlsson năm 1982, cho 100 nam giới khỏe mạnh
tiếp xúc với toluen trong không khí với lượng 300mg/m 3. Kết quả cho thấy:
55% lượng toluen trong không khí được hấp thụ qua phổi, sau 2 giờ nghỉ ngơi
giá trị này còn khoảng 50%. Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng, lượng
toluen được hấp thu vào máu qua đường hô hấp tăng lên khi lao động nặng,
tập thể dục và giảm đi khi nghỉ ngơi[12].
13
Một nghiên cứu của Neubert và cộng sự (2001) tìm thấy mối tương
quan giữa nồng độ toluen trong không khí và nồng độ toluen trong máu của
công nhân sau 6 giờ làm việc [13].
- Hấp thu qua da:
Toluen được hấp thu qua da từ từ với tỷ lệ hấp thu khác nhau từ 14đến
23mg/cm2 da theo nghiên cứu của Dutkiewicz và Tyras (1968) [14].
Một số nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng, toluen có thể hấp thu qua da
tuy nhiên họ không thể định lượng được liều hấp thu[15]. Trong nghiên cứu
của Tsuruta năm 1989 trên chuột, tiến hành cho chuột tiếp xúc với liều toluen
3000ppm, đeo mặt nạ để tránh chuột hít phải khí chứng minh toluen có thể
hấp thu qua da [16].
1.1.4. Quá trình phân bố, chuyển hóa và đào thải của toluen
Qua đường tiếp xúc, toluen được hấp thu vào máu và phân bố ra toàn
bộ cơ thể. Qua khám nghiệm tử thi một người đàn ông 51 tuổi, tử vong do
uống quá liều toluen thấy nồng độ toluen cao nhất trong gan, sau đó là tuyến
tụy, tim, não, chất béo và dịch não tủy. Theo một nghiên cứu của Paterson và
Sarvesvaran (1983) báo cáo khám nghiệm tử thi một nam thanh niên 16 tuổi
tử vong do hít phải nồng độ toluen quá lớn thấy rằng, lượng toluen tập trung
cao nhất ở trong não, sau đó là gan, tụy, dịch não tủy[17].
Theo nghiên cứu Ghantous và Danielsson năm 1986, toluen có thể đi
qua nhau thai, vào thai nhi và có thể tìm thấy trong sữa mẹ[18].
Theo WHO, toluen khi vào cơ thể, một phần được thải loại qua hơi thở,
phần còn lại (60-80%) được oxy hóa thành acid benzoic. Acid benzoic liên
hợp với glycin để tạo thành acid hippuric, đào thải qua đường nước tiểu.
14
Hàm lượng acid hipuric trong nước tiểu thay đổi theo chế độ ăn uống
nhưng đạt khoảng 0,7g/ngày. Theo Ogata và cộng sự (1998), ở những người
tiếp xúc với toluen, hàm lượng acid hipuric tỷ lệ thuận với nồng độtoluen
trong không khí. Những công nhân tiếp xúc với nồng độ toluen 200ppm, thải
loại aicd hipuric 7g/l hay creatinin 5g/l trong các mẫu nước tiểu vào cuối buổi
chiều làm việc[6].
Mối liên quan giữa nồng độ toluen trong môi trường không khí ở nơi
làm việc với nồng độ acid hipuric niệu như sau:
- Ở người không tiếp xúc: nồng độ acid hipuric hiếm khi nào vượt quá
0,947mol/mol creatinin (1,5g/g).
- Ở công nhân tiếp xúc: nồng độ acid hipuric trung bình là 1,58mol/mol
creatinin (2,5g/g) tương đương mức tiếp xúc với toluen là 375mg/m 3 trong 8h
và 0,947mol acid hipuric/mol creatinin (1,5g/g) tương đươc mức tiếp xúc với
toluen là khoảng 200mg/m3.
Hình 1.2: Sơ đồ chuyển hóa của Toluen trong cơ thể
15
1.1.5. Độc tính của toluen
Toluen là một chất hóa học đồng đẳng của benzene có các đặc tính
quan trọng như ở dạng lỏng và dễ bay hơi ở nhiệt độ thường, có thể gây độc
đối với hệ thần kinh trung ương nếu tiếp xúc trong thời gian dài ở môi trường
công nghiệp có sự hiện diện của chúng nồng độ cao.
- Ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương
Ảnh hưởng lớn nhất của toluen đến sức khỏe chính là tổn thương hệ
thống thần kinh trung ương, do tiếp xúc với toluen trong không khí do thời
gian tiếp xúc dài (>1 năm). Biểu hiện tổn thương hệ thống thần kinh trung
ương chia làm 3 giai đoạn:
• Giai đoạn chưa có triệu chứng lâm sàng.
• Giai đoạn sớm với những triệu chứng thần kinh, có rối loạn tâm thần, nói khó
và dáng đi bất thường.
• Giai đoạn toàn phát với những triệu chứng trầm trọng như loạn thần, thao
cuồng. Nhiễm độc toluen ở giai đoạn này không hồi phục, tổn thương và di
chứng là vĩnh viễn.
Tác hại của toluen càng tăng khi cùng một lúc tiếp xúc hiệp đồng với
benzen và đồng đẳng của benzen như xylen trong dung môi hữu cơ.
Các yếu tố thuận lợi làm phát triển bệnh là nghiện rượu, nhiễm khuẩn
mạn tính, rối loạn chức năng gan thận, suy dinh dưỡng, những người đã có
sẵn những biểu hiện tâm - thần kinh...[19]
- Ảnh hưởng đến da
Toluen được sử dụng chủ yếu nhờ khả năng hòa tan mạnh làm dung môi
hữu cơ trong công nghiệp. Toluen khi dây dính trên da chúng có khả năng phá
hủy hàng rào bảo vệ của da, gây tổn thương da cho người tiếp xúc ở dạng
viêm da tiếp xúc kích thích.
Toluen có thể đóng vai trò là một dị nguyên gây ra phản ứng miễn dịch
quá mẫn muộn hay phản ứng type 4 gây lên tình trạng viêm da tiếp xúc dị
16
ứng. Tổn thương da do toluengây ra có thể cấp tính rầm rộ như nổi ban đỏ và
trên trên bề mặt da có thể có mụn nước với triệu chứng cơ năng có ngứa hoặc
đau rát, châm chích và có gây tổn thương mạn tính với da dày nứt nẻ hoặc dầy
sừng, lichen hóa, mất sắc tố da dạng bạch biến có thể kèm theo tổn thương
móng làm cho công nhân rất khó chịu, làm giảm sức khỏe, nhiều trường hợp
để lại di chứng như mất sắc tố da dạng bạch biến hoặc dày sừng không hồi
phục và giảm năng suất lao động.
- Ảnh hưởng đột biến gen gây ung thư
1.2. Chẩn đoán nhiễm độc toluen nghề nghiệp
Chẩn đoán nhiễm độc toluen nghề nghiệp phải đảm bảo 3 tiêu chuẩn sau:
1.2.1. Tiền sử nghề nghiệp
Công nhân phải có tiếp xúc với toluen. Nồng độ toluen trong không
khí nơi làm việc lớn hơn tiêu chuẩn cho phép (tiêu chuẩn năm 1997) [1] và
theo Quyết định 3733/2002/QĐ - BYT về việc ban hành 21 tiêu chuẩn vệ
sinh lao động, 05 nguyên tắc và 07 thông số vệ sinh lao động [20]. Theo
quy định của Bộ Y tế về chất lượng không khí trong vùng làm việc của các
cơ sở có sử dụng lao động thì nồng độ toluen trong không khí không được
vượt quá 100mg/m 3 trong 8 giờ làm việc, hoặc không quá 300mg/m 3 đối
với một lần đo bất kỳ [20], [1].
1.2.2. Triệu chứng lâm sàng
Nhiễm độc toluen xuất hiện sau khi tiếp xúc với toluen. Nhiễm độc
toluen có hai loại gồm nhiễm độc cấp tính và nhiễm độc mạn tính.
- Nhiễm độc cấp tính:
17
Nhiễm độc toluen cấp tính gặp ở những người có thời gian tiếp xúc với
toluen trong thời gian ngắn với liều cao quá mức gây nhức đầu, buồn nôn,
chóng mặt, hôn mê, khó thở, suy thoái hệ thần kinh…Theo WHO đánh giá
mối quan hệ tiếp xúc-tác dụng đối với toluen sau nhiễm độc cấp tính là:
những triệu chứng đầu tiên của nhiễm độc cấp tính đã được quan sát ở những
người tình nguyện khi tiếp xúc với toluen khoảng 750mg/m 3 trong 8 giờ hoặc
1125mg/m3 trong 20 phút[6].
Về lâm sàng, nhiễm độc cấp tính rất hiếm thấy, chúng ta có thể gặp
trường hợp nhiễm độc toluen cấp tính do hít phải hơi toluen nồng độ cao hoặc
uống toluen nhằm mục đích tự tử.
• Thể nhẹ: nạn nhân hít phải toluen nồng độ cao có biểu hiện hoa mắt, chóng
mặt, nhức đầu, buồn nôn, nôn mửa. Dấu hiệu trên dễ nhầm với trạng thái say
nắng.
• Tiếp xúc với toluen còn có thể bị kích ứng mắt và đường hô hấp gây ho, đau
ngực, khó thở hoặc hôn mê. Có thể bị tổn thương giác mạc. Nuốt phải toluen
có thể gây đau đầu, buồn nôn, nôn, viêm dạ dày.
• Thể nặng: nếu nhiễm độc nặng, nạn nhân có dáng đi loạng choạng, mất thăng
bằng, bồn chồn, kích thích đường hô hấp trên. Nạn nhân có thể bị viêm phổi,
phù phổi, triệu chứng của hít phải chất lỏng gây mê, kích thích hệ thống thần
kinh trung ương như rối loạn tri giác, cuồng loạn, co giật hoặc hôn mê và dẫn
tới tử vong.
18
Bảng 1.1. Các triệu chứng của nhiễm độc toluen cấp tính theo nồng độ và
thời gian tiếp xúc
Nồng độ
Nồng độ
Thời
(ppm)
(mg/m3)
gian(giờ)
2,5
9,4
100
376
8
Có thể có đau đầu nhẹ
200
752
8
Kích ứng nhẹ
400
1504
8
Kích ứng và mất phối hợp vận động
800
3008
3
Nôn nhiều
4000
15040
1
Hôn mê
Triệu chứng
Ngửi thấy mùi thơm
- Nhiễm độc mạn tính:
Gặp ở những người tiếp xúc lâu ngày với toluen. Nhiễm độc mạn tính
thường gặp ở những công nhân tiếp xúc lâu ngày với nồng độ toluen cao hơn
tiêu chuẩn cho phép, trong khi các thiết bị và trang bị phòng hộ lại thiếu thốn
hoặc không được chú ý đúng mức. Nhiễm độc mạn tính xảy ra khi tiếp xúc
với toluen trong không khí có nồng độ khoảng 200–400mg/m3.
• Dung môi hữu cơ có chứa toluen khi dính trên da có thể phá hủy hàng rào bảo
vệc của da, gây tổn thương da ở người tiếp xúc. Tổn thương da mạn tính gây
làm da dày, nứt nẻ, dày sừng, lichen hóa, mất sắc tố da dạng bạch biến...
• Toluen có thể gây tổn thương gan, thận.
• Có những nghiên cứu chỉ ra rằng, tiếp xúc với nồng độ cao toluen trong thời
gian dài có thể gây đột biến gen, gây ung thư.
• Có thể gây ra tác dụng trên hệ thần kinh trung ương và tim, làm loạn nhịp tim,
nhức đầu, mệt mỏi, suy nhược…với nồng độ toluen trong không khí ở mức
200ppm.
1.2.3. Cận lâm sàng
• Định lượng nồng độ toluen máu.Toluen máu trước ca làm việc cuối cùng của
tuần làm việc >0,02 mg/L[21].
19
• Định lượng nồng độ toluen trong nước tiểu.Toluen niệu cuối ca làm việc >
0,03 mg/L hoặc O-crezon niệu > 0,3 mg/g creatinin[21].
1.2.4. Cấp cứu điều trị
- Nhiễm độc cấp tính:
Nếu nuốt phải toluen không cho nạn nhân nôn.
Nếu hít phải hơi toluen gây hậu quả cấp tính cần đưa nhanh nạn nhân ra
nơi không khí sạch. Nếu ngừng thở phải làm hô hấp nhân tạo. Nếu nạn nhân
có khó thở phải cho thở oxy.
Trường hợp toluen tiếp xúc với mắt hoặc da cần rửa ngay mắt hoặc da
bằng nhiều nước, ít nhất trong 15 phút, đồng thời nhanh chóng cởi bỏ các đồ bị ô
nhiễm (quần áo, giày dép…) và giặt sạch chúng trước khi dùng lại[6], [22].
- Nhiễm độc mạn tính:
Nhiễm độc mạn tính toluen hiện nay không có thuốc điều trị, chủ yếu là
điều trị triệu chứng.
1.3. Một số nghiên cứu trong nước và trên thế giới
1.3.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
Dung môi là một nhóm các chất hóa học khác nhau về cấu trúc hóa học
nhưng có chung các đặc tính quan trọng như ở dạng lỏng và dễ bay hơi ở
nhiệt độ thường, có thể gây độc đối với hệ thần kinh trung ương nếu tiếp xúc
thời gian dài trong môi trường công nghiệp có sự hiện diện của chúng ở nồng
độ cao. Trong các hỗn hợp dung môi hữu cơ đang được sử dụng rộng rãi trong
các ngành công nghiệp sơn, da giày… hiện nay thì toluen và xylene là hai
chất đóng vai trò chủ đạo. Tác động có hại của toluen đối với cơ thể người đã
được ghi nhận trong y văn như: mệt mỏi, đau đầu, mất ngủ, giảm phản xạ
thần kinh cơ, viêm da, tổn thương gan, thận và có thể gâyđột biến gen dẫn tới
ung thư [23], [15], [24].
Trong các nghiên cứu gần đây, ảnh hưởng của toluen đối với người lao
động càng được mô tả rõ ràng hơn, tính chất và cơ chế tác động lên các cơ
quan đích cũng được phát hiện ở mức phức tạp và tinh vi hơn.
20
Haro-García L và CS khi đánh giá các tế bào máu ở nhóm công nhân
thường xuyên tiếp xúc với hỗn hợp dung môi hữu cơ bao gồm benzen, toluen
và xylen ở nhà máy sơn ở Mexico đã nhận thấy tỉ lệ các hồng cầu lớn trong
máu ngoại vi cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không tiếp xúc. Kết
quả trên đã được điều chỉnh để loại bỏ ảnh hưởng của các yếu tố tuổi tác, tình
trạng hút thuốc hoặc uống rượu ở công nhân [25].
Talini D và CS đã phát hiện ra khi giảm liều tiếp xúc với toluen trong
một thời gian đủ dài thì các triệu chứng giống hen, kích thích phế quản, co
thắt tắc nghẽn đường thở đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt ở những bệnh nhân
được chẩn đoán hen nghề nghiệp giai đoạn sớm hoặc có mức FEV 1 thấp
nhưng không tiếp xúc dài với toluen[26].
Mills WJ và CS đã nhận thấy tình trạng run, tăng huyết áp, dị ứng ở
công nhân bảo dưỡng không sử dụng khẩu trang và các phương tiện bảo vệ cá
nhân sau khi tiếp xúc với hơi dung môi hữu cơ có trong keo dán trong xưởng
sản xuất. Kết quả đo môi trường trong điều kiện thực nghiệm ngay sau đó đã
cho thấy nồng độ trung bình trong 8 giờ của toluen là 159ppm và methyl ethyl
ketone là 58ppm. Nồng độ tối đa trong 15 phút tiếp xúc là 233ppm đối với
toluen và 85ppm đối với methyl ethyl ketone [27].
Zamyslowska-Szmytke E và CS đã nhận thấy những bất thường về
chức năng thăng bằng cơ thể ở những công nhân khỏe mạnh có tiếp xúc với
dung môi hữu cơ nồng độ thấp trong môi trường làm việc, trong đó toluen là
thành phần chính [28].
Heuser VD và CS khi nghiên cứu ảnh hưởng của dung môi hữu cơ tới
khả năng phá hủy DNA ở công nhân da giày đã nhận thấy tỉ lệ công nhân tiếp
xúc thường xuyên với dung môi hữu cơ trong keo dán giày có nồng độ acid
hippuric trung bình cao hơn và mức độ tổn thương gen cũng cao hơn có ý
nghĩa thống kê so với nhóm công nhân không tiếp xúc dung môi hữu cơ [29].
21
Thậm chí tình trạng tổn thương DNA cũng được phát hiện ở công nhân sơn có
phơi nhiễm với toluen liều thấp [30], [31].
Chính vì những ảnh hưởng bất lợi nêu trên nên nồng độ toluen trong
môi trường lao động luôn được giám sát một cách chặt chẽ. Bên cạnh việc đo
trực tiếp nồng độ toluen trong môi trường không khí nơi làm việc, nồng độ
của toluen và các chất chuyển hóa của nó trong dịch sinh học cũng được theo
dõi thường xuyên. Việc đo lường trực tiếp nồng độ toluen và các sản phẩm
chuyển hóa của nó trong dịch sinh học bằng kỹ thuật xét nghiệm mới, hiện đại
có vai trò quan trọng trong công tác quan trắc, giám sát sức khỏe nghề nghiệp
tại doanh nghiệp, đảm bảo độ chính xác cao trong đánh giá phơi nhiễm
toluen. Trong thời gian trước việc giám sát nhiễm độc toluen chủ yếu dựa vào
việc định lượng nồng độ acid hippuric và o-cresol trong nước tiểu, phương
pháp này có nhược điểm là không phản ánh chính xác mức độ phơi nhiễm
toluen do bản thân chúng cũng là sản phẩm chuyển hóa của các chất khác.
Việc định lượng trực tiếp nồng độtoluen trong máu cũng đã được đặt ra nhưng
gặp phải nhiều khó khăn trong thực tế do tốc độ chuyển hóa của toluen trong
cơ thể rất nhanh, khoảng 80% lượng toluen sau khi hấp thụ sẽ được chuyển
thành acid hippuric và bài tiết ra ngoài qua nước tiểu[6], [7]. Tồn tại thời gian
ngắn trong máu, cộng thêm nồng độ ở mức thấp và rất thấp là những trở ngại
chủ yếu trong việc triển khai rộng rãi kỹ thuật xét nghiệp trực tiếp toluen
trong dịch sinh học trong thực tế.
Ở các nước phát triển, nồng độ toluen trong máu và thậm chí là nồng
độ toluen trong nước tiểu (nhỏ hơn nồng độ trong máu 10 lần) đã bắt đầu
được coi là các chỉ số sinh học có giá trị dùng để phát hiện mức độ phơi
nhiễm với toluen của người lao động trong môi trường làm việc [32].
Asakawa F và CS nghiên cứu đề xuất nồng độ toluen tiêu chuẩn trong
nước tiểu để sàng lọc đối tượng tiếp xúc với toluen. Kết quả nghiên cứu đưa
22
ra các nồng độ đề xuất như saumức 1: khi nồng độ nhỏ hơn 38μg/L (rất ít khả
năng tiếp xúc với toluen trong môi trường ở mức 50ppm), mức 2: 38 60μg/L(có khả năng tiếp xúc với toluen trong môi trường ở mức 50ppm), và
mức 3: 60 -110μg/L (nhiều khả năng tiếp xúc với toluen trong môi trường ở
mức 50ppm), mức 4: trên 110μg/L (chắc chắn có khả năng tiếp xúc với toluen
trong môi trường ở mức 50ppm) [3].
Năm 2010, Hiệp hội Sức khỏe nghề nghiệp Nhật bản đã đề xuất giới
hạn tiếp xúc toluen trong môi trường không khí nơi làm việc ở mức 50ppm
(188mg/m3), nồng độ toluen trong máu là 0,6mg/L và trong nước tiểu là
0,06mg/L[33].
1.3.2. Nghiên cứu trong nước
Bệnh nghề nghiệp nhiễm độc benzene và đồng đẳng của benzene
(toluen và xylen) được nước ta công nhận là 1 trong 8 bệnh nghề nghiệp được
đền bù từ năm 1976. Tuy nhiên, bệnh này được lấy theo danh sách bệnh nghề
nghiệp của thế giới, không dựa trên những công trình nghiên cứu trong nước.
Cho đến nay, nước ta chưa có trường hợp nào được giám định là bệnh nhiễm
độc benzene và đồng đẳng của benzen (toluen và xylen) nghề nghiệp[1].
Các nghiên cứu trong nước khi đánh giá ảnh hưởng của dung môi hữu
cơ đến sức khỏe người lao động đã phát hiện được nồng độ dung môi hữu cơ
trong không khí vùng làm việc vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Các tác giả đã
sử dụng nồng độ acid hippuric trong nước tiểu như một chỉ số đánh giá sự
hiện diện và mức độ phơi nhiễm toluen theo Thường quy kỹ thuật Y học lao
động [7], [4].
Nguyễn Thế Công và CS (2003) khi đánh giá điều kiện làm việc và sức
khỏe nghề nghiệp lao động nữ ngành da giày đã thấy rằng nhiệt độ và độ ẩm
không khí trong các dây chuyền may đa số đều vượt tiêu chuẩn cho phép,
thông khí kém nên hạn chế khả năng pha loãng hơi khí độc trong phân xưởng,
23
nồng độ toluen vượt 1,2 - 1,8 lần tiêu chuẩn cho phép. Thời gian phản xạ đơn
giản gia tăng trong khi trí nhớ lại suy giảm khi so sánh các kết quả đo giữa
đầu và cuối ca làm việc[34].
HoàngMinh Hiền và CS (2003) khi đánh giá các yếu tố môi trường lao
động của Công ty da giày Phúc Yên cũng như ô nhiễm hóa chất dung môi hữu
cơ thấy rằng hầu hết các phân xưởng sản xuất giày đều bị ô nhiễm hóa chất
DMHC và vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,3 đến 1,5 lần, có điểm đo vượt
2,3 lần TCCP (ô nhiễm ở mức độ nhẹ và vừa), trong đó hóa chất toluen là chất
gây ô nhiễm chính. Về đặc điểm vi khí hậu: hầu hết các phân xưởng Công ty
da giày có nhiệt độ cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1 - 2 0C, nguồn ô nhiễm
nhiệt chính là do các lò sấy và khu vực lưu hóa giày. Nguy cơ giảm sức nghe
là 14,4% ở nhóm có tiếp xúc với dung môi hữu cơ, nguy cơ này tăng theo sự
có mặt của các yếu tố độc hại trong môi trường lao động [35].
1.4. Đặc điểm Ngành da giày tại Việt Nam
Năm 2010, ngành da giày Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng khá mạnh
với kim ngạch xuất khẩu 10 tháng đạt 4,06 tỷ USD gần bằng với kim ngạch
cả năm 2009 và đạt mức tăng trưởng 24,8%, xếp hạng thứ hai về xuất khẩu
trong cả nước.
Ngành da giày nước ta có từ lâu đời. Do nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội, ngành sản xuất da giày nhanh chóng trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật
riêng biệt và thu hút một lực lượng lao động lớn của xã hội. Theo Quyết định
số 6209/QĐ-BCT của Bộ Công Thương ban hành ngày 25/11/2010 về “Phê
duyệt tổng thể phát triển ngành da giày Việt nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030”: Mục tiêu tổng quát là xây dựng ngành da giày Việt Nam đến năm
2020 thành một ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Tiếp tục giữ vị trí trong nhóm các nước sản xuất và xuất
khẩu các sản phẩm da giày hàng đầu thế giới. Tạo thêm nhiều việc làm cho xã
24
hội trên cơ sở thu nhập của người lao động ngày càng được nâng cao, thực
hiện trách nhiệm xã hội ngày càng tốt, số lượng lao động được qua đào tạo
ngày càng tăng [36]. Với định hướng phát triển toàn ngành như trên cộng với
chính sách ưu đãi đầu tư của các địa phương, số lượng các doanh nghiệp tham
gia trong lĩnh vực da giày đã tăng trưởng mạnh mẽ, tạo công ăn việc làm cho
một số lượng lớn người lao động, đặc biệt là các lao động vùng nông thôn.
Đặc thù của lực lượng lao động trong ngành da giày là sử dụng nhiều
lao động phổ thông, mức độ lao động không nặng nhọc nhưng gò bó và đơn
điệu, môi trường lao động luôn chịu ảnh hưởng bởi các loại hóa chất như
dung môi hữu cơ. Thời gian làm việc trong ngày trung bình là 8h/ngày, vào
thời vụ công nhân phải làm việc tăng ca, nhiều khi đến 10-12h/ngày.
Với tỉ lệ nữ công nhân làm việc trong ngành da giày có tỉ lệ cao, chiếm
khoảng 80 đến 90% và phần lớn lao động hiện nay ở độ tuổi 25- 35. Do đó,
việc theo dõi, đánh giá thường xuyên tình trạng sức khỏe ở nữ công nhân
cũng như giám sát các yếu tố bất lợi ở môi trường làm việc có ý nghĩa quan
trọng, là căn cứ để xây dựng những chế độ chính sách hợp lý và kịp thời, góp
phần cải thiện và nâng cao sức khỏe người lao động.
Trong số nữ công nhân làm việc tại các dây chuyền sản xuất giày thì
những người phụ trách khâu dán keo mũi giày và dán keo đế giày ở các phân
xưởng đế và phân xưởng hoàn thành là có nguy cơ phơi nhiễm với dung môi
hữu cơ có chứa toluen cao nhất. Họ trực tiếp tiếp xúc với keo dán trong quá
trình làm việc nên dung môi hữu cơ sẽ xâm nhập vào cơ thể qua hệ hô hấp và
qua da. Mặc dù đã được trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân như khẩu trang
và găng tay nhưng qua khảo sát sơ bộ tại cơ sở chúng tôi nhận thấy rất nhiều
công nhân không sử dụng một biện pháp bảo vệ nào, do đó tình trạng phơi
nhiễm càng nặng nề hơn. Mặt khác, do cách bố trí dây chuyền sản xuất cũng
25
như điều kiện nhà xưởng nên một số công nhân làm việc ở vị trí bên cạnh
những người dán keo mũi giày và dán keo đế giày cũng bị ảnh hưởng, mặc dù
ở mức thấp hơn.
Theo quy định của Bộ Y tế về chất lượng không khí trong vùng làm
việc của các cơ sở có sử dụng lao động thì nồng độ toluen trong không khí
không được vượt quá 100mg/m3 trong 8 giờ làm việc, hoặc không quá
300mg/m3 đối với một lần đo bất kỳ [20].
Vì vậy, việc xây dựng đề tài nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa
liều tiếp xúc cá nhân trong môi trường lao động và nồng độ dung môi hữu cơ
cũng như chất chuyển hóa của nó (acid hippuric đối với toluen) trong dịch
sinh học ở nữ công nhân da giày, đối tượng lao động có phơi nhiễm dung môi
hữu cơ ở mức độ cao ở Việt nam là cần thiết, giúp cho các cơ quan quản lý và
người sử dụng lao động có một cái nhìn chính xác hơn về mức độ phơi nhiễm
dung môi hữu cơ ở người lao động. Tạo cơ sở khoa học cho việc xây dựng
tiêu chí giám sát nhiễm độc nghề nghiệp do dung môi hữu cơ ở nơi làm việc.
1.5. Vài nét về Công ty cổ phần giày Hưng Yên
1.5.1. Giới thiệu sơ lược về Công ty cổ phần giày Hưng Yên
Công ty cổ phần giày Hưng Yên nằm tại xã Minh Châu, huyện Yên
Mỹ, tỉnh Hưng Yên được thành lập từ năm 1984 dưới dạng hình doanh nghiệp
nhà nước với tên gọi Xí nghiệp thuộc da Hải Hưng tại tỉnh Hải Hưng ( nay
tách thành tỉnh Hải Dương và Hưng Yên). Ban đầu công ty sản xuất da thuộc
để bán cho các công ty khác, sau đó chuyển sang sản xuất giày vải đế cao su
lưu hóa cho các nước Đông Âu, nhưng từ năm 1994 đến nay đã chuyển sang
sản xuất giầy thể thao cho thị trường Liên minh Châu Âu.