Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế ở QUẬN DƯƠNG KINH, THÀNH PHỐ hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.42 KB, 89 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cơ cấu kinh tế giữ vị trí, vai trò quan trọng, là thước đo phản ánh trình
độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn lịch sử. Cơ
cấu kinh tế không phải là bất biến, cố định mà luôn có sự dịch chuyển. Trong
quá trình phát triển phát triển KT-XH, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH ở Việt Nam hiện nay, CDCCKT là một yêu cầu tất yếu. Chỉ có trên cơ sở
xác lập được một CCKT hợp lý, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các thành
phần kinh tế, các ngành kinh tế quốc dân, cũng như giữa các vùng lãnh thổ,
Việt Nam mới có thể xây dựng và phát triển một nền kinh tế ổn định, bền
vững. Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta luôn coi “đẩy mạnh
CDCCKT” là một giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Đại hội XI của Đảng đã yêu cầu phải “Thực hiện cơ
cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp
với các vùng” [13, tr. 191]. Đại hội XII của Đảng tiếp tục chủ trương đó, khi
chỉ rõ: phải “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền
kinh tế và các ngành, các lĩnh vực, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng” [14,
tr. 88].
Quận Dương Kinh được xác định là một trong những trung tâm phát
triển của thành phố Hải Phòng về hướng Đông Nam. Theo Quyết định số
1448/QĐ-TTg ngày 16/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh
Quy hoạch xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm
2050, hướng phát triển của quận Dương Kinh đến năm 2020, tầm nhìn 2030
sẽ trở thành “khu đô thị đạt tiêu chuẩn đô thị loại I, một đô thị tổng hợp –
trung tâm thương mại, văn hóa, thể dục thể thao; có công nghiệp sạch và nông
nghiệp theo hướng công nghệ cao duy trì ở mức hợp lý” [49, tr. 4]. Thực hiện
định hướng Quy hoạch đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, HĐND,
UBND thành phố Hải Phòng, những năm qua, Quận ủy, HĐND, UBND quận
3



Dương Kinh đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp khai thác mọi
tiềm năng, thế mạnh, huy động mọi nguồn lực của địa phương để phát triển
KT-XH, cải thiện đời sống nhân dân; trong đó đã chú trọng thúc đẩy sự
CDCCKT phù hợp với quy hoạch trở thành khu đô thị đạt tiêu chuẩn loại I.
Nhờ đó, “Kinh tế đã duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, CCKT dịch chuyển
theo hướng tăng tỷ trọng ngành thương mại, dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành
nông nghiệp” [9, tr.1-2].
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, như đánh giá
của Đại hội đại biểu Đảng bộ quận Dương Kinh lần thứ II, nhiệm kỳ 20152020, thì sự phát triển kinh tế của Quận “thiếu bền vững, CDCCKT chậm” so
với yêu cầu xây dựng, phát triển của một quận nội thành [9, tr. 11]; “cơ sở hạ
tầng, điều kiện KT-XH và môi trường của Quận phần lớn vẫn còn nguyên trạng
của vùng ngoại thành” [49, tr. 3-4]. Vì thế, trong thời gian tới, quận Dương
Kinh phải có nhiều giải pháp khả thi, quyết liệt để thúc đẩy nhanh hơn sự
CDCCKT của địa phương, nhằm sớm hoàn thành mục tiêu xây dựng Quận trở
thành “đô thị dịch vụ thương mại văn hóa thể thao trọng điểm; có kết cấu hạ
tầng kỹ thuật đồng bộ đáp ứng các tiêu chuẩn đô thị loại I cấp Quốc gia” như
"Báo cáo Tổng thể quy hoạch phát triển KT-XH quận Dương Kinh đến năm
2020" đã được UBND thành phố Hải Phòng phê duyệt [42, tr. 5].
Từ lý do đó, tôi chọn đề tài "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở quận Dương
Kinh, thành phố Hải Phòng" làm đề tài thạc sĩ chuyên ngành KTCT, với mong
muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề nghiên cứu của
đề tài luận văn được công bố.
2.1. Về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh
tế vùng lãnh thổ, tiêu biểu có các công trình của:

4



- Lê Du Phong, Nguyễn Thành Độ (1999), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Hai tác giả Lê Du Phong và Nguyễn Thành Độ trong công trình của
mình đã đề cập đến khái niệm CCKT, sự phân loại các CCKT (ngành, vùng,
thành phần kinh tế); làm rõ sự cần thiết và yêu cầu cấp bách phải đẩy nhanh
sự CDCCKT của đất nước, cả CCKT ngành, vùng lãnh thổ, trong quá trình
hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, để qua đó có thể khai thác được lợi
thế so sánh của đất nước và thị trường thế giới do xu thế toàn cầu hóa đem lại,
tránh được nguy cơ thua ngay trên sân nhà. Theo đó, hai tác giả đã chỉ ra xu
thế CDCCKT của Việt Nam là phải hướng vào sản xuất, cung ứng những sản
phẩm và dịch vụ mà thị trường thế giới cần; hơn nữa, phải là những sản phẩm
và dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc tế (tùy theo từng quốc gia và nhóm quốc gia)
về môi trường, lao động, xuất xứ, tồn dư chất kháng sinh; phải chú ý khai thác
tiềm năng, thế mạnh của từng vùng kinh tế để lựa chọn phát triển các ngành
hàng phù hợp với nhu cầu của thị trường, v.v. Đáng chú ý, là hai tác giả đã đề
xuất nhiều biện pháp thúc đẩy CDCCKT của Việt Nam (cả cơ cấu ngành kinh
tế và cơ cấu vùng kinh tế) để thích ứng với điều kiện hội nhập; trong đó có
các biện pháp về nhận thức, về công tác quy hoạch (ngành, vùng), về đổi mới
công nghệ, về nghiên cứu thị trường, về vốn, về liên kết hợp tác, v.v.
- Phạm Thị Khanh (2010), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
phát triển bền vững ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đề
cập đến vấn đề CDCCKT theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam trong
mối quan hệ chặt chẽ giữa sự phát triển hợp lý CCKT ngành với CCK vùng.
Trong công trình của mình, tác giả khẳng định “phát triển bền vững” là một
xu thế của thế giới hiện nay, mà quá trình CDCCKT theo hướng CNH, HĐH
ở Việt Nam hiện nay cũng cần phải tuân theo xu thế đó. Tác giả cũng đã chỉ
ra những nguy cơ của sự thiếu bền vững trong quá trình CDCCKT ở nhiều
ngành, nhiều vùng kinh tế của Việt Nam thời gian qua và trong tương lai, khi
5



sự CDCCKT ở đó thiếu tầm nhìn dài hạn, thường bị chi phối bởi lợi ích trước
mắt, nhất thời của một nhóm người sản xuất, cung ứng sản phẩm và dịch vụ.
Để khắc phục, tác giả đề xuất nhiều biện pháp về nghiên cứu thị trường, về
công tác quy hoạch (ngành, vùng), về vai trò định hướng của Nhà nước thông
qua các cơ quan chức năng ở Trung ương và địa phương đối với người sản
xuất, v.v.
- Hoàng Ngọc Phong (2010), “Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và đầu tư vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2010- 2020”,
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2. Trong bài báo, tác giả Hoàng Ngọc Phong
tập trung đề xuất một số giải pháp thúc đẩy CDCCKT ngành và vùng lãnh thổ
ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2010- 2020; trong đó rất đáng
chú ý là các giải pháp về công tác quy hoạch ngành, vùng kinh tế; giải pháp
về huy động vốn, giải pháp về thị trường và giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực ở Đồng bằng Sông Cửu Long.
2.2. Về vấn đề CDCCKT ngành, có một số công trình tiêu biểu như sau:
- Trần Sáng (1995), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nền kinh
tế thị trường ở thành phố Hải Phòng”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh
tế Quốc dân, Hà Nội. Trong luận án của mình, tiến sĩ Trần Sáng đã khái quát
lý luận chung về CDCCKT và CDCCKT ngành, phân tích thực trạng cơ cấu
kinh tế ngành và sự CDCCKT ngành trong nền KTTT ở thành phố Hải Phòng
từ 1986 đến 1994; đồng thời, chỉ ra phương hướng, điều kiện và giải pháp để
thực hiện CDCCKT ngành ở thành phố Hải Phòng những năm đầu thế kỷ
XXI. Điểm đáng chú ý là tác giả đã đề xuất việc CDCCKT ngành của thành
phố Hải Phòng phải trên cơ sở khai thác tiềm năng, lợi thế của một thành phố
cảng trong việc phát triển kinh tế biển, du lịch, thương mại nói chung; lợi thế
so sánh của từng quận, huyện cụ thể trên địa bàn Thành phố nói riêng, để có
một CCKT hợp lý, chứ không nên rập khuôn công thức chung của cả Thành
phố cho mọi quận, huyện.
6



- Đỗ Hoài Nam (1996), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát
triển những ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội. Tác giả cuốn sách đã trình bày những vấn đề lý luận chung về
CDCCKT và cơ cấu ngành kinh tế; phân tích mối quan hệ giữa cơ cấu ngành
kinh tế với cơ cấu vùng kinh tế, gắn CDCCKT ngành với phát triển các vùng
kinh tế trọng điểm của Việt Nam.
- Bùi Tất Thắng (1997), “Những nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Việt Nam”, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội. Trong cuốn sách này, tác giả Bùi Tất Thắng đã khái quát
những vấn đề lý luận cơ bản về CDCCKT và CDCCKT ngành ở Việt Nam;
trong đó đã đưa ra quan niệm về CDCCKT và CDCCKT ngành, những tiêu chí
đánh giá CDCCKT ngành, những nhân tố (trong nước và quốc tế) ảnh hưởng
đến sự CDCCKT ngành trong thời kỳ CNH, HĐH ở Việt Nam, trong đó nhấn
mạnh đến nhân tố khoa học – công nghệ, xem đó là giải pháp có tính đột phá
để đẩy nhanh quá trình CDCCKT ở Việt Nam.
- Nguyễn Đình Phan (2005), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của
Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 95. Tác giả khái quát tình hình
CD CCKT ngành của Việt Nam từ khi đổi mới đến năm 2005; chỉ ra những
thách thức của Việt Nam khi tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
và nhấn mạnh yêu cầu đẩy nhanh sự CDCCKT ngành trên cơ sở phát huy lợi
thế so sánh của Việt Nam, trong đó phải chú ý tính toán đến các tiêu chuẩn
quốc tế khi tham gia vào WTO.
- Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác giả đánh giá khái quát quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam từ 1986 đến trước Đại hội X của Đảng;
trong đó, đề cập cả quá trình chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành và trong nội
bộ từng ngành. Điều đáng chú ý là các đề xuất của tác giả về giải pháp thúc đẩy
CDCCKT ngành ở Việt Nam trong thời gian tới tương đối đồng bộ, từ việc đổi

7


mới tư duy về mô hình kinh tế, đến ban hành chiến lược phát triển KT-XH, xây
dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, các vùng kinh tế, công tác
đào tạo nguồn nhân lực, giải pháp huy động vốn, giải pháp thị trường, v.v.
- Đỗ Mai Thành (2007), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu”, Tạp chí Cộng sản, số 3. Tác giả tập trung đề xuất các giải
pháp CDCCKT ngành ở Việt Nam nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, khi mà Việt
Nam đã là thành viên thứ 150 của WTO. Theo đó, tác giả nhấn mạnh đến giải
pháp nghiên cứu thị trường; giải pháp quy hoạch phát triển ngành trên cơ sở
nghiên cứu kỹ lợi thế so sánh của từng vùng kinh tế, từng địa phương, từng
ngành so với khu vực và thế giới; giải pháp về đổi mới công nghệ, về vốn, về
lựa chọn mặt hàng, ngành hàng mũi nhọn để xuất khẩu, v.v.
- Nguyễn Quốc Hùng (2011), “Quận Bình Thạnh đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 21 tháng 3. Tác giả đã
phân tích thực trạng CDCCKT ngành ở quận Bình Thạnh trong giai đoạn
2006 - 2015 theo hướng tập trung phát triển thương mại, dịch vụ, gắn liền với
định hướng phát triển Bình Thạnh thành một quận Trung tâm của Thành phố
Hồ Chí Minh trong thời gian tới; đồng thời, tác giả chỉ ra các giải pháp mà
quận Bình Thạnh thực hiện nhằm thúc đẩy CD CCKT nơi đây trong giai đoạn
đến năm 2020. Đáng chú ý trong bài báo này là tác giả nêu lên một trong
những kinh nghiệm thúc đẩy CDCCKT ngành thời gian qua là UBND quận
đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho thương mại và
dịch vụ phát triển. Về các giải pháp mà quận Bình Thạnh triển khai thực hiện
trong thời gian tới, bài báo cho biết: sau khi quy hoạch triển KT-XH được phê
duyệt, Quận sẽ đẩy mạnh xây dựng kế hoạch phân kỳ thực hiện quy hoạch,
tập trung triển khai quy hoạch ngành. Đối với những ngành hạn chế phát triển
theo quy hoạch, thì việc cấp phép phải tính toán phù hợp với quy hoạch của
từng giai đoạn. Bên cạnh đó, Quận sẽ tập trung vào các giải pháp nâng cao


8


chất lượng nguồn nhân lực, huy động vốn, nâng cao năng lực quản lý nhà
nước của chính quyền các cấp.
- Phạm Huy Quang (2011), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Thái Bình”, Luận văn Thạc sỹ KTCT,
Học viện Chính trị. Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận về CDCCKT nói chung,
CDCCKT ngành nói riêng, tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng CDCCKT
trong nông nghiệp ở tỉnh Thái Bình, chỉ ra những bất cập cần tập trung tháo gỡ;
đồng thời, đề xuất nhiều quan điểm, giải pháp thúc đẩy CDCCKT ngành nông
nghiệp tại các địa phương nói trên theo hướng CNH, HĐH.
- Nguyễn Thị Thanh Tâm (2012), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn tỉnh Nam Định trong quá trình CNH, HĐH”, Luận án tiến sĩ Kinh tế,
Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội. Trong luận án, tác giả tập trung
đánh giá thực trạng CCKT nông thôn ở tỉnh Nam Định và đề xuất một số giải
pháp thúc đẩy CDCCKT nông thôn theo hướng khai thác tối đa tiềm năng, lợi
thế của từng địa phương. Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Tâm rất chú ý đến giải
pháp hỗ trợ vốn của Nhà nước, công tác khuyến nông, đào tạo nghề cho nông
dân, thị trường, phát triển làng nghề, công tác quy hoạch… để quá trình
CDCCKT ở Nam Định đạt hiệu quả cao.
- Nguyễn Khắc Hải (2015), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
tỉnh Hưng Yên”, Luận văn Thạc sĩ KTCT, Học viện Chính trị. Tác giả đã đi
sâu phân tích thực trạng CDCCKT trong nông nghiệp ở tỉnh Hưng Yên, đề
xuất các giải pháp thúc đẩy CDCCKT ngành nông nghiệp tại địa phương theo
hướng CNH, HĐH.
Tóm lại, đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố liên quan đến
đề tài luận văn của học viên, song chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề
CDCCKT ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng – một quận đang trong

quá trình đô thị hóa, dưới góc độ KTCT. Vì thế, đề tài luận văn mà học viên
lựa chọn không trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã công bố. Mặc dù
9


vậy, những kết quả nghiên cứu của các công trình nói trên là tài liệu tham khảo
rất hữu ích cho học viên trong quá trình triển khai viết luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn CDCCKT, luận văn đề
xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh CDCCKT ở quận Dương
Kinh, thành phố Hải Phòng thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về CDCCKT ở quận Dương Kinh.
- Đánh giá thực trạng CDCCKT ở quận Dương Kinh thời gian qua. Chỉ
rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải
quyết nhằm đẩy mạnh CDCCKT ở quận Dương Kinh thời gian tới.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm đẩy mạnh CDCCKT ở
quận Dương Kinh thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: luận văn nghiên cứu vấn đề CDCCKT ở quận Dương
Kinh theo ngành, vùng và thành phần kinh tế.
- Về không gian: quận Dương Kinh.
- Về thời gian: Phạm vi thời gian đánh giá thực trạng: giai đoạn
2010-2015; đề xuất giải pháp thực hiện đến năm 2020 và định hướng đến
năm 2025.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận:

10


Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, về CCKT và CDCCKT.
- Cơ sở thực tiễn:
Cơ sở thực tiễn để thực hiện mục đích và các nhiệm vụ của luận văn
được tác giả rút ra từ quá trình nghiên cứu các văn kiện, báo cáo của Đảng bộ,
UBND, cùng các cơ quan chức năng của Thành phố và quận Dương Kinh,
thành phố Hải Phòng; đồng thời, rút ra từ thực tiễn công tác tại Quận - địa
phương nơi tác giả luận văn sinh sống và công tác.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng
phương pháp trừu tượng hóa khoa học của KTCT Mác - Lê-nin; dựa vào
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các văn kiện của
Đảng bộ, UBND thành phố Hải Phòng và quận Dương Kinh để làm sáng tỏ
cơ sở lý luận về CDCCKT ở quận Dương Kinh. Đồng thời, dựa vào báo cáo
của các cơ quan chức năng thuộc Quận có liên quan đến vấn đề CDCCKT,
luận văn sử dụng các phương pháp: tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích,
kết hợp lô-gíc với lịch sử, cùng một số phương pháp khác để phân tích thực
trạng, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch CCKT ở
quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm các luận cứ
khoa học để cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chức năng trong quận
Dương Kinh, thành phố Hải Phòng tham khảo trong quá trình hoạch định

các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn Quận.
Đồng thời, có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
học tập, giảng dạy bộ môn KTCT liên quan đến vấn đề CDCCKT trong quá
trình CNH, HĐH.
7. Kết cấu của đề tài
11


Gồm có: 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
Ở QUẬN DƯƠNG KINH, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1.1. Quan niệm về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1.1. Quan niệm về cơ cấu kinh tế
Cơ cấu hay kết cấu nói chung là một phạm trù triết học phản ánh cấu
trúc và các mối quan hệ tất yếu bên trong của một đối tượng. Vận dụng vào
lĩnh vực kinh tế, CCKT phản ánh tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế
quốc dân cùng các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các bộ phận đó.
Cơ cấu kinh tế là kết quả tất yếu của sự phân công lao động xã hội.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ thúc
đẩy phân công lao động xã hội phát triển. Ban đầu, xã hội loài người chỉ dựa
vào săn bắn và hái lượm. Sau đó, cùng với sự phát triển của công cụ sản xuất,
đã xuất hiện sự phân chia giữa trồng trọt và chăn nuôi ngay trong lĩnh vực
nông nghiệp. Theo thời gian, với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tiểu thủ
công nghiệp ra đời; nhu cầu trao đổi tăng lên đã tách thương nghiệp ra khỏi

lĩnh vực sản xuất vật chất để hình thành một ngành kinh tế riêng. Cuộc cách
mạng công nghiệp với sự xuất hiện đầu tiên của máy hơi nước đã đánh dấu sự
ra đời và phát triển của ngành công nghiệp. Cứ thế, cùng với những tiến bộ
của khoa học – kỹ thuật – công nghệ, phân công lao động xã hội ngày càng
sâu sắc, nền kinh tế ngày càng phân chia ra thành nhiều ngành, nghề khác
nhau, nhưng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Đồng thời, lực lượng lao động
của xã hội cũng được phân bổ ngày càng hợp lý hơn, phù hợp với tiềm năng,
thế mạnh của tài nguyên thiên nhiên, nhu cầu thị trường của từng địa phương
trong mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ. Như vậy, chính phân công lao động xã
hội là tiền đề trực tiếp hình thành CCKT ngành và vùng lãnh thổ.
Bàn về CCKT, đã có nhiều tác giả đưa ra các định nghĩa khác nhau.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán kinh tế chính trị học”, C.Mác đã quan
13


niệm: “CCKT xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với quá trình
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất” [25, tr.7]. Ông cho rằng,
đó là một sự phân chia về chất và một tỷ lệ số lượng của quá trình sản xuất
xã hội. Điều đó có nghĩa là, C. Mác đã chú ý đến cả hai mặt chất lượng và số
lượng của CCKT.
Từ điển Bách khoa Việt Nam thì định nghĩa “CCKT là tổng thể các
ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp
thành” [39, 610]. Định nghĩa này coi CCKT chỉ bao gồm các ngành, lĩnh vực
và bộ phận hợp thành nền kinh tế, có quan hệ gắn bó với nhau; nhưng chưa
chú ý đến các quan hệ kinh tế và sự phân chia các quan hệ kinh tế, các ngành,
lĩnh vực và bộ phận của nền kinh tế theo những tỷ lệ nhất định. Do đó, chưa
phù hợp với góc độ KTCT.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Hùng đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh hơn,
khi coi: “CCKT là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ
trọng tương ứng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định giữa chúng hợp

thành”[22, tr. 11]. Tuy nhiên, nếu tiếp cận dưới góc độ KTCT mà không coi
CCKT bao gồm cả những quan hệ kinh tế, như C. Mác đã nói “là toàn bộ
những quan hệ sản xuất…”, thì là một thiếu sót.
Kế thừa tính hợp lý trong những định nghĩa đã có về CCKT, tác giả
luận văn cho rằng: “CCKT là tổng thể các quan hệ, các bộ phận, các ngành,
các lĩnh vực hợp thành nền kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng, phụ thuộc
lẫn nhau và có mối quan hệ tương hỗ tương đối ổn định”. Ở đây, tác giả luận
văn nhìn CCKT cả ở khía cạnh về số lượng (các quan hệ kinh tế, các bộ phận,
các ngành, các lĩnh vực hợp thành nền kinh tế) và chất lượng (thể hiện ở vị trí,
tỷ trọng của các yếu tố hợp thành nền kinh tế), cùng các mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau, tương hỗ lẫn nhau của các yếu tố hợp thành nền kinh tế.
Tóm lại, mặc dù sự diễn đạt có khác nhau, song nhìn chung các định
nghĩa về CCKT dưới góc độ KTCT, đều xem đó là tổng thể các mối quan hệ

14


chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các yếu tố, các bộ
phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Nói đến CCKT là nói đến các bộ
phận hợp thành và quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận đó. Việc phân tích, đánh giá
CCKT đòi hỏi phải xem xét cấu trúc bên trong của nền kinh tế, biểu hiện ở
những mối quan hệ kinh tế giữa các bộ phận và giữa các phân hệ của các bộ
phận đó trong hệ thống kinh tế. Những mối quan hệ kinh tế đó ràng buộc lẫn
nhau và được biểu hiện ở những quan hệ về mặt lượng cũng như quan hệ về
mặt chất. Sự thay đổi của một số bộ phận và phân hệ nào đó trong hệ thống
kinh tế, sẽ dẫn đến làm thay đổi các bộ phận và phân hệ còn lại, hoặc ngược lại.
* Phân loại cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế thường được phân loại thành các loại hình: cơ cấu các
ngành kinh tế (nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ); cơ cấu các vùng kinh tế
(miền núi - trung du - đồng bằng - đô thị…); cơ cấu các thành phần kinh tế (kinh

tế nhà nước - kinh tế tập thể - kinh tế tư nhân…).
Trước hết, cơ cấu ngành kinh tế phản ánh số lượng, vị trí, tỷ trọng và
mối quan hệ giữa các ngành nghề, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế
phân chia theo tính chất kinh tế - kỹ thuật. Nó bao gồm các ngành chính:
Nông nghiệp, Công nghiệp, Dịch vụ. Bên trong cấu trúc của mỗi ngành chính
đó lại có nhiều ngành khác hợp thành. Cụ thể:
Ngành nông nghiệp, theo nghĩa rộng, có nhiều ngành gắn liền với các
quá trình sinh học của cây trồng và vật nuôi, gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp
và ngư nghiệp. Theo nghĩa hẹp: nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội,
các ngành này hình thành và phát triển tương đối độc lập, lại chia thành nhiều
phân ngành khác nhau, như: ngành trồng cây lương thực, ngành trồng cây ăn
quả…; ngành chăn nuôi gia cầm, ngành chăn nuôi gia súc…, nhưng lại gắn bó
mật thiết với nhau.
Ngành công nghiệp bao gồm ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp
nặng. Trong ngành công nghiệp nhẹ lại có các phân ngành: chế biến nông,
15


lâm, thuỷ sản; may mặc; da – giầy; điện tử – tin học; một số sản phẩm cơ khí
và hàng tiêu dùng, v.v. Ngành công nghiệp nặng có: khai khoáng; dầu khí,
luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng, v.v.
Ngành dịch vụ bao gồm rất nhiều phân ngành: thương mại; dịch vụ vận
tải hàng hoá, hành khách, kho bãi; dịch vụ bưu chính – viễn thông; dịch vụ tài
chính - tiền tệ (tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán…); dịch vụ y tế;
dịch vụ văn hóa; dịch vụ kỹ thuật; dịch vụ tư vấn; dịch vụ phục vụ đời sống
khác (ăn uống, giúp việc gia đình…), v.v.
Thứ hai, cơ cấu thành phần kinh tế phản ánh số lượng, vị trí, tỷ
trọng,


mối quan hệ giữa các bộ phận, lực lượng kinh tế được hình thành

trên các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất trong nền kinh tế
quốc dân. Nền kinh tế có nhiều thành phần, thì bao giờ trong đó cũng có
một thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, phản ánh đặc trưng, bản chất
của một chế độ KT-XH.
Ở Việt Nam hiện nay, theo xác định của Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011),
được thông qua tại Đại hội XI của Đảng (năm 2011), thì nền kinh tế nước ta
có 4 thành phần kinh tế chủ yếu là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; trong đó, “Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của
nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức
kinh tế đa dạng ngày càng phát triển” [13, tr. 73-74]. Đại hội XII của Đảng
tiếp tục khẳng định nền kinh tế có nhiều thành phần; “trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế” [14, tr. 103].

16


Thứ ba, cơ cấu vùng kinh tế: là kết quả của sự phân công lao động xã
hội theo lãnh thổ; phản ánh sự bố trí các tiềm lực kinh tế của nền kinh tế quốc
dân theo phạm vi lãnh thổ. CCKT này thể hiện khả năng khai thác tài nguyên,
tiềm lực KT-XH của nền kinh tế trên cơ sở phát huy ưu thế của từng vùng
lãnh thổ phục vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Trong từng quốc gia do những điều kiện tự nhiên, KT-XH khác nhau

mà trong quá trình phát triển đã hình thành các vùng kinh tế khác nhau. Việc
xác lập CCKT vùng lãnh thổ một cách hợp lý là nhằm phân bổ các ngành sản
xuất trên vùng – lãnh thổ sao cho thích hợp để triển khai có hiệu quả mọi tiềm
năng và lợi thế của từng vùng. Việc bố trí sản xuất ở mỗi vùng không khép
kín mà có sự liên kết với các vùng khác có liên quan để gắn với CCKT của cả
nước. Ở Việt Nam bao gồm 7 vùng kinh tế: Miền núi và trung du Bắc Bộ;
Đồng bằng sông Hồng; Duyên hải Bắc Trung Bộ; Duyên hải Nam Trung Bộ;
Tây Nguyên; Đông Nam Bộ; Đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó, theo các Quyết định 145, 146, 148/2004/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, thì nền kinh tế nước ta hiện nay có 4 vùng kinh tế trọng
điểm với 24 tỉnh, thành phố, gồm: Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ; Vùng
kinh tế trọng điểm Miền Trung; Vùng kinh tế trọng điểm Phía Nam; Vùng
kinh tế trọng điểm Vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
* Tính chất của cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế bao giờ cũng vừa mang tính khách quan, vừa mang tính
lịch sử.
Trước hết, tính khách quan của CCKT được quy định bởi nó là kết quả
của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Điều đó
thể hiện ở chỗ: sự hình thành và thay đổi số lượng, vị trí, tỷ trọng của các bộ
phận hợp thành nền kinh tế quốc dân là do sự vận động từ chính nội tại trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội theo sự chi

17


phối của các quy luật kinh tế khách quan. Với một trình độ lực lượng sản xuất
nhất định, sự phân công lao động xã hội sẽ quy định nền kinh tế có các ngành,
lĩnh vực, bộ phận kinh tế nào và tỷ lệ giữa các lĩnh vực, bộ phận đó ra sao? Sự
thay đổi về cấu trúc và tỷ lệ tương ứng giữa các lĩnh vực, bộ phận của nền
kinh tế sẽ diễn ra một cách thường xuyên và trước hết là tự phát theo sự điều

tiết của “bàn tay” thị trường. Do vậy mà, một CCKT hợp lý bao giờ cũng
phản ánh được sự vận động quy luật khách quan trong nền kinh tế. Vai trò
chủ quan của con người chính là nhận thức và vận dụng đúng theo quy luật
khách quan đó để xác định cơ cấu, hoạch định chiến lược KT-XH đúng đắn.
Mọi sự áp đặt chủ quan, nóng vội hay bảo thủ trong việc thay đổi CCKT đều
mang lại tác động xấu đối với sự phát triển KT-XH của địa phương, đất nước.
Thứ hai, CCKT có tính lịch sử, bởi sự biến đổi của CCKT luôn gắn liền
với sự thay đổi không ngừng của lực lượng sản xuất, nhu cầu tiêu dùng và đặc
điểm chính trị, xã hội của địa phương, quốc gia trong những không gian và
thời gian nhất định. Không thể có một CCKT mẫu làm chuẩn mực cho mọi
không gian, thời gian, mọi quốc gia và địa phương. Các địa phương, quốc gia
có chế độ kinh tế, xã hội và trình độ phát triển như nhau, song vẫn có sự khác
nhau nhất định về CCKT, là do tâm lý, phong tục, tập quán sinh hoạt… của
người tiêu dùng ở đó khác nhau, dẫn đến tổng cầu tiêu dùng ở đó khác nhau.
Do vậy, mỗi vùng, mỗi địa phương và mỗi quốc gia phải chọn cho mình một
CCKT phù hợp với điều kiện của mình trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
* Tiêu chí đánh giá tính hợp lý của một CCKT
Một CCKT hợp lý phải thoả mãn được các tiêu chí sau:
Thứ nhất, phải phù hợp với các quy luật khách quan. Đây là tiêu chí
quan trọng nhất. Mặc dù CCKT là biểu hiện cô đọng nội dung chiến lược phát
triển KT-XH của từng giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng không vì thế mà chủ
quan, tự áp đặt những tỷ lệ và vị trí của các lĩnh vực, bộ phận, ngành kinh
tế… trái ngược với yêu cầu của các quy luật khách quan và xu thế phát triển
18


của xã hội. Do đó, việc xác định các ngành, lĩnh vực, bộ phận cùng với vị trí,
tỷ trọng và mối quan hệ tương tác giữa chúng phải được hình thành trên cơ sở
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội thực
tế của từng quốc gia (địa phương) trong những thời gian nhất định. Bất cứ

hành vi nào mang tính áp đặt và không tuân thủ quy luật kinh tế khách quan
sẽ làm cho CCKT ở đó không phát huy được hiệu quả; có khi còn dẫn đến sự
khủng hoảng KT-XH.
Thứ hai, phải cho phép khai thác có hiệu quả các nguồn lực kinh tế
trong và ngoài nước. Đây là hệ quả của tiêu chí thứ nhất; bởi sự phù hợp với
các quy luật khách quan sẽ là điều kiện để CCKT phát huy hết được mọi tiềm
năng, thế mạnh của đất nước (địa phương) cho thực hiện các mục tiêu KT-XH
nhất định. Nếu như các nguồn lực của nền kinh tế chưa được khai thác có
hiệu quả (hoặc lãng phí, hoặc chưa được khai thác), thì điều đó chứng tỏ
CCKT được xác lập chưa phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật và thực tiễn
khách quan. Vì vậy, mọi năng lực sản xuất của xã hội chỉ có thể được giải
phóng; những nguồn lực của nền kinh tế chỉ có thể được phát huy một cách có
hiệu quả, khi có một CCKT hợp lý.
Thứ ba, phải phù hợp với xu thế phát triển của khu vực và thế giới.
Hiện nay, toàn cầu hoá là xu thế khách quan lôi cuốn mọi nền kinh tế trên thế
giới. Do vậy, một CCKT hợp lý là sự phát triển của mỗi lĩnh vực, mỗi ngành
kinh tế của quốc gia (địa phương) phải gắn với thị trường thế giới để có thể
vừa khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước và nguồn lực ở nước ngoài;
đồng thời, có thể tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu đối với những
ngành, lĩnh vực mà đất nước (địa phương) có ưu thế, nhằm vừa đáp ứng tối đa
nhu cầu của cả thị trường trong nước và của cả thị trường quốc tế. Mặt khác,
CCKT phải được xây dựng phù hợp với xu thế tiến bộ của khoa học - công
nghệ trên thế giới; để trên cơ sở đó, tận dụng được những thành tựu của văn
minh nhân loại vào quá trình phát triển kinh tế.
19


1.1.2. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
* Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Là sản phẩm của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao

động xã hội, CCKT không phải là một thực thể bất biến; bởi lực lượng sản
xuất là yếu tố năng động, luôn luôn biến đổi và phát triển. Điều đó kéo theo
sự mở rộng phân công lao động xã hội; dẫn đến thay đổi số lượng, vị trí, tỷ
trọng, cùng mối quan hệ các yếu tố hợp thành cấu trúc bên trong của nền
kinh tế; làm cho CCKT có sự thay đổi cho phù hợp với phân công lao động xã
hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và các điều kiện về KT-XH
trong những giai đoạn nhất định. Đó chính là sự CDCCKT. Thực chất,
CDCCKT là quá trình làm thay đổi cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để
xây dựng CCKT mới tiên tiến, hoàn thiện hơn.
Từ cách tiếp cận trên, tác giả luận văn cho rằng: CDCCKT là quá trình
làm thay đổi cấu trúc, vị trí, vai trò, tỷ trọng và mối quan hệ tương ứng giữa
các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế nhằm tạo ra một CCKT hợp
lý, cho phép phát huy hiệu quả mọi tiềm năng trong và ngoài nước để thực
hiện thành công các mục tiêu KT-XH.
Đó là quá trình chủ động làm thay đổi cấu trúc và các quan hệ tỷ lệ
giữa các yếu tố cấu thành nền kinh tế từ một trạng thái nhất định tới trạng thái
hợp lý hơn để đạt hiệu quả mong muốn, thông qua sự tác động có ý thức của
các chủ thể quản lý bằng quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách… trên cơ
sở vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan.
Nhân tố thúc đẩy sự CDCCKT, trước hết là do sự phát triển của lực
lượng sản xuất; sau đó là do yêu cầu của thị trường. Nhận thức đúng đắn các
nhân tố đó và các quy luật kinh tế khách quan, các chủ thể quản lý (trên phạm
vi quốc gia là chính phủ, trên phạm vị địa phương là UBND cấp tỉnh, huyện,
xã) chủ động tác động bằng quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, các
chính sách (tài chính, tín dụng, khoa học - công nghệ…) để định hướng,
20


khuyến khích các chủ thể sản xuất, kinh doanh mở rộng hay thu hẹp sản xuất,
kinh doanh một ngành hàng cụ thể phù hợp với mục tiêu của chiến lược phát

triển KT-XH từng thời kỳ.
* Xu hướng có tính quy luật của sự CDCCKT
Chuyển dịch CCKT bao gồm việc cải biến CCKT theo ngành, theo
vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế cho phù hợp trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và các điều kiện KT-XH của từng thời kỳ. Sự chuyển
dịch đó thường diễn ra theo các xu hướng có tính quy luật sau đây:
Một là, dịch chuyển từ lĩnh vực sản xuất vật chất sang phát triển lĩnh
vực dịch vụ.
Hai là, dịch chuyển từ nông nghiệp sang phát triển công nghiệp và dịch
vụ gắn với quá trình công nghiệp hóa.
Ba là, dịch chuyển từ những ngành có giá trị gia tăng thấp sang phát
triển những ngành đem lại giá trị kinh tế cao trong nội bộ từng ngành phù hợp
với tiềm năng, lợi thế của từng vùng, miền, địa phương. Trên cơ sở đó mà
phân bố lại sức sản xuất theo vùng, miền một cách hợp lý hơn.
Bốn là, dịch chuyển từ cơ cấu đơn thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể) sang phát triển đa dạng các loại hình tổ chức kinh tế và thành
phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất..
1.2. Quan niệm, nội dung, các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng
1.2.1. Quan niệm và nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở quận
Dương Kinh
* Quan niệm về CDCCKT ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng
Kế thừa quan niệm về CDCCKT đã được bàn ở tiết 1.1, tác giả luận văn
cho rằng: CDCCKT ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng là hoạt động
có mục đích của cấp ủy, chính quyền địa phương và các hộ sản xuất kinh
doanh, nhằm làm thay đổi cấu trúc, vị trí, vai trò, tỷ trọng và mối quan hệ
21


tương ứng giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế của địa

phương, để tạo ra một CCKT hợp lý, phù hợp với thị trường, mục tiêu phát
triển KT-XH của một quận nội thành và phát huy tiềm năng, thế mạnh của
Quận.
Nội hàm của quan niệm trên thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chủ thể CDCCKT ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng,
trước hết là cấp ủy, chính quyền các cấp trên địa bàn quận Dương Kinh. Quận
ủy với tư cách là chủ thể lãnh đạo, đề ra quan điểm, chủ trương, nghị quyết
lãnh đạo việc CDCCKT quận; UBND quận (bên dưới là cấp xã, phường) với
tư cách là chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế, thực hiện việc tổ chức triển
khai chủ trương, nghị quyết về CDCCKT trên địa bàn Quận thành các quy
hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, vùng và các thành phần kinh tế; đồng
thời, xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích các chủ thể
sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển theo quy
hoạch, kế hoạch nói trên. Các hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn Quận là
chủ thể trực tiếp biến các quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Quận ủy;
quy hoạch, kế hoạch của UBND quận về CDCCKT thành hiện thực, khi các
hộ này chủ động bỏ vốn đầu tư phát triển các ngành, vùng kinh tế theo định
hướng quy hoạch, kế hoạch của chính quyền địa phương.
Thứ hai, mục đích CDCCKT ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng
là nhằm thay đổi trạng thái CCKT còn mang nặng đặc điểm của một huyện
ngoại thành sang một CCKT hợp lý hơn, phù hợp với mục tiêu xây dựng và
phát triển Dương Kinh thành một quận nội thành. Tất nhiên, CCKT đó phải
cho phép phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của quận nội thành; phù hợp với
xu thế phát triển chung của đơn vị hành chính đô thị.
Thứ ba, phương thức CDCCKT ở quận Dương Kinh, thành phố Hải
Phòng là cấp ủy, chính quyền các cấp của quận Dương Kinh chủ động thực
hiện các biện pháp khuyến khích các hộ sản xuất kinh doanh của mọi thành
22



phần kinh tế mở rộng hay thu hẹp đầu tư kinh doanh vào những ngành hàng,
những vùng kinh tế cụ thể, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của địa phương trong từng thời kỳ. Các biện pháp đó bao gồm: tổ chức
giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi lực lượng, nhất là các hộ sản xuất
kinh doanh nhận thức rõ sự cần thiết phải cơ cấu lại nền kinh tế trên địa bàn
Quận; xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách
khuyến khích các hộ sản xuất kinh doanh bỏ vốn đầu tư theo định hướng của
quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH; chủ động chuẩn bị các nguồn lực
(vốn, kết cấu hạ tầng, lao động về số và chất lượng…) và các điều kiện đảm
bảo khác để hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư, kinh doanh phù hợp với
mục tiêu xây dựng CCKT của một quận nội thành.
* Nội dung CDCCKT ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng
Cũng giống như các địa phương khác, nội dung CDCCKT ở quận
Dương Kinh, thành phố Hải Phòng cũng bao gồm: CDCCKT ngành,
CDCCKT vùng và CDCCKT theo thành phần kinh tế.
Một là, CDCCKT ngành.
Căn cứ vào điều kiện tự nhiên và xã hội của quận Dương Kinh; căn cứ
vào mục tiêu xây dựng và phát triển Dương Kinh thành khu đô thị đạt tiêu
chuẩn đô thị loại I cấp quốc gia, nội dung CDCCKT ngành ở quận Dương
Kinh thành phố Hải Phòng bao gồm:
Thứ nhất, chuyển dịch CCKT ngành ở Quận theo hướng giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành thương mại, dịch vụ [9, tr. 2], để đến
năm 2020: công nghiệp, xây dựng chiếm 58,9%; thương mại, dịch vụ chiếm
36,9%, nông nghiệp, thủy sản chỉ còn 4,2% trong tổng thu nhập trên địa bàn
Quận [9, tr. 15].
Thứ hai, trong nội bộ ngành nông nghiệp: “tập trung chuyển dịch cơ
cấu cây trồng, vật nuôi” [9, tr. 17], từ nuôi, trồng những con, cây có giá trị
gia tăng thấp sang nuôi, trồng những con, cây đem lại giá trị kinh tế cao; gắn
với đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, đưa nông nghiệp, ngư
23



nghiệp phát triển lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ, nhất là công nghệ sinh học.
Thứ ba, trong nội bộ ngành công nghiệp và xây dựng: thực hiện dịch
chuyển từ những ngành có hàm lượng khoa học thấp, giá trị gia tăng thấp
sang vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một
số ngành có công nghệ cao, “công nghệ sạch, thân thiện với môi trường” [9,
tr. 14], giá trị gia tăng cao; phù hợp với tiềm năng và lợi thế của địa phương,
như: công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc…, khai thác có hiệu
quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Thứ tư, trong ngành dịch vụ: dịch chuyển từ những ngành dịch vụ có
giá trị gia tăng thấp sang phát triển mạnh các ngành dịch vụ, thương mại gắn
với lợi thế của Dương Kinh là cửa ngõ phía Đông Nam thành phố Hải Phòng,
như: “dịch vụ kho bãi trung chuyển hàng hóa, dịch vụ vận tải, bến, bãi đỗ xe,
trung tâm thương mại, khách sạn, nhà hàng, dịch vụ bưu chính viễn thông, tài
chính, ngân hàng, y tế, giáo dục đào tạo”, v.v. [9, tr. 16].
Để đánh giá kết quả sự chuyển dịch CCKT theo ngành, có thể dựa vào
sự thay đổi tỷ trọng lao động và giá trị trong GDP trên địa bàn giữa các ngành
và trong nội bộ từng ngành.
Hai là, CDCCKT vùng
Phát huy vai trò của các phường trọng điểm có mức tăng trưởng
cao, tích luỹ lớn; đồng thời tạo điều kiện phát triển các phường khác, trên
cơ sở phát huy thế mạnh của từng phường. Quan tâm phát triển KT-XH
gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh ở các địa bàn phức tạp. Có chính
sách hỗ trợ nhiều hơn cho địa bàn khó khăn để phát triển kết cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo.
Để đánh giá kết quả sự dịch chuyển CCKT theo vùng, có thể dựa
vào sự tăng, giảm giá trị trong GDP của mỗi vùng, trên cơ sở phát huy lợi
thế so sánh, tiềm năng, thế mạnh của từng địa bàn.


24


Ba là, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Theo đó, khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát
triển, cạnh tranh lành mạnh; chú trọng phát triển các hình thức tổ chức
kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu; khuyến khích kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào địa bàn Quận với công nghệ cao,
công nghệ sạch và thân thiện môi trường. Đồng thời, phát triển mạnh hình
thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu
tư xã hội.
Để đánh giá kết quả sự CDCCKT theo thành phần kinh tế, có thể
dựa vào mức tăng, giảm tỷ trọng lao động và giá trị trong GDP của các
thành phần kinh tế (kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài).
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở quận
Dương Kinh, thành phố Hải Phòng
Quá trình CDCCKT ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng chịu
ảnh hưởng của các nhân tố khách quan và chủ quan sau đây:
* Về nhân tố khách quan:
Một là, nhân tố thị trường.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
thị trường (trong, ngoài quận Dương Kinh và thị trường quốc tế) là người đặt
hàng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi vùng, miền; mọi lĩnh vực, ngành
nghề cả về quy mô, cơ cấu sản lượng, chất lượng, giá cả, thời gian và không
gian đối với mọi loại hàng hoá. Do đó, đây là nhân tố chủ yếu quyết định đến
việc mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh của một ngành hàng cụ
thể; từ đó quyết định xu hướng hình thành một CCKT cụ thể, mà việc xác lập
các mục tiêu phát triển KT-XH của Quận phải rất quan tâm.
Hai là, nhân tố quốc tế, gồm có:


25


Thứ nhất, sự biến động về chính trị, xã hội của các nước có liên quan
đến thị trường đầu vào và đầu ra của địa phương.
Sự biến động về chính trị, xã hội của các nước liên quan đến hoạt động
xuất, nhập khẩu, đầu tư của quận Dương Kinh sẽ tác động rất lớn đến hoạt
động ngoại thương, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ… của địa
phương; bởi nó làm thay đổi cơ cấu thị trường đầu vào cũng như đầu ra của
quá trình sản xuất kinh doanh đối với từng lĩnh vực, ngành hàng cụ thể trên
địa bàn Quận. Thông thường, trước những sự biến động đó, các quốc gia, các
địa phương đều phải điều chỉnh chiến lược phát triển và theo đó, CCKT cũng
phải được chuyển dịch cho phù hợp với sự biến động của thị trường thế giới.
Việc CDCCKT ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng cũng không nằm
ngoài xu thế chung đó.
Thứ hai, xu thế toàn cầu hoá kinh tế.
Xu thế này mở rộng và làm sâu sắc thêm phân công lao động quốc tế;
tạo ra cơ hội để mỗi quốc gia, địa phương có thể khai thác lợi thế so sánh để
phát triển, tạo ra sự đan xen, hợp tác lẫn nhau giữa các quốc gia trong quá
trình phát triển KT-XH. Khi nền kinh tế của quốc gia đã tham gia hội nhập
kinh tế, thì đây là nhân tố không thể thiếu trong quá trình xây dựng và chuyển
dịch CCKT của quốc gia cũng như của từng địa phương; bởi mỗi sự biến
động của kinh tế khu vực và thế giới đều có tác động lan chuyền đến nền kinh
tế của quốc gia, của mỗi địa phương, ảnh hưởng đến CCKT hiện hữu.
Ba là, quy hoạch của thành phố Hải Phòng.
Đây là nhân tố chủ quan khi phân tích vấn đề CDCCKT của thành phố
Hải Phòng; nhưng xét đến phạm vi CDCCKT của quận Dương Kinh thì đây
lại là nhân tố khách quan, bởi quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH của
quận Dương Kinh phải đặt trong tổng thể quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của thành phố Hải Phòng. Theo Quy hoạch xây dựng thành phố Hải

Phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, hướng phát triển của quận
26


Dương Kinh đến năm 2020, tầm nhìn 2030 sẽ trở thành “khu đô thị đạt tiêu
chuẩn đô thị loại I” [49, tr. 4]. Điều đó đặt ra yêu cầu thúc đẩy CDCCKT
quận Dương Kinh phải đáp ứng yêu cầu xây dựng một quận đô thị đạt tiêu
chuẩn đô thị loại I. Theo đó, sẽ phải diễn ra quá trình gia tăng tỷ trọng lao
động và giá trị của các ngành: thương mại, dịch vụ, công nghiệp, xây dựng;
giảm bớt vai trò, tỷ trọng của nông nghiệp với xu hướng phát triển nông
nghiệp công nghệ cao là chủ yếu.
* Về nhân tố chủ quan:
Một là, nhóm nhân tố tự nhiên.
Nền kinh tế của bất cứ địa phương nào cũng tồn tại trên một không gian
địa lý, gắn với những điều kiện tự nhiên về đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu, thủy
văn nhất định. Những nhân tố này quy định tiềm năng, thế mạnh của từng
vùng, miền, cũng như khả năng phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế cụ thể
của địa phương. Nó vừa cung cấp các yếu tố thuận lợi, nhưng cũng gây không
ít khó khăn cho quá trình CDCCKT. Quá nhấn mạnh và lệ thuộc vào nhóm
nhân tố tự nhiên hoặc coi thường, bất chấp nhóm nhân tố tự nhiên đều dẫn
đến hình thành một CCKT kém hiệu quả. Bởi vậy, phải tôn trọng các điều
kiện tự nhiên, dựa vào các thành tựu của khoa học và công nghệ để lợi dụng
điều kiện tự nhiên trong quá trình xác lập một CCKT mới là điều cần phải
thực hiện. Có thể thấy ảnh hưởng của nhóm nhân tố này ở quận Dương Kinh
như sau:
- Về vị trí địa lý: quận Dương Kinh nằm cách trung tâm Thành phố
khoảng 15 Km; phía Bắc giáp với quận Lê Chân, Ngô Quyền, Hải An; phía
Đông giáp biển vịnh Bắc Bộ; phía Tây giáp huyện Kiến Thụy và quận Kiến
An; phía Nam giáp với quận Đồ Sơn. Quận nằm ở đầu mối giao thông liên
vùng với các tuyến tỉnh lộ 353 (đường Phạm Văn Đồng), tỉnh lộ 355, đường

bộ cao tốc Hà Nội- Hải Phòng. Với vị trí như vậy, quận Dương Kinh là cửa
ngõ phía Đông Nam của thành phố Hải Phòng, rất thuận tiện cho giao lưu với
27


×