Tải bản đầy đủ (.docx) (152 trang)

xây dựng tài liệu hỗ trợ dạy học trực tuyến phần động vật có xương sống thuộc sinh học 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 152 trang )

1

MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Con người là chủ thể phát triển của xã hội. Vì vậy, giáo dục và đạo tạo mỗi cá
nhân của xã hội thành những người có ích, giỏi về năng lực, vững về chun môn là
một trong những mục tiêu hàng đầu và luôn được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước.
Ngày nay, thế giới và Việt Nam đang bước vào giai đoạn kinh tế tri thức,
những nhược điểm của phương pháp dạy học (PPDH) truyền thống đang dần được
thay thế bởi những PPDH mới, hiện đại và tích cực hợn. Để đáp ứng xu thế phát
triển của thời đại, việc tiếp thu những kiến thức, kĩ năng mới phải được tiến hành
nhanh chóng. Yêu cầu đặt ra là người học phải chủ động, tích cực, sáng tạo; người
dạy phải khơi dậy tính ham hiểu biết, dạy học sinh (HS) biết suy nghĩ và hành động
tích cực. Để đạt được kết quả đó tất yếu phải đổi mới PPDH.
Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 đã khẳng định “Tiếp tục đổi mới
PPDH và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học. Đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông trong dạy và học, đến năm 2015, 100% GV
đại học, cao đẳng và đến năm 2020, 100% GV giáo dục nghề nghiệp và phổ thơng
có khả năng ứng dụng CNTT và truyền thơng trong dạy học” [5]. Từ đó, ta có thể
thấy được tầm quan trọng cấp thiết của việc đổi mới PPDH cũng như khả năng ứng
dụng mạnh mẽ của CNTT vào giáo dục.
Không những thế, hiện nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật
(KHKT), con người ngày càng ứng dụng nhiều hơn các tiến bộ KHKT vào lĩnh vực
nghiên cứu. Vì vậy, các thành tựu KHKT trở nên phổ biến, có thể thay đổi từng giờ,
từng phút.
“Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là CNTT và truyền thông sẽ tạo
ra những điều kiện thuận lợi để đổi mới cơ bản nội dung, phương pháp và hình thức
tổ chức giáo dục, đổi mới quản lí giáo dục, tiến tới một nền giáo dục điện tử đáp
ứng nhu cầu của từng cá nhân người học” [5].



2

Đặc biệt là với môn Sinh học - môn khoa học của sự sống, đa phần kiến thức
liên quan đến thực tiễn và có tính ứng dụng cao. Để có được một giáo án tốt, một
bài giảng sinh động thì địi hỏi giáo viên (GV) phải suy nghĩ, tìm tịi, lựa chọn
những nội dung, hình ảnh, phim phù hợp và cần thiết đối với HS, phải thường
xuyên cập nhật tin tức mới để cung cấp cho HS và việc này thì tốn khá nhiều thời
gian, đơi lúc cịn tìm khơng được. Trong khi đó, người GV cịn phải lo toan nhiều
cho cuộc sống vốn dĩ rất khó khăn như hiện nay.
Vì vậy, đề tài “Xây dựng tài liệu hỗ trợ dạy - học trực tuyến phần Động vật có
xương sống thuộc Sinh học 7” đã được tiến hành nghiên cứu.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Xây dựng tài liệu hỗ trợ dạy - học trực tuyến phần Động vật có xương sống
thuộc Sinh học 7, nhằm giúp GV có nguồn tư liệu dạy học phong phú và đáng tin
cậy hơn, giúp HS tăng cường tính tự học cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học ở trường THCS.
III. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Tài liệu hỗ trợ dạy - học trực tuyến phần Động vật có xương sống thuộc Sinh
học 7 hỗ trợ đắc lực cho GV và mang lại hiệu quả học tập tích cực cho HS.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Các tài liệu liên quan đến dạy - học trực tuyến (E-learning), những hình thức
trắc nghiệm khách quan (TNKQ) trên thế giới và Việt Nam, phần mềm Articulate
Studio’09, phần Động vật có xương sống thuộc Sinh học 7 [8]. Từ đó, đề tài tiến
hành xây dựng các tài liệu hỗ trợ dạy - học trực tuyến (E-learning) bằng phần mềm
Articulate Studio’09.
2. Khách thể nghiên cứu
- Khảo sát thực trạng dạy - học trực tuyến: bằng hình thức phiếu khảo sát
gồm 320 người, trong đó có 11 GV Sinh học, 269 HS lớp 7 Trường THCS Đồng

Khởi và Trường THCS Đức Trí - Quận 1, TP. Hồ Chí Minh, 40 SV Khoa Sinh học Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; bằng hình thức trao đổi, phỏng vấn


3

trực tiếp Ban Giám hiệu (thông qua giảng viên hướng dẫn) của các trường THCS
tại Quận 1, TP. Hồ Chí Minh.
- Thực nghiệm hướng thứ nhất: gồm 306 người, trong đó có 201 HS lớp 7
Trường THCS Đức Trí - Quận 1, TP. Hồ Chí Minh; 105 SV Khoa Sinh học Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
- Thực nghiệm hướng thứ 2: gồm 249 HS lớp 7 Trường THCS Đức Trí - Quận
1, TP. Hồ Chí Minh.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu cơ sở lí luận và các phần mềm hỗ trợ dạy - học trực tuyến.
2. Phân tích nội dung phần Động vật có xương sống thuộc Sinh học 7.
3. Tìm hiểu, vận dụng các PPDH tích cực và tăng cường tính tự học của HS
vào Sinh học 7.
4. Xây dựng bài học trực tuyến bằng phần mềm Articulate Studio’09.
5. Khảo sát thực trạng dạy - học trực tuyến ở các trường THCS tại Quận 1, TP.
Hồ Chí Minh, thực nghiệm kết quả ở Trường THCS Đức Trí - Quận 1, TP.
Hồ Chí Minh; Khoa Sinh học - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đề tài chỉ tiến hành xây dựng tài liệu hỗ trợ dạy - học trực tuyến cho
chương 6, Sinh học 7 gồm 17 bài lí thuyết phần Động vật có xương sống
thuộc Sinh học 7.
2. Vì thời gian và kinh phí có hạn nên để tài chỉ thực nghiệm một số bài ở
Trường THCS Đức Trí - Quận 1, TP. Hồ Chí Minh; Khoa Sinh học Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.


4


Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. PHẦN ĐỘNG VẬT CÓ XƯƠNG SỐNG THUỘC SINH HỌC 7
Phần Động vật có xương sống thuộc chương 6, Sinh học 7 gồm 22 bài, trong đó
có 5 bài thực hành và 17 bài lí thuyết được chia thành 5 lớp từ thấp đến cao:
- Lớp Cá sụn (Chondrichthyes) và lớp Cá xương (Osteichthyes);
- Lớp Lưỡng cư (Amphibia);
- Lớp Bò sát (Reptilia);
- Lớp Chim (Aves);
- Lớp Thú (Mammalia).
Mỗi bài học đều có cấu trúc tương tự nhau, trình bày về đặc điểm cấu tạo, hình
thái và chức phận của các cấu trúc thuộc một đại diện điển hình trong lớp, về vịng
đời và chu trình phát triển của chúng. Đồng thời, các bài học cũng trình bày về đặc
điểm chung và sự đa dạng về thành phần các loài trong lớp [8].
1.2. DẠY - HỌC TRỰC TUYẾN (E-LEARNING)
1.2.1. Khái niệm E-learning
Nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn kinh tế tri thức. Vì vậy, việc
nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục, đào tạo sẽ là nhân tố sống còn quyết định sự
tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, cơng ti, gia đình và cá nhân. Hơn nữa, việc
học tập khơng chỉ bó gọn trong việc học phổ thông, học đại học mà là học suốt đời.
E-Learning chính là một giải pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này [14].
E-learning (electronic learning) là thuật ngữ mới. Hiện nay, theo các quan
điểm và dưới nhiều hình thức khác nhau có rất nhiều cách hiểu về E-learning:
Hiểu theo nghĩa rộng, E-learning là thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào
tạo dựa trên CNTT và truyền thông, đặc biệt là CNTT [14].
Theo quan niệm hiện đại, E-learning là sự phân phát các nội dung học sử dụng
các công cụ điện tử hiện đại như máy tính, mạng vệ tinh, mạng internet, intranet,...
Trong đó, nội dung học tập có thể thu được từ các website, đĩa CD/DVD, băng
video, audio,… thơng qua một máy tính hay tivi; người dạy và người học có thể



5

giao tiếp với nhau thơng qua mạng dưới các hình thức như: E-mail, thảo luận trực
tuyến (chat), diễn đàn (forum), hội thảo video,… [14].
Có hai hình thức giao tiếp giữa người dạy và người học là giao tiếp đồng bộ
(synchronous) và giao tiếp không đồng bộ (asynchronous):
Giao tiếp đồng bộ là hình thức giao tiếp trong đó nhiều người truy cập mạng
cùng một thời điểm và trao đổi thông tin trực tiếp với nhau. Giao tiếp khơng đồng
bộ là hình thức mà những người giao tiếp không nhất thiết phải truy cập mạng tại
cùng một thời điểm, ví dụ như các khóa tự học qua internet, CD-ROM, E-mail, diễn
đàn. Đặc trưng của kiểu học này là GV phải chuẩn bị tài liệu khóa học trước khi
khóa học diễn ra. Người học được tự do chọn lựa thời gian tham gia khóa học [14].
1.2.2. Đặc điểm của E-learning
Mặc dù các khái niệm về E-learning chưa được rõ ràng, đồng nhất. Mỗi người
có những ý kiến riêng về thuật ngữ này. Tuy nhiên, E-learning có những đặc điểm
chung sau:
Dựa trên CNTT và truyền thông. Cụ thể hơn là công nghệ mạng, kĩ thuật đồ
họa, kĩ thuật mơ phỏng, cơng nghệ tính tốn,… [9].
E-learning bổ sung rất tốt cho phương pháp học truyền thống do có tính tương
tác cao, tạo điều kiện cho người học trao đổi thông tin dễ dàng hơn, cũng như đưa
ra nội dung học tập phù hợp với khả năng và sở thích của từng người [9], [14].
E-learning sẽ trở thành xu thế tất yếu trong nền kinh tế tri thức. Hiện nay, Elearning đang thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nước trên thế giới với rất
nhiều tổ chức, công ti hoạt động trong lĩnh vực này [9], [14].
Một số đặc điểm chính của loại hình đào tạo này như sau:
E-learning là một loại hình đào tạo năng động: nội dung thơng tin mang tính
thời đại, thực tế, đáng tin cậy, không phải là những thơng tin cũ hoặc “những thơng
tin ít phổ biến”, với các phương pháp tiếp cận nhanh chóng và đơn giản [9].
E-learning là hoạt động thực tế: có thể học những kiến thức mình cần vào thời
điểm nào người học cần [14].



6

E-learning là loại hình đào tạo mà học viên là chủ đạo: người tham gia vào
loại hình đào tạo E-learning tự kiểm sốt tốc độ học, cơng cụ học tập, địa điểm học
cũng như khối lượng kiến thức mà họ muốn thu nhận, tự mình quyết định cách thức
thu nhận kiến thức, kĩ năng và khả năng phù hợp với phong cách học của chính
mình [9], [14].
E-learning là một loại hình đào tạo mang tính cá nhân: mỗi học viên của
chương trình đào tạo E-learning lựa chọn các hoạt động từ danh mục cơ hội học tập
cá nhân liên quan trực tiếp nhất tới sở thích, nhiệm vụ và cơng của mình tại thời
điểm đó [9], [14].
E-learning là loại hình đào tạo tổng quát: E-learning cung cấp các hoạt động
đào tạo từ rất nhiều nguồn khác nhau, cho phép học viên lựa chọn dạng thức hoặc
phương pháp học tập hoặc nhà cung cấp dịch vụ đào tạo tùy ý [9], [14].
E-learning là loại hình đào tạo hiệu quả: E-learning cho phép học viên tương
tác với công cụ học tập để có thể ghi nhớ được tối đa khối lượng kiến thức đã học
được [9], [14].
E-learning là loại hình đào tạo tiết kiệm thời gian: E-learning cho phép học
viên có thể học với tốc độ hiệu quả nhanh nhất có thể, giúp cho học viên ghi nhớ
kiến thức nhanh hơn thông qua tính tương tác của nó, cho phép học viên tăng tốc độ
học thông qua các công cụ học tập mà họ đã quen thuộc [9], [14].
1.2.3. Lợi ích của E-learning
E-learning là một phương pháp học tập mới, mang trong mình những tiềm
năng lớn cho sự phát triển [10].
Skillsoft, một nhà cung cấp giải pháp học trực tuyến hàng đầu của Mỹ cho
rằng: E-learning có những đặc điểm ưu việt như khóa học có nội dung phù hợp và
cập nhật, học viên có thể tiếp cận một cách thuận tiện nhiều khóa học và có thể
nghiên cứu nội dung ở mọi nơi, việc tập hợp nội dung nhanh chóng để hỗ trợ việc
cung cấp nhanh nhất việc dạy và học, khả năng cung cấp việc học cho học viên trên



7

khắp thế giới bằng ngôn ngữ của họ và khả năng theo dõi, báo cáo và đo đạc được
kết quả việc học [10].
Nhìn chung, E-learning mang đến cho người học những lợi ích sau:
1.2.3.1. Giảm chi phí
Với sự phát triển của internet, hầu hết các lĩnh vực kinh doanh đều có lợi trong
việc xây dựng chính sách giá cho khách hàng của mình và dịch vụ E-learning khơng
phải là ngoại lệ. Thông thường, một học viên phải trả cho một khóa học dạy về
Quản lí thương hiệu trung bình khoảng 5.000.000 đồng, thì đối với một khóa học
trực tuyến chi phí chỉ vào khoảng 500.000 đồng, nghĩa là chỉ bằng 1/10 [10].
1.2.3.2. Tự định hướng
Người học có thể tự định hướng cho mình, bằng cách chọn khóa học phù hợp
nhất đối với trình độ, sở thích, mục tiêu của bản thân, hoặc một cơng ti có thể u
cầu cơng ti cung cấp dịch vụ học trực tuyến thiết kế khóa học theo định hướng hay
theo nhu cầu kiến thức nhân viên [10].
1.2.3.3. Tự điều chỉnh
Người học có thể tự điều chỉnh nhịp điệu khóa học cho mình, có thể học từ từ
hay nhanh do thời gian mình tự sắp xếp hay khả năng tiếp thu kiến thức [10].
1.2.3.4. Tính linh hoạt
Nền tảng của công nghệ cho việc học trực tuyến là linh hoạt. Từ khi đăng kí
học đến lúc hồn tất, người học có thể học theo thời gian biểu mình định ra. Khơng
bị gị bó bởi thời gian và không gian lớp học, dù họ vẫn đang ở trong lớp học “ảo”.
Tính linh hoạt cịn thể hiện ở “tự định hướng” và “tự điều chỉnh” [10].
1.2.3.5. Tính đờng bộ
Giáo trình và tài liệu của các khóa học trực tuyến có tính đồng bộ cao vì hầu
hết các học trình cùng tài liệu được soạn thảo và đưa vào chương trình dạy được
xem xét và đưa lên trang trực tuyến từ ban đầu [10].

1.2.3.6. Tương tác và hợp tác
Học trực tuyến người học có thể giao lưu và tương tác với nhiều người cùng
lúc. Người học cũng có thể hợp tác với bạn bè trong nhóm học trực tuyến để thảo


8

luận và làm bài tập về nhà. Ngày nay, việc tương tác và hợp tác trên internet là phổ
biến qua forum, blog, facebook,… và người học có thể tận dụng internet để “vừa
làm, vừa học, vừa chơi” [10].
1.2.3.7. Hiệu quả
Học trực tuyến giúp học viên không chỉ tiết kiệm chi phí mà cịn đáp ứng đúng
với nhu cầu của mình [10].
1.2.3.8. Dễ tiếp cận và thuận tiện
Dịch vụ học trực tuyến dựa trên công nghệ là internet nên việc tiếp cận rất dễ
dàng, thuận tiện. Người học có thể tiếp cận và học bất cứ nơi đâu [10].
1.2.4. Một số hình thức E-learning
Có một số hình thức đào tạo bằng E-learning, cụ thể như sau:

- Đào tạo dựa trên công nghệ (TBT - technology based training): là hình thức đào tạo
có sự áp dụng cơng nghệ, đặc biệt là dựa trên CNTT [14].
- Đào tạo dựa trên máy tính (CBT - computer based training): hiểu theo nghĩa
rộng, thuật ngữ này nói đến bất kì một hình thức đào tạo nào có sử dụng máy tính.
Nhưng thơng thường thuật ngữ này được hiểu theo nghĩa hẹp để nói đến các ứng
dụng (phần mềm) đào tạo trên các đĩa CD-ROM hoặc cài trên các máy tính độc lập,
khơng nối mạng, khơng có giao tiếp với thế giới bên ngoài. Thuật ngữ này được
hiểu đồng nhất với thuật ngữ CD-ROM based training [14].
- Đào tạo dựa trên web (WBT - web based training): là hình thức đào tạo sử
dụng cơng nghệ web. Nội dung học, các thơng tin quản lí khố học, thơng tin về
người học được lưu trữ trên máy chủ và người dùng có thể dễ dàng truy nhập thơng

qua trình duyệt web. Người học có thể giao tiếp với nhau và với GV, sử dụng các
chức năng trao đổi trực tuyến, diễn đàn, E-mail,... thậm chí có thể nghe được giọng
nói và nhìn thấy hình ảnh của người giao tiếp với mình [14].
- Đào tạo trực tuyến (online learning/ training): là hình thức đào tạo có sử
dụng kết nối mạng để thực hiện việc học: lấy tài liệu học, giao tiếp giữa người học
với nhau và với GV,... [14].


9

- Đào tạo từ xa (distance learning): thuật ngữ này nói đến hình thức đào tạo
trong đó người dạy và người học khơng ở cùng một chỗ, thậm chí khơng cùng một
thời điểm. Ví dụ, việc đào tạo sử dụng cơng nghệ hội thảo cầu truyền hình hoặc
cơng nghệ web [14].
1.2.5. Công cụ sử dụng trong E-learning
1.2.5.1. Công cụ chat
Chat là một cách để những người cùng sở thích trao đổi thông tin với nhau
theo cách đồng bộ. Đây là một mơi trường ảo, người dùng có thể nói chuyện với
nhiều hơn một người tham gia bằng cách sử dụng bàn phím để gõ các thơng điệp.
Các cơng cụ chat có thể được tích hợp với các trang web, trong môi trường học tập
của họ hoặc một môi trường tách biệt [9], [14].
1.2.5.2. Cơng cụ tạo bài trình bày đa phương tiện (multimedia)
Hiện nay, có nhiều phần mềm hỗ trợ việc tạo các bài trình bày đa phương tiện
đi kèm (audio, video), một tính năng quan trọng mà PowerPoint khó có thể làm
được. Hơn nữa, các phần mềm cịn cung cấp tính năng phát trực tiếp các bài trình
bày qua mạng [9], [14].
1.2.5.3. Công cụ soạn bài giảng điện tử
Công cụ soạn bài giảng điện tử là các công cụ giúp cho việc tạo nội dung học
tập một cách dễ dàng. Với loại ứng dụng này, người biên soạn có thể nhập các đối
tượng đã tồn tại trước như chữ, hình ảnh, âm thanh, các hoạt hình và video chỉ bằng

việc kéo thả chuột. Điều đáng chú ý là nội dung sau khi soạn xong có thể xuất ra
dưới các định dạng như HTML (hypertext markup language - một ngôn ngữ đánh
dấu được thiết kế ra để tạo nên các trang web), CD-ROM,… [9], [14].
1.2.5.4. Công cụ mô phỏng
Mô phỏng là q trình “bắt chước” một hiện tượng có thực với một tập các
cơng thức tốn học. Chương trình máy tính có thể mơ phỏng điều kiện thời tiết,
phản ứng hóa học, q trình sinh học. Mơi trường CNTT cũng có thể mơ phỏng
được. Gần với mơ phỏng là hoạt hình (animation). Hoạt hình là sự mơ phỏng
chuyển động bằng cách thể hiện một tập các ảnh hoặc các frame [9], [14].


10

Nhiều cơng cụ hồn hảo dùng cho việc tạo các hoạt hình và các mơ phỏng của
mơi trường CNTT. Với các cơng cụ như vậy, người biên soạn có thể ghi và điều
khiển các sự kiện xảy ra trên màn hình máy tính. Với hoạt hình chỉ là ghi lại các sự
kiện một cách thụ động, tức là người học chỉ có thể xem được những hành động gì
diễn ra mà khơng thể tương tác với hành động đó. Với cơng cụ mơ phỏng, họ có thể
tương tác với các hành động đó [9], [14].
Đối với E-learning, cơng cụ này được ứng dụng để giải thích và trình diễn việc
thực hiện các nhiệm vụ trong ứng dụng và môi trường CNTT, đào tạo kĩ năng cho
các học viên không cần sử dụng môi trường thực [9], [14].
1.2.5.5. Công cụ tạo bài thi
Hiện tại, có những sản phẩm tốt giúp tạo ra các bài kiểm tra nhanh chóng và
tiện lợi. Đây là các công cụ giúp người biên soạn tạo và phân phối các bài kiểm tra
trên internet và intranet. Thường thì sẽ có các tính năng như đánh giá và đánh giá sẽ
được gộp vào cùng. Đa số các ứng dụng hiện nay đều hỗ trợ xuất ra các định dạng
tương thích với chuẩn SCORM/AICC. Do đó, các bài kiểm tra hồn tồn có thể đưa
vào các hệ thống quản lí (LMS/LCMS) khác nhau [9], [14].
Trong E-learning, các cơng cụ này giúp cho việc tạo bài thi nhằm kiểm tra đầu

vào (pretest) để đánh giá kiến thức của học viên trước khi tham gia học tập hoặc tự
kiểm tra giúp học viên ôn lại các kiến thức đã học [9], [14].
1.2.5.6. Công cụ tạo website
Công cụ tạo website là một phần mềm dùng để tạo các trang web nhanh và
hiệu quả. Công cụ tạo website trực quan hoặc chỉ là bộ soạn thảo HTML đơn giản
sẽ là công cụ hữu ích để tạo các trang web. Tuy nhiên, nó sẽ khơng phải là cách
nhanh nhất vì người biên soạn phải biết các kiến thức cơ bản về lập trình [9], [14].
1.2.5.7. Công cụ tạo diễn đàn
Là các công cụ dùng để tạo các diễn đàn thảo luận, người biên soạn có thể đưa
các câu hỏi lên, mọi người vào đọc và trả lời câu hỏi nếu có thể. Ngồi ra, những
người tham gia diễn đàn có thể tạo ra các chủ đề thảo luận mới [9], [14].


11

1.2.5.8. Công cụ hội thảo trực tuyến
Các công cụ này dùng để hỗ trợ việc học tập đồng bộ trong một lớp học ảo,
mơi trường có thể mơ phỏng lớp học mặt giáp mặt (face to face) bằng các kĩ thuật
tiên tiến với rất nhiều nguồn tài nguyên và người học có nhiều lựa chọn, nhiều
phương pháp để trao đổi thông tin. Trong E-learning, các công cụ này giúp tạo ra
mơi trường học tập hấp dẫn có tính tương tác cao và có thể áp dụng cho một lượng
lớn người học (100 học viên hoặc hơn nữa) [9], [14].
1.2.5.9. Công cụ quản lí hệ thống đào tạo và nội dung học tập
Learning management system (LMS) là phần mềm quản lí, theo dõi và tạo các
báo cáo dựa trên tương tác giữa người học với nội dung và giữa người học với giáo
viên. Đôi khi người ta cũng gọi là course management system (CMS). Một learning
content management system (LCMS) là hệ thống dùng để tạo, lưu trữ, tổng hợp và
phân phối nội dung học E-learning dưới dạng các đối tượng học tập. Vì vậy, đặc
điểm chính để phân biệt LMS với LCMS là tạo và quản lí các đối tượng học tập.
Trong E-learning, các công cụ này cung cấp một môi trường tồn diện, đầy đủ để

quản lí các q trình, sự kiện và nội dung học tập [9], [14].
1.2.6. Lịch sử ra đời của E-learning
Thuật ngữ E-learning đã trở nên quen thuộc trên thế giới trong một vài thập kỉ
gần đây. Cùng với sự phát triển của tin học và mạng truyền thông, các phương thức
giáo dục, đào tạo ngày càng được cải tiến nhằm nâng cao chất lượng, tiết kiệm thời
gian và tiền bạc cho người học [14].
Ngay từ khi mới ra đời, E-learning đã xâm nhập vào hầu hết các hoạt động
huấn luyện và đào tạo của các nước trên thế giới. Tập đoàn dữ liệu quốc tế IDG
nhận định rằng sẽ có một sự phát triển bùng nổ trong lĩnh vực E-learning. Điều đó
được chứng minh qua sự thành công của các hệ thống giáo dục hiện đại có sử dụng
phương pháp E-learning nhiều quốc gia như Mĩ, Nhật, Anh,… [14].
Gắn với sự phát triển của CNTT và phương pháp giáo dục đào tạo, quá trình
phát triển của E-learning có thể được chia thành 4 thời kì như sau:
1.2.6.1. Trước năm 1983: kỉ nguyên GV làm trung tâm


12

Ở thời kì này, phương pháp giáo dục lấy GV làm trung tâm là phương pháp
phổ biến trong các trường học. Người học chỉ có thể trao đổi tập trung quanh GV và
các bạn học. Đặc điểm của loại hình này là giá thành rẻ [14].
1.2.6.2. Giai đoạn 1984 - 1993: kỉ nguyên đa phương tiện
Sự ra đời của hệ điều hành Window 3.1, máy tính Macintosh, phần mềm trình
diễn PowerPoint cùng các công cụ đa phương tiện đã mở ra một kỉ nguyên mới.
Những công cụ này cho phép tạo ra các bài giảng tích hợp hình ảnh và âm thanh
học trên máy tính sử dụng cơng nghệ CBT và cho phép phân phối bài học qua đĩa
CD-ROM hoặc đĩa mềm. Vào bất kì thời gian nào, ở đâu, người học cũng có thể
mua và học. Tuy nhiên, sự hướng dẫn của GV là rất hạn chế [14].
1.2.6.3. Giai đoạn 1994 - 1999: làn sóng E-learning thứ nhất
Khi cơng nghệ web được phát minh ra, các nhà cung cấp dịch vụ đào tạo bắt

đầu nghiên cứu cách thức cải tiến phương pháp giáo dục bằng công nghệ này. Các
chương trình: E-mail, web, trình duyệt, media player, kĩ thuật truyền audio/ video
tốc độ thấp cùng với ngôn ngữ hỗ trợ web như HTML và JAVA bắt đầu trở lên phổ
dụng đã làm thay đổi bộ mặt của đào tạo bằng đa phương tiện [14].
GV thông thái đã dần lộ rõ thông qua các phương tiện: E-mail, CBT, qua
intranet với chữ và hình ảnh đơn giản, đào tạo bằng cơng nghệ web với hình ảnh
chuyển động tốc độ thấp đã được triển khai trên diện rộng [14].
1.2.6.4. Giai đoạn 2000 - 2005: làn sóng E-learning thứ hai
Các cơng nghệ tiên tiến bao gồm JAVA và các ứng dụng mạng IP (internet
protocol - giao thức liên mạng), công nghệ truy nhập mạng và băng thông internet
được nâng cao, các công nghệ thiết kế web tiên tiến đã trở thành một cuộc cách
mạng trong giáo dục đào tạo [14].
Ngày nay thông qua web, GV có thể kết hợp hướng dẫn trực tuyến (hình ảnh,
âm thanh, các cơng cụ trình diễn) tới mọi người học, nâng cao hơn chất lượng dịch
vụ đào tạo. Càng ngày cơng nghệ web càng chứng tỏ có khả năng mang lại hiệu quả
cao trong giáo dục đào tạo, cho phép đa dạng hố các mơi trường học tập. Tất cả
những điều đó tạo ra một cuộc cách mạng trong đào tạo với giá thành rẻ, chất lượng


13

cao và hiệu quả. Đó chính là làn sóng thứ 2 của E-learning và hiện nay chúng ta
đang ở trong giai đoạn của làn sóng này [14].


14

1.2.7. Tình hình phát triển và ứng dụng E-learning trên thế giới
E-learning phát triển không đồng đều tại các khu vực trên thế giới. E-learning
phát triển mạnh nhất ở khu vực Bắc Mĩ. Ở châu Âu, E-learning cũng rất có triển

vọng, trong khi đó châu Á lại là khu vực ứng dụng cơng nghệ này ít hơn [14].
Tại Mĩ, dạy và học điện tử đã nhận được sự ủng hộ và các chính sách trợ giúp
của Chính phủ ngay từ cuối những năm 90. Theo số liệu thống kê của Hội Phát triển
và Đào tạo Mĩ (American Societi for Training and Development, ASTD), năm 2000
Mĩ có gần 47% các trường đại học, cao đẳng đã đưa ra các dạng khác nhau của mơ
hình đào tạo từ xa, tạo nên 54.000 khố học trực tuyến. Theo các chun gia phân
tích của Công ti Dữ liệu Quốc tế (International Data Corporation, IDC), cuối năm
2004 có khoảng 90% các trường đại học, cao đẳng Mĩ đưa ra mơ hình E-learning,
số người tham gia học tăng 33% hàng năm trong khoảng thời gian 1999 - 2004. Elearning không chỉ được triển khai ở các trường đại học mà ngay ở các công ti, việc
xây dựng và triển khai cũng diễn ra rất mạnh mẽ. Có rất nhiều cơng ti triển khai Elearning thay cho phương thức đào tạo truyền thống và đã mang lại hiệu quả cao.
Do thị trường rộng lớn và sức thu hút mạnh mẽ của E-learning nên hàng loạt các
công ti đã chuyển sang hướng chuyên nghiên cứu và xây dựng các giải pháp về Elearning như: Click2Learn, Global Learning Systems, Smart Force,... [14].
Trong những gần đây, châu Âu đã có một thái độ tích cực đối với việc phát
triển CNTT cũng như ứng dụng nó trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc biệt là
ứng dụng trong hệ thống giáo dục. Các nước trong Cộng đồng châu Âu đều nhận
thức được tiềm năng to lớn mà CNTT mang lại trong việc mở rộng phạm vi, làm
phong phú thêm nội dung và nâng cao chất lượng của nền giáo dục [14].
Cơng ti IDC ước đốn rằng thị trường E-learning của châu Âu sẽ tăng tới 4 tỉ
USD trong năm 2004 với tốc độ tăng 96% hàng năm. Ngoài việc tích cực triển khai
E-learning tại mỗi nước, giữa các nước châu Âu có nhiều sự hợp tác đa quốc gia
trong lĩnh vực E-learning. Điển hình là dự án xây dựng mạng xuyên châu Âu
EuroPACE. Đây là mạng E-learning của 36 trường đại học hàng đầu châu Âu thuộc
các quốc gia như Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Anh, Pháp cùng hợp tác với công ti E-


15

learning của Mĩ là Docent, nhằm cung cấp các khoá học về các lĩnh vực như khoa
học, nghệ thuật, con người phù hợp với nhu cầu học của các sinh viên đại học, sau
đại học, các nhà chuyên môn ở châu Âu [14].

Tại châu Á, E-learning vẫn đang ở trong tình trạng sơ khai, chưa có nhiều
thành cơng vì một số lí do như: các quy tắc, luật lệ bảo thủ, tệ quan liêu, sự ưa
chuộng đào tạo truyền thống của văn hóa châu Á, vấn đề ngơn ngữ khơng đồng
nhất, cơ sở hạ tầng nghèo nàn và nền kinh tế lạc hậu ở một số quốc gia châu Á. Tuy
vậy, đó chỉ là những rào cản tạm thời do nhu cầu đào tạo ở châu lục này cũng đang
trở nên ngày càng không thể đáp ứng được bởi các cơ sở giáo dục truyền thống
buộc các quốc gia châu Á đang dần dần phải thừa nhận tiềm năng to lớn mà Elearning mang lại. Một số quốc gia, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển
hơn tại châu Á, cũng đang có những nỗ lực phát triển E-learning tại đất nước mình
như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc,... [14].
Nhật Bản là nước có ứng dụng E-learning nhiều nhất so với các nước khác
trong khu vực. Môi trường ứng dụng E-learning chủ yếu là trong các công ti lớn,
các hãng sản xuất, các doanh nghiệp,... và dùng để đào tạo nhân viên [14].
1.2.8. Tình hình phát triển và ứng dụng E-learning tại Việt Nam
Trước năm 2002, các tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về E-learning ở Việt Nam
không nhiều. Từ năm 2003 - 2004, việc nghiên cứu E-learning ở Việt Nam đã được
nhiều đơn vị quan tâm hơn. Gần đây các hội nghị, hội thảo về CNTT và giáo dục
đều có đề cập nhiều đến vấn đề E-learning và khả năng áp dụng vào môi trường đào
tạo ở Việt Nam như: Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2000; Hội nghị giáo dục đại học năm 2001 và gần đây là Hội thảo khoa
học quốc gia lần thứ nhất về nghiên cứu phát triển và ứng dụng CNTT và truyền
thông ICT/rda, tháng 2/2003; Hội thảo khoa học quốc gia lần II về nghiên cứu phát
triển, ứng dụng CNTT và truyền thông ICT/rda, tháng 9/2004; Hội thảo khoa học về
nghiên cứu và triển khai E-learning do Viện CNTT (Đại học Quốc gia Hà Nội) và
Khoa CNTT (Đại học Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ chức đầu tháng 3/2005 là Hội
thảo khoa học về E-learning đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam [14].


16

Các trường đại học ở Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu và triển khai Elearning. Một số đơn vị đã sử dụng các phần mềm hỗ trợ đào tạo và cho các kết quả

khả quan: Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện CNTT - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh,
Học viện Bưu chính Viễn thơng,... Gần đây nhất, Trung tâm Tin học Bộ Giáo dục &
Đào tạo đã triển khai cổng E-learning nhằm cung cấp một cách có hệ thống các
thơng tin E-learning trên thế giới và ở Việt Nam. Bên cạnh đó, một số cơng ti phần
mềm ở Việt Nam đã tung ra thị trường một số sản phẩm hỗ trợ đào tạo. Tuy các sản
phẩm này chưa phải là sản phẩm lớn, được đóng gói hồn chỉnh nhưng đã bước đầu
góp phần thúc đẩy sự phát triển E-learning ở Việt Nam [14].
Việt Nam đã gia nhập mạng E-learning châu Á (Asia E-learning network AEN, www.asia-elearning.net) với sự tham gia của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ
Khoa học & Cơng nghệ, Trường Đại học Bách khoa, Bộ Bưu chính Viễn thơng,...
Những điều này cho thấy tình hình nghiên cứu và ứng dụng loại hình đào tạo này
đang được quan tâm ở Việt Nam. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, Elearning ở Việt Nam mới chỉ phát triển ở giai đoạn đầu còn nhiều việc phải làm mới
tiến kịp các nước. E-learning đa số chỉ được áp dụng trong các lĩnh vực kinh doanh
hoặc bước đầu được đưa vào một số trường đại học, còn ở những trường THCS thì
hầu như chưa áp dụng vì cịn nhiều khó khăn, trở ngại và chưa được quan tâm [14].
1.3. PHẦN MỀM TẠO E-LEARNING
1.3.1. Khái niệm phần mềm
Phần mềm (software) là một tập hợp những câu lệnh được viết bằng một hoặc
nhiều ngơn ngữ lập trình theo một trật tự xác định nhằm tự động thực hiện một số
chức năng hoặc giải quyết một bài tốn nào đó [13].
1.3.2. Phân loại phần mềm
1.3.2.1. Theo phương thức hoạt động

 Phần mềm hệ thống
Dùng để vận hành máy tính và các phần cứng máy tính, ví dụ như các hệ điều
hành máy tính Windows XP, Linux, Unix, các thư viện động (cịn gọi là thư viện


17


liên kết động - dynamic linked library - DLL) của hệ điều hành, các trình điều khiển
(driver), phần sụn (firmware) và BIOS. Đây là các loại phần mềm mà hệ điều hành
liên lạc với chúng để điều khiển và quản lí các thiết bị phần cứng [13].

 Phần mềm ứng dụng
Nhằm giúp người sử dụng có thể hồn thành một hay nhiều cơng việc nào đó,
ví dụ như các phần mềm văn phòng (Microsoft Offices, Lotus 1-2-3, FoxPro), phần
mềm doanh nghiệp, phần mềm giáo dục, cơ sở dữ liệu, phần mềm trị chơi, chương
trình tiện ích, hay các loại phần mềm ác tính [13].

 Các phần mềm chuyển dịch mã
Bao gồm trình biên dịch và trình thơng dịch: các loại chương trình này sẽ đọc
các câu lệnh từ các mã nguồn được viết bởi các lập trình viên bằng một ngơn ngữ
lập trình và dịch nó sang dạng ngơn ngữ máy mà máy tính có thể hiểu được, hay
dịch nó sang một dạng khác như là tập tin đối tượng (object file) và các tập tin thư
viện (library file) mà các phần mềm khác (như hệ điều hành chẳng hạn) có thể hiểu
để vận hành máy tính thực thi các lệnh [13].
1.3.2.2. Theo khả năng ứng dụng

 Phần mềm không phụ thuộc
Những phần mềm này có thể được bán cho bất kì khách hàng nào trên thị
trường tự do. Ví dụ: phần mềm về cơ sở dữ liệu như Oracle, đồ họa như Photoshop,
Corel Draw, soạn thảo và xử lí văn bản, bảng tính,... [13].
Ưu điểm: Thơng thường đây là những phần mềm có khả năng ứng dụng rộng
rãi cho nhiều nhóm người sử dụng [13].
Khuyết điểm: Thiếu tính uyển chuyển, tùy biến [13].

 Phần mềm được viết theo đơn đặt hàng hay hợp đồng
Là những phần mềm được viết theo đơn đặt hàng hay hợp đồng của một khách
hàng cụ thể nào đó (một cơng ti, bệnh viện, trường học,...). Ví dụ: phần mềm điều

khiển, phần mềm hỗ trợ bán hàng,... [13].
Ưu điểm: Có tính uyển chuyển, tùy biến cao để đáp ứng được nhu cầu của
một nhóm người sử dụng nào đó [13].


18

Khuyết điểm: Thông thường đây là những phần mềm ứng dụng chuyên
ngành hẹp [13].
1.3.3. Phần mềm Articulate Studio’09
Articulate Studio’09 được chính thức phát hành ngày 30/09/2008 bởi
Articulate Global Inc: dung lượng 85.59 MB; yêu cầu Windows 2000/XP/Vista/7/8.
Đây là bộ tiện ích hỗ trợ cho việc tạo bài giảng sinh động, cung cấp khá nhiều cơng
cụ hữu ích và độc đáo. Chúng có khá nhiều tính năng hấp dẫn, cho phép tạo ra các
bài học có sự tương tác rất tốt, đảm bảo cho hoạt động tích cực của HS được diễn
ra. Một số tính năng chính của Articulate Studio’09 [11]:
1.3.3.1. Tạo bài giảng rõ ràng (articulate presenter)
Dùng để thiết kế bài giảng E-learning tốt nhất hiện nay với giao diện đẹp mắt,
có khả năng tích hợp được nhiều tương tác mà nếu chỉ với PowerPoint thì rất khó
hoặc khơng thể thực hiện, từ đó giúp các thành viên hiểu rõ hơn nội dung bài học.
Một số tính năng như:

- Thu âm thuyết trình;
- Tạo chỉ dẫn;
- Chèn flash, multimedia vào bài giảng;
- Nhúng trang web vào bài giảng;
- Tạo trò chơi E-learning: một tính năng mới, tạo nên một số dạng trị chơi hấp dẫn
mà ngay cả những người khơng giỏi về cơng nghệ cũng có thể làm được [11].
1.3.3.2. Tạo các loại câu hỏi rõ ràng (articulate quizmaker)
Tính năng tạo các câu trắc nghiệm flash chạy độc lập trên máy cục bộ hoặc

website. Cho phép chèn hình ảnh và các đoạn phim flash để giúp câu hỏi sinh động
hơn, ghi nhận thông tin phản hồi từ người làm bài. Cho phép tuỳ biến ngơn ngữ
cũng

như

màu

sắc

của

hầu

hết

các

đối

tượng

trên

màn

hình

Articulate Studio’09 có hai dạng câu hỏi chính là câu hỏi phân loại (graded
question) và câu hỏi điều tra (survey question) với 20 mẫu được cung cấp sẵn [4].



19
 Dạng câu hỏi phân loại (graded question)

1. Đúng/Sai (true/ false);
2. Bốn lựa chọn (multiple choice);
3. Nhiều lựa chọn (multiple response);
4. Chọn đáp án kéo thả vào ô trống (word bank);
5. Ghép đôi (matching drap & drop);
6. Điền từ vào chỗ trống (fill in the blank);
7. Chọn câu trả lời dựa vào gợi ý sẵn có (matching drop - down);
8. Sắp xếp theo thứ tự tăng dần (sequence drap & drop);
9. Sắp xếp theo thứ tự giảm dần (sequence drop - down);
10. Điền số vào ơ trống (numeric);
11. Tìm điểm trong hình (hotspot).
Dạng câu hỏi này được dùng trong đánh giá cho điểm người học. Chúng được
áp dụng trong những câu hỏi tìm hiểu nội dung bài mới (pre-test) hoặc là câu hỏi
củng cố ở cuối bài (after-test) [4].

 Dạng câu hỏi điều tra (survey question)
1. Chọn các mức độ đánh giá (likert scale);
2. Chọn một ý kiến thích hợp (pick one);
3. Chọn nhiều ý kiến thích hợp (pick many);
4. Chọn từ điền vào chỗ trống (which word);
5. Trả lời ngắn gọn (short answer);
6. Trình bày ý kiến trong số lượng từ nhất định (essay);
7. Xếp hạng từ thấp lên cao (ranking drap & drop);
8. Xếp hạng các ý cho sẵn (ranking drop - down);
9. Số lượng (how many).

Dạng câu hỏi này thích hợp trong các cuộc điều tra, khảo sát. Người học có
thể nhập câu trả lời, các phản hồi. Tính năng này cho phép người dùng thực hiện
những điều tra về một vấn đề nào đó [4].


20

1.3.3.3. Tạo các tương tác rõ ràng (articulate engage)
Với tính năng tạo ra nhiều dạng tương tác nhanh và thuận tiện, articulate
engage đã giúp cho người biên soạn nhanh tạo ra các bài giảng có khả năng tương
tác trực quan rất hiệu quả, giao diện đẹp mắt và dễ thực hiện. Có tất cả 11 dạng
tương tác sau:

1. Q trình (process);
2. Nhãn chú thích (labeled graphic);
3. Thẻ (tabs);
4. Dịng thời gian (timeline);
5. Biểu đồ trịn (circle diagram);
6. Chuỗi hình ảnh, phim (media tour);
7. Biểu đồ tháp (pyramid);
8. Hướng dẫn, chú thích hình ảnh (guided image);
9. Danh mục từ kèm chú giải (glossary);
10. Tạo tấm thẻ plash (communiti interactions);
11. Trả lời các câu hỏi của đoạn giới thiệu (FAQ) [4].
1.4. TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN
1.4.1. Cơ sở lí luận của trắc nghiệm khách quan
1.4.1.1. Khái niệm trắc nghiệm
Theo chữ Hán “trắc: có nghĩa là “đo lường”, “nghiệm” có nghĩa là “suy xét,
chứng thực” [3].
Theo tác giả Dương Thiệu Tống: “trắc nghiệm là một dụng cụ hay phương

thức hệ thống nhằm đo lường một mẫu các động thái để trả lời câu hỏi: thành tích
các cá nhân như thế nào khi so sánh với những người khác hay so sánh với một lĩnh
vực các nhiệm vụ dự kiến” [6].
Theo tác giả Trần Bá Hồnh: “test có thể tạm dịch là phương pháp trắc
nghiệm, là hình thức đặc biệt để thăm dị một số đặc điểm về năng lực, trí tuệ của
HS (thơng minh, trí nhớ, tưởng tượng, chú ý) hoặc để kiểm tra một số kiến thức, kĩ
năng, kĩ xảo của HS thuộc một chương trình nhất định” [3].


21

Tới nay người ta hiểu trắc nghiệm là một bài tập nhỏ hoặc câu hỏi có kèm theo
câu trả lời sẵn yêu cầu người học suy nghĩ rồi dùng một kí hiệu đơn giản đã quy
ước để trả lời [3].
TNKQ là phương pháp kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của người học bằng
hệ thống câu hỏi TNKQ. Trắc nghiệm được gọi là khách quan là vì cách cho điểm
là khách quan chứ không chủ quan như bài tự luận. Có thể coi kết quả chấm điểm là
như nhau chứ không phụ thuộc vào người chấm bài trắc nghiệm đó [6], [7].
1.4.1.2. Lịch sử nghiên cứu trắc nghiệm
 Trên thế giới

Từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các phương pháp trắc nghiệm đo lường
thành quả học tập đã được chú ý tại Châu Âu. Năm 1904 nhà tâm lí học người Pháp
- Alfred Binet trong quá trình nghiên cứu trẻ em mắc bệnh tâm thần, đã xây dựng
một số bài trắc nghiệm về trí thơng minh. Năm 1916, Lewis Terman đã dịch và soạn
các bài trắc nghiệm này ra tiếng Anh, từ đó trắc nghiệm trí thông minh được gọi là
trắc nghiệm Stanford - Binet. Vào đầu thế kỉ XX, Edward Thorndike là người thiết
kế Anpha test và Beta test dành cho lính Mĩ trong thời đại chiến thế giới thứ nhất.
Trong những năm gần đây trắc nghiệm là một phương tiện có giá trị trong giáo
dục. Hiện nay trên thế giới trong các kì kiểm tra, thi tuyển một số môn đã sử dụng

trắc nghiệm khá phổ biến [3], [12].
 Ở Việt Nam

TNKQ được sử dụng từ rất sớm trên thế giới song ở Việt Nam TNKQ xuất
hiện muộn hơn, cụ thể:
Ở Miền nam Việt Nam, từ những năm 1960 đã có nhiều tác giả sử dụng trắc
nghiệm khách quan vào một số ngành khoa học (chủ yếu là tâm lí học) [3].
Ở Miền Bắc, tác giả Trần Bá Hoành là một trong những người tiên phong
nghiên cứu TNKQ từ đầu thập kỉ 70 của thế kỉ XX [3].
Những năm gần đây nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học,
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các trường Đại học đã tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi
về việc cải tiến hệ thống các phương pháp kiểm tra, đánh giá của sinh viên trong


22

nước và trên thế giới, các khóa huấn luyện cung cấp những hiểu biết cơ bản về
lượng giá giáo dục và các phương pháp TNKQ. Theo xu hướng đổi mới việc kiểm
tra đánh giá, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giới thiệu phương pháp TNKQ trong các
trường đại học và bắt đầu những cơng trình nghiên cứu thử nghiệm [7], [12].
Như vậy, phương pháp TNKQ đã rất phổ biến ở các nước phát triển, trong
nhiều lĩnh vực, nhiều môn học với kết quả tốt và được đánh giá cao.
1.4.1.3. Một số tương đồng và khác biệt giữa đề tự luận và trắc nghiệm
Trong cuốn sách về trắc nghiệm thành quả học tập xuất bản năm 1965, Robert
L. Ebel đã nêu lên 9 điểm khác nhau và bốn điểm tương đồng giữa tự luận và trắc
nghiệm [6].

 Những điểm tương đồng giữa trắc nghiệm và tự luận
Trắc nghiệm hay tự luận đều có thể đo lường hầu hết mọi thành quả học tập
quan trọng mà một bài khảo sát bằng lối viết có thể khảo sát được. Dù là trắc

nghiệm hay tự luận, tất cả đều có thể được sử dụng để khuyến khích HS học tập
nhằm đạt đến các mục tiêu: hiểu biết các nguyên lí, tổ chức và phối hợp các ý
tưởng, ứng dụng kiến thức trong việc giải quyết các vấn đề. Cả hai loại, trắc nghiệm
và tự luận, đều địi hỏi sự sử dụng ít nhiều phán đoán chủ quan. Giá trị của cả hai
loại trắc nghiệm và tự luận, tùy thuộc vào tính khách quan và đáng tin cậy của
chúng [6].

 Những điểm khác nhau giữa trắc nghiệm và tự luận
Một câu hỏi thuộc loại tự luận địi hỏi thí sinh phải tự mình soạn câu trả lời và
diễn tả nó bằng ngơn ngữ của chính mình. Mặt khác, một câu hỏi trắc nghiệm buộc
thí sinh phải lựa chọn câu trả lời đúng nhất trong một số câu đã cho sẵn [6].
Một bài tự luận gồm số câu hỏi tương đối ít và tính cách tổng qt, địi hỏi thí
sinh phải triển khai câu trả lời bằng lời lẽ dài dòng, trong khi một bài trắc nghiệm
thường gồm nhiều câu hỏi có tính cách chun biệt chỉ đòi hỏi những câu trả lời
ngắn gọn [6].


23

Trong khi làm một bài tự luận, thí sinh phải bỏ phần lớn thời gian để suy nghĩ
và viết. Mặt khác, trong khi làm một bài trắc nghiệm, thí sinh dùng nhiều thời giờ
để đọc và suy nghĩ [6].
Chất lượng của một bài trắc nghiệm được xác định một phần lớn do kĩ năng
của người soạn thảo bài trắc nghiệm ấy. Ngược lại, chất lượng của một bài tự luận
tùy thuộc chủ yếu vào kĩ năng của người chấm bài [6].
Một bài thi theo lối tự luận tương đối dễ soạn nhưng khó chấm và khó cho
điểm chính xác, trong khi bài trắc nghiệm khó soạn, nhưng việc chấm và cho điểm
tương đối dễ dàng và chính xác hơn [6].
Với loại tự luận, thí sinh có nhiều tự do bộc lộ cá tính của mình trong câu trả
lời, và người chấm bài cũng tự do cho điểm các câu trả lời theo xu hướng riêng của

mình. Mặt khác, với một bài trắc nghiệm, người soạn thảo có nhiều tự do bộc lộ
kiến thức và các giá trị của mình qua việc đặt câu hỏi, nhưng chỉ cho thí sinh quyền
tự do chứng tỏ mức hiểu biết của mình qua tỉ lệ câu trả lời đúng [6].
Trong các câu hỏi trắc nghiệm, nhiệm vụ học tập của người học, và cơ sở trên
đó giám khảo thẩm định mức độ hồn thành các nhiệm vụ đó, được phát biểu một
cách rõ ràng hơn là trong các bài tự luận [6].
Một bài trắc nghiệm cho phép, và đơi khi khuyến khích sự phỏng đốn. Ngược
lại, một bài tự luận cho phép, và đơi khi khuyến khích sự “lừa phỉnh” (chẳng hạn
như bằng những ngôn từ hoa mĩ hay bằng cách đưa ra những bằng chứng khó có thể
xác định được) [6].
Sự phân bố điểm số của một bài thi tự luận có thể được kiểm soát một phần
lớn do người chấm (ấn định điểm tối đa và tối thiểu). Ngược lại, với bài trắc nghiệm
thì phân bố điểm số hầu như hồn tồn được quyết định do bài trắc nghiệm [6].
1.4.1.4. Ưu điểm và nhược điểm của TNKQ
 Ưu điểm của TNKQ

Do số lượng câu hỏi nhiều nên phương pháp TNKQ có thể kiểm tra nhiều nội
dung kiến thức thuộc các chương, các phần của môn học [3].


24

TNKQ hạn chế tối đa tình trạng học vẹt, học tủ, đặc biệt là tình trạng quay cóp
của HS do số lượng câu hỏi nhiều, trải đều và thời lượng của một câu hỏi không
nhiều nên HS không đủ thời gian để trao đổi, quay cóp; tiết kiệm được thời gian và
công sức chấm bài của GV; việc chấm điểm rõ ràng, cụ thể nên thể hiện tính khách
quan, minh bạch; gây hứng thú và tính tích cực trong học tập của HS; giúp HS phát
triển kĩ năng nhận biết, hiểu, úng dụng và phân tích, kĩ năng tư duy chính xác và
nhanh nhẹn [3].


 Nhược điểm của TNKQ
TNKQ chỉ cho biết kết quả suy nghĩ mà không cho biết quá trình suy nghĩ,
nhiệt tình, hứng thú của HS đối với nội dung kiểm tra. Do đó khơng đảm bảo chức
năng phát hiện lệch lạc của kiểm tra để có sự điều chỉnh. HS có thể chọn đúng ngẫu
nhiên, mang yếu tố phỏng đoán, may rủi. Việc soạn thảo các câu hỏi TNKQ địi hỏi
tốn nhiều thời gian, cơng sức của GV. Người học mất nhiều thời gian để đọc và suy
nghĩ trả lời câu hỏi. Tốn kém trong việc soạn thảo, in ấn đề kiểm tra. TNKQ không
cho phép kiểm tra năng lực diễn đạt (viết hoặc dùng lời), hạn chế tư duy sáng tạo và
khả năng lập luận của HS, không đánh giá được tư tưởng, thái độ của HS. TNKQ
không cho phép kiểm tra khả năng sáng tạo chủ động, trình độ tổng hợp kiến thức
cũng như phương pháp tư duy, suy luận, giải thích, chứng minh của HS [3].
1.4.2. Các hình thức trắc nghiệm thơng dụng
1.4.2.1. Loại câu trắc nghiệm đúng - sai
Được trình bày dưới dạng một câu phát biểu và HS trả lời bằng cách lựa chọn
đúng hay sai. Loại câu hỏi này rất thông dụng, cấu trúc đơn giản nhưng lại là câu
hỏi dễ bị chỉ trích nhất và khơng nên sử dụng nhiều [1].
1.4.2.2. Loại câu trắc nghiệm có nhiều lựa chọn
Cấu trúc câu hỏi có 2 phần:
Phần gốc: là một câu hỏi ha một câu bỏ lửng đặt ra một vấn đề hay đư ra một
ý tưởng rõ ràng giúp người làm bài hiểu rõ nội dung của câu trắc nghiệm này [6].


25

Phần lựa chọn: gồm một số (thường là 4 hoặc 5) câu trả lời hay phần bổ túc
để HS lựa chọn, trong đó chỉ có một là đáp án, các câu còn lại là mồi nhử nhưng
phải hấp dẫn ngang nhau đối với HS chưa học kĩ hoặc chưa hiểu kĩ bài học [6].
1.4.2.3. Loại đối chiếu cặp đôi
Thực chất cũng là một dạng đặc biệt của câu hỏi nhiều lựa chọn, về cấu trúc
có thể chia thành hai phần như sau:

Phần 1: Nội dung kiểm tra;
Phần 2: Các câu trả lời có liên hệ đến phần 1 (nhưng bị xáo trộn vị trí).
Khi làm bài, thí sinh phải ghép câu trả lời ở phần 2 sao cho đúng nhất với nội
dung ở phần một [1], [6].
1.4.2.4. Loại câu điền khuyết
Loại này có thể có hai dạng. Chúng có thể là những câu hỏi với giải đáp ngắn
hoặc có thể là những câu phát biểu với một hay một số chỗ bị bỏ trống mà HS phải
điền vào bằng một từ hay một cụm từ nhất định [6], [7].


×