MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN TRƯỜNG
Trang
3
1.1.
1.2.
MẦM NON TƯ THỤC
Các khái niệm cơ bản
Đặc điểm và nội dung phát triển trường mầm non tư
15
15
24
1.3.
thục ở tỉnh Bắc Giang
Các yếu tố tác động đến việc phát triển trường mầm non
tư thục
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TRƯỜNG MẦM
30
37
2.1.
NON TƯ THỤC Ở TỈNH BẮC GIANG
Khái quát về tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục và
37
2.2.
hệ thống giáo dục mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang.
Thực trạng và nguyên nhân của thực trạng phát triển
trường mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG, BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN
42
TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC Ở TỈNH BẮC
59
3.1.
GIANG HIỆN NAY
Định hướng phát triển trường mầm non tư thục ở tỉnh
59
3.2.
Bắc Giang trong những năm tới
Biện pháp phát triển trường mầm non tư thục ở tỉnh Bắc
Giang hiện nay
3.2.
Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
63
81
89
92
97
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, đã và đang nhận được sự quan tâm to lớn từ Đảng,
nhà nước và nhân dân. Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì việc
đầu tư cho giáo dục, đào tạo nhân lực có chất lượng cao luôn là vấn đề được
đặt lên hàng đầu. Trong thời kì đổi mới, giáo dục nước ta đã đạt được nhiều
kết quả đáng kể, đến nay nước ta đã có một hệ thống cơ sở giáo dục và đào
tạo, đa dạng các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục, quy mô giáo
dục phát triển từ mầm non đến đại học.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là cấp học đầu
tiên đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ,
định hướng việc hình thành nhân cách của trẻ; đồng thời thúc đẩy quá trình
học tập và phát triển ở các giai đoạn tiếp theo.
Trên thực tế, do nguồn ngân sách nhà nước hạn hẹp nên việc đầu tư
phát triển trường mầm non công lập chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Do vậy, việc đầu tư phát triển trường mầm non tư thục là xu thế tất yếu. Việc
ra đời của các nhóm trẻ gia đình, lớp tư thục giúp huy động trẻ ra lớp ngày
càng cao, giảm áp lực cho các trường công lập, đáp ứng nhu cầu đưa trẻ đến
trường, chia sẻ gánh nặng với ngân sách nhà nước.
Thực tiễn cho thấy, các trường mầm non tư thục sau một thời gian ra
đời, tồn tại và phát triển đã chững minh được tính ưu việt của nó, nhất là chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được nâng lên rõ rệt.
Quán triệt vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của giáo dục mầm non,
giai đoạn 2011 - 2020, Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh
Bắc Giang đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, chương trình, kế hoạch
phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói chung, giáo dục mầm non nói
3
riêng. Sự nghiệp giáo dục mầm non tỉnh Bắc Giang trong những năm qua
không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất hiện nay trong các trường mầm non trên địa
bàn tỉnh còn nhiều khó khăn, bất cập như: tỷ lệ phòng học kiên cố đạt thấp,
hiện còn thiếu phòng học, phòng chức năng theo quy định; nhiều phòng học
không đạt quy chuẩn, còn phòng học tạm, phòng học nhờ các loại. Số học
sinh/ lớp mẫu giáo của nhiều trường mầm non vượt nhiều so với quy định tại
Điều lệ Trường mầm non. Việc tồn tại các nhóm trẻ gia đình và lớp mẫu giáo
độc lập, tư thục nhỏ lẻ tự phát không phép, chủ nhóm không đủ trình độ
chuyên môn chăm sóc trẻ, chất lượng chăm sóc và giáo dục chưa đảm bảo,
tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn cho trẻ.
Thực trạng trên đòi hỏi phải nghiên cứu nắm chắc cơ sở lý luận và
những vấn đề thực tiễn; đồng thời phải nghiên cứu tìm ra những biện pháp
để quản lý chặt chẽ việc phát triển các trường mầm non tư thục nói chung,
các trường mầm non tư thục trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng. Đây là
trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, chính quyền, nhân dân địa phương, trực tiếp là
những nhà quản lý giáo dục.
Thời gian qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về giáo dục mầm non và
đã có Thời gian qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về giáo dục mầm non và
đã có đóng góp đáng kể vào lĩnh vực phát triển giáo dục mầm non. Song các
công trình nghiên cứu chủ yếu bàn về sự phát triển trường mầm non nói
chung; thực tế, cho đến nay, chưa có công trình nào đề cập một cách cơ bản
chuyên sâu về phát triển trường mầm non tư thục ở một tỉnh trung du miền
núi như tỉnh Bắc Giang.
Xuất phát từ các lý do trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Phát triển
trường mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang”, với mong muốn tìm ra lời giải
cho bài toán thực tế trên.
4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát triển giáo dục nói chúng và phát triển các trường mầm non nói
riêng là một tư tưởng giáo dục lớn của Đảng và chủ trương của Nhà nước
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần
đào tạo lớp người lao động mới phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo,
đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì
mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều đó đã
được thể hiện nhất quán trong các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc từ
lần thứ VII đến thứ XI và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư các nhiệm kỳ.
Chủ trương XHHGD, phát triển GDMN được thể hiện rõ trong Luật
Giáo dục năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009. Theo đó, Nhà nước khuyến
khích các tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, ủng hộ để phát triển sự nghiệp giáo
dục. Xã hội hoá, phát triển giáo dục là một bước đi tất yếu trong sự nghiệp
giáo dục hiện nay; phải thực hiện tốt công tác phát triển giáo dục thì mới có
thể đưa giáo dục phát triển lên một tầm cao mới. Bên cạnh đó, vấn đề quản lý
XHHGD và phát triển giáo dục cũng cần phải có sự quan tâm đúng mức để
đưa ra được những định hướng đúng đắn cho hoạt động này ở nhà trường và
địa phương.
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề
XHHGD và phát triển giáo dục. Công trình luận văn thạc sĩ của Hồ Nguyệt
Ánh (1999) đề cập vấn đề “Nâng cao chất lượng bồi dưỡng cán bộ quản lý
giáo dục mầm non” đã nêu phải huy động các lực lượng xã hội tham gia vào
hoạt động này.
Trong tác phẩm: “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI”
tác giả Phạm Minh Hạc đã khẳng định: “Xã hội hoá công tác giáo dục là một
tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường
5
phát triển giáo dục nước ta”. Tác giả Phạm Tất Dong trong tác phẩm:
“Những nhân tố mới về giáo dục trong công cuộc đổi mới” cũng nhấn mạnh
“phát triển giáo dục theo tinh thần xã hội hoá” và đề cao việc huy động toàn
dân vào sự nghiệp cách mạng, coi đó là tư tưởng chiến lược của Đảng “được
tổng kết lại không chỉ là một bài học kinh nghiệm có tầm cỡ lịch sử, mà trở
thành một nguyên lý cách mạng của Việt Nam”.
Tác giả Trần Kiểm trong bài báo “Dân chủ về giáo dục - cơ sở của xã
hội hoá giáo dục” đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học giáo dục, số 93,
Viện Khoa học giáo dục đã đề cập đến những cơ sở của XHHGD. Tác giả
luận bàn về vấn đề dân chủ trong giáo dục, ý nghĩa của nó đối với XHHGD.
Trong tác phẩm “Xã hội hoá giáo dục” tác giả Lê Ngọc Hùng đã luận
giải những vấn đề về khái niệm, nội dung và phương pháp, hình thức của xã
hội hoá giáo dục. Trong tác phẩm “Xã hội hoá giáo dục, nhận thức và hành
động” của nhóm tác giả Bùi Gia Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn Thanh
Bình, vấn đề xã hội hoá giáo dục cũng đã được nghiên cứu cả về lý luận,
thực tiễn.
Ngoài ra, trong những năm gần đây có nhiều đề tài nghiên cứu về chuyên
ngành quản lý giáo dục, trong đó có nhiều đề tài nghiên cứu về XHHGD, về
GDMN, công tác phát triển, chuẩn hoá đội ngũ và quản lý đội ngũ cán bộ
quản lý, giáo viên nhân viên khác của các cơ sở GDMN công lập và ngoài
công lập, quy hoạch phát triển các trường mầm non công lập…
Luận văn thạc sĩ QLGD “Vấn đề xã hội hoá giáo dục mầm non với sự
phát triển giáo dục” của tác giả Phạm Thuý Hiền đã luận giải tầm quan trọng
của XHH GDMN, ý nghĩa của nó đối với sự phát triển của GDMN nói riêng
và giáo dục nói chung.
Luận văn thạc sĩ QLGD: “Biện pháp tăng cường công tác xã hội hoá
sự nghiệp GDMN trên địa bàn thành phố Bắc Ninh” của tác giả Trần Hồng
6
Diễm đã luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn xã hội hoá giáo dục đối
với sự phát triển GDMN và xã hội hoá sự nghiệp GDMN trên địa bàn thành
phố Bắc Ninh. Tác giả Trần Bích Vân trong luận văn thạc sĩ QLGD: “Nâng
cao chất lượng hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục cho các trường tiểu
học trên địa bàn thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc” (2010) đã làm rõ những
vấn đề về XHHGD tiểu học như quan niệm, nội dung, trên cơ sở đó đề xuất
những biện pháp nâng cao chất lượng hiệu quả công tác XHHGD các trường
tiểu học trên địa bàn thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong luận văn thạc sĩ QLGD: “Biện pháp thực hiện xã hội hoá giáo
dục đối với ngành học mầm non trên địa bàn quận Hai Bà Trưng Hà Nội đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” (2011) của tác giả Phạm Thị Tâm, trên cơ sở
luận giải lý luận về XHHGD và phân tích những nét đặc thù của GDMN và
XHH GDMN trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đã đề xuất những biện pháp
thực hiện XHHGD.
Luận án tiến sĩ của Dương Thanh Huyền “Xã hội hoá giáo dục ngành
GDMN trên địa bàn Hà Nội” (2004); luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Kiên
đề cập “Xã hội hoá giáo dục mầm non vùng nông thôn”.
Các công trình này đã đề cập đến các biện pháp nâng cao chất lượng
GDMN, đều coi “xã hội hoá giáo dục” như một phương thức chủ đạo để
ngành học vượt qua các khó khăn khi nguồn lực tài chính còn hạn chế.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hoài An đề cập vấn đề “Xây dựng
trường mầm non tư thục ở Hà Nội” đã nhấn mạnh đến tiềm năng xã hội to lớn
cho mục tiêu này. Công trình luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Tâm đề
cập đến “Những biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý ngành học
mầm non tỉnh Nghệ An”, công trình cũng nêu đặc thù xã hội hoá giáo dục vào
hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý nhìn từ đặc thù một tỉnh miền trung.
7
Công trình luận văn thạc sĩ QLGD của tác giả Nguyễn Thị Thuý
(2002), "Các biện pháp nâng cao năng lực quản lý chuyên môn của hiệu
trưởng các trường mầm non Hà Nội", Công trình đã phân tích thực trạng và
đưa ra các biện pháp nâng cao năng lực quản lý chuyên môn của hiệu trưởng
các trường mầm non Hà Nội. Công trình luận văn QLGD của tác giả Nguyễn
Thị Loan (2002), "Một số biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm tăng
cường công tác chuyên môn cho đội ngũ giáo viên mầm non tỉnh Thái
Nguyên" đã đề xuất các biện pháp quản lý chuyên môn của hiệu trưởng các
trường mầm non Tỉnh Thái Nguyên. Công trình luận văn QLGD của tác giả
Vũ Thị Minh Hà (2004), “Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên
mầm non Hà Nội” đã phân tích những biện pháp bồi dưỡng giáo viên mầm non
nhằm nâng cao năng lực giáo viên mầm non ở Hà Nội.
Công trình luận văn thạc sĩ của Tạ Thu Vân nghiên cứu "Xã hội hoá
giáo dục mầm non quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn hiện nay", (2006) đề
cập đến vấn đề xã hội hoá giáo dục mầm non trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
Trong luận văn thạc sĩ "Biện pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục
mầm non tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay" (2006), tác giả Nguyễn
Thị Bích Hạnh đã luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý công tác xã
hội hoá giáo dục mầm non ở tỉnh Nam Định. Luận văn thạc sĩ của Phùng Thị
Huyền Trân nghiên cứu "Biện pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục
mầm non ở quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay"
(2007) đã đề xuất các biện pháp quản lý công tác XHH GDMN ở quận Thanh
Xuân, Hà Nội.
Đặc biệt, đề tài “Những biện pháp cải tiến quản lý XHH trung học cơ
sở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” do Đặng Bá Lãm,
Trường Đại học Giáo dục (2008) thực hiện đã bàn đến vấn đề quản lý công
tác XHHGD. Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của Nguyễn Thị Bẩy
8
(2008), “Các biện pháp thực hiện xã hội hoá công tác giáo dục ở các
trường mầm non Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay”. Tác giả đã đề xuất
các biện pháp thực hiện xã hội hoá công tác giáo dục ở các trường mầm
non Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn thạc sĩ QLGD của Đỗ Thị Thuý Nga (2009), “Quản lý
công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục mầm non ở huyện Thạch Thất,
Thành phố Hà Nội trong bối cảnh phát triển hiện nay”. Công trình đã đề
xuất các biện pháp quản lý công tác xã hội hoá sự nghiệp GDMN ở huyện
Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
Luận văn thạc sĩ QLGD (2013), “Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục
tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non huyện Tân phú, thành phố Hồ Chí
Minh” của tác giả Thái Thị Loan đã đề xuất các biện pháp ngăn ngừa và khắc
phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non huyện Tân phú, thành phố Hồ
Chí Minh có giá trị thực tiễn cao.
Một số công trình luận văn QLGD cũng đã tập trung vào phân tích thực
trạng và đưa ra những giải pháp quản lý, phát triển đội ngũ, quản lý hoạt động
giáo dục của giáo viên mầm non ở các địa bàn khác nhau như: Luận văn
QLGD của tác giả Vũ Đức Đạm (2005), “Một số giải pháp quản lý phát triển
đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh”; luận
văn QLGD của tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân (2006), “Một số biện pháp phát
triển đội ngũ giáo viên mầm non ở các xã đặc biệt khó khăn tỉnh Sơn La”; luận
văn QLGD của tác giả Nguyễn Thị Lư (2006), “Một số giải pháp phát triển
đội ngũ giáo viên mầm non tỉnh Bắc Giang đến năm 2010”; luận văn QLGD
của tác giả Công Thị Thu (2014), “Phát triển đội ngũ giáo viên mầm non
công lập trên địa bàn quận Tây Hồ Thành phố Hà Nội”; luận văn QLGD của
tác giả Vương Thị Đào (2008), “Giải pháp quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên mầm non thành phố Hải Phòng trong giai đoạn từ nay đến 2015”; luận
9
văn QLGD của tác giả Dương Thị Bích Ngọc (2010),“Biện pháp quản lý bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non ngoài công lập thành phố Việt Trì, tỉnh
Phú Thọ”; luận văn QLGD của tác giả Đinh Thị Bích Thuỷ (2012), "Quản lý
hoạt động bồi dưỡng kĩ năng sư phạm cho giáo viên mầm non ngoài công lập
tại quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội"; luận văn QLGD của tác giả Bùi Thị
Thu Hiền (2014), “Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non Huyện
Thanh Oai, thành phố Hà Nội hiện nay”; luận văn QLGD của tác giả Hoàng
Thị Hồng Loan (2014), "Quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động giáo dục
ở các trường mầm non quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội",...
Một số đề tài luận văn QLGD đã đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý trong các trường mầm non ở các địa bàn khác nhau, đồng thời
đề xuất một số giải pháp phát triển nhằm nâng cao chất lượng cán bộ quản lý
trường mầm non góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trong các
trường mầm non, như: luận văn QLGD của tác giả Nguyễn thị Duyên (2008),
“Giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non thành phố Hải
Dương”; luận văn QLGD của tác giả Trịnh Hoài Hương (2008), “Giải pháp
phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non quận Thanh Xuân hiện
nay”; luận văn QLGD của tác giả Lưu Thị Kim Phương (2009), “Biện pháp
quản lý Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non
thành phố Thái Nguyên”,...
Các đề tài luận văn QLGD của một số tác giả lại đi sâu vào công tác
XHH GDMN, phân tích thực trạng, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp quản
lý cũng như triển khai thực hiện công tác XHH GDMN tại các địa bàn khác
nhau, như: luận văn QLGD của tác giả Hồ Thu Phương (2014), “Quản lý xã
hội hoá giáo dục mầm non ở Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội”; luận văn
QLGD của tác giả Đường Thị Lệ (2014), “Quản lý xã hội hoá giáo dục mầm
10
non ngoài công lập trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội”; luận văn
QLGD của tác giả Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2014), “Quản lý xã hội hoá giảo
dục ở các trường mầm non công lập quận Ba Đình, thành phố Hà Nội”...
Các đề tài của các tác giả nói trên đều mang tính đặc thù của từng địa
phương nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo
dục bậc mầm non ở địa phương. Tuy nhiên, những nghiên cứu dành cho bậc
học này còn khá khiêm tốn, chỉ dừng lại ở việc đánh giá thực trạng và đề xuất
các giải pháp để xây dựng quy hoạch phát triển GDMN, xã hội hoá giáo dục,
quản lý bồi dưỡng giáo viên, bồi dưỡng chuẩn hoá giáo viên, phát triển đội ngũ
giáo viên ở vùng đặc thù. Riêng ở tỉnh Bắc Giang cho đến nay vẫn chưa có tác
giả nào nghiên cứu vấn đề phát triển trường mầm non tư thục một cách đầy đủ
và có hệ thống.
Do vậy, trong Luận văn này tác giả mong muốn đưa ra một số biện
pháp phù hợp đặc điểm tình hình của tỉnh Bắc Giang trong thực hiện phát
triển trường mầm non tư thục trước yêu cầu và nhiệm vụ mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp
phát triển trường mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang hiện nay, góp phần phát
triển giáo dục bậc học giáo dục mầm non trên địa bàn tỉnh.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển trường mầm non tư thục.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thành công, hạn chế phát triển trường mầm
non tư thục ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp cơ bản phát triển trường mầm non tư thục ở
tỉnh Bắc Giang hiện nay.
11
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý trường mầm non ở tỉnh Bắc Giang.
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển trường mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đề xuất các biện pháp phát triển trường
mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang, nhất là ở thành phố Bắc Giang bảo đảm
phù hợp với chính sách và quy định hiện hành.
Các số liệu sử dụng để nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm học
2010 - 2011 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Xã hội hoá giáo dục là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta, là xu
hướng tất yếu trong phát triển sự nghiệp giáo dục ở nước ta.
Phát triển trường mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, nhiều vấn đề cần phải giải quyết đòi hỏi phải có nhiều thời gian,
công sức và sự tham gia của cộng đồng. Nếu các chủ thể quản lý thực hiện tốt
các biện pháp như: Đề cao trách nhiệm của các chủ thể quản lý trong xây
dựng và thực hiện kế hoạch phát triển trường mầm non tư thục; xây dựng và
tổ chức thực hiện chặt chẽ kế hoạch phát triển; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực cho phát triển trường mầm non tư thục đủ về số lượng và đảm bảo về chất
lượng; tạo cơ chế thích hợp để thực hiện xã hội hoá giáo dục nhằm phát triển
trường mầm non tư thục; tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả phát
triển trường mầm non tư thục, thì sẽ phát triển được loại hình trường mầm
non tư thục, đáp ứng được yêu cầu mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng
GDMN ở tỉnh Bắc Giang trong những năm tới.
12
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục nói chung và QLGD
nói riêng, trong đó trực tiếp là các quan điểm, chủ trương phát triển giáo dục
bậc học mầm non.
* Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành công trình nghiên cứu, tác giả vận dụng các quan điểm
tiếp cận lôgic - lịch sử, hệ thống - cấu trúc và quan điểm thực tiễn trong
nghiên cứu khoa học, đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu lý thuyết, nghiên cứu thực tiễn; xin ý kiến chuyên gia… Cụ thể là:
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các tài liệu có liên quan
đến các trường mầm non và phát triển các trường mầm non tư thục ở Thành phố
Bắc Giang. Chú trọng nghiên cứu các tài liệu, như: Đề án phát triển giáo dục
mầm non 2005 - 2015; Đề án phát triển cơ sở vật chất GDMN giai đoạn 2015 2020; chính sách phát triển đa dạng hoá các loại hình giáo dục và công tác xã hội
hoá GDMN, quy hoạch ngành giáo dục tỉnh Bắc Giang đến năm 2020; chính
sách thu hút đầu tư trên lĩnh vực giáo dục và một số văn bản có liên quan khác.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm:
+ Phương pháp quan sát: quan sát các hoạt động quản lý các trường
mầm non tư thục như: Xây dựng kế hoạch, xây dựng tiến độ thực hiện, quan
sát hoạt động của giáo viên, nhân viên các trường mầm non tư thục…
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến
để khảo sát một số đối tượng là lãnh đạo, giáo viên, nhân viên về những vấn
đề nghiên cứu.
13
+ Phương pháp phỏng vấn: thực hiện trao đổi, toạ đàm với một số cán
bộ lãnh đạo ở các cấp từ tỉnh đến phường xã, một số cán bộ ở các cơ quan
như Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh, Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Bắc
Giang, chủ đầu tư và một số cán bộ quản lý, giáo viên ở một số trường mầm
non tư thục.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rút ra những nguyên
nhân, hạn chế và kinh nghiệm phát triển trường mầm non tư thục.
- Phương pháp hỗ trợ:
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu điều tra,
khảo sát, thống kê.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung, cụ thể hoá lý luận
QLGD vào phát triển trường mầm non tư thục.
- Đánh giá đúng thực trạng các trường mầm non tư thục hiện nay, tìm
hiểu rõ những nguyên nhân hạn chế đến sự phát triển của các trường mầm
non tư thục.
- Luận văn được nghiên cứu thành công có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho cán bộ lãnh đạo, các cơ quan hữu quan, các nhà đầu tư trong hoạch
định chính sách, chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc phát triển trường mầm non
tư thục ở tỉnh Bắc Giang.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm: Phần mở đầu, 3 chương (8 tiết); kết luận
và kiến nghị; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Trường mầm non
Hiện nay vẫn còn tồn tại những quan niệm khác nhau về trường mầm
non. Có quan niệm cho rằng trường mầm non chỉ là nơi “giữ trẻ”, “trông trẻ”,
không phải là “trường học dạy trẻ”. Vì vậy, để có thể làm rõ khái niệm trường
mầm non cần phải đề cập đến khái niệm nhà trường và khái niệm GDMN.
Theo từ điển Tiếng Việt thì, “Nhà trường là nơi tiến hành công tác
giảng dạy, đào tạo toàn diện hay về một lĩnh vực chuyên môn nào đó cho các
loại học sinh, nơi rèn luyện, bồi dưỡng con người về mặt nào đó”.
Theo Luật Giáo dục thì: “Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 03 tháng đến 06 tuổi”.
Các chuyên gia Nhật Bản cho rằng, tại Nhật trường mầm non được
định nghĩa là nơi có cơ cấu giáo dục theo từng nhóm, trẻ được học tập các
quy tắc của cuộc sống tập thể trong mối quan hệ giữa các bé đồng trang lứa
với nhau; là nơi rèn luyện các cháu thái độ sống hoà hợp, hoà nhập, ươm mầm
tinh thần ý thức, tinh thần hợp tác, tính độc lập, tự chủ, niềm tin, gia đình và
người xung quanh.
Ở nước ta hiện nay có trường mầm non công lập do cơ quan Nhà nước
thành lập và trường ngoài công lập do cơ quan Nhà nước cho phép tổ chức, cá
nhân thành lập khi đảm bảo đủ điều kiện theo quy định (nhóm trẻ, trường
mầm non ngoài công lập). Việc đầu tư cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động
cho nhà trường từ nhiều nguồn: Ngân sách Nhà nước, các nguồn thu hợp pháp
khác và sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân, tuỳ theo loại hình GDMN mà
ngân sách Nhà nước đóng vai trò chủ đạo hay hỗ trợ một phần. Mặt khác, Nhà
nước thể hiện vai trò là người định hướng GDMN thông qua xây dựng khung
15
chương trình, các chuẩn, điều kiện để hình thành nhóm, lớp, trường mầm non
và yêu cầu đối với việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ theo độ tuổi.
Khác với bậc học khác, bậc học mầm non không chỉ là nơi giáo dục trẻ
mà còn là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ từ 03 tháng đến 06 tuổi. Việc nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ theo quy định diễn ra tại trường mầm non, có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, vì một nửa quỹ thời gian trong một ngày của trẻ là
sinh hoạt, học tập tại nhà trường (đối tượng bán trú) nên thời gian, quy tắc
sống, sự hoà nhập của trẻ, sức khoẻ và những nét nhân cách hình thành cho
trẻ chịu tác động từ môi trường giáo dục của nhà trường.
Trường mầm non đảm trách nhiệm vụ rất nặng nề, vì là nơi diễn ra quá
trình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ theo mục tiêu, phương pháp, chương
trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Trên cơ sở chuẩn quy định đó, nhà
trường triển khai đồng bộ, phù hợp để đạt mục tiêu giáo dục hiệu quả cao
nhất, kết quả giáo dục nhà trường tác động trực tiếp đến môi trường giáo dục,
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tại gia đình và ngược lại.
Từ những phân tích trên có thể thấy trường mầm non là tổ chức giáo
dục mang tính Nhà nước và tính xã hội, là nơi trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục và nuôi dưỡng trẻ theo độ tuổi quy định (từ 03 tháng đến 06 tuổi).
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm trường mầm non như
sau: Trường mầm non là nơi tiến hành công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
trẻ từ ba tháng đến sáu tuổi theo mục tiêu, phương pháp, chương trình do Nhà
nước quy định nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
Chức năng trường mầm non
Có thể nêu một cách khái quát trường mầm non có chức năng là nơi
thực hiện các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 03 tháng
đến 06 tuổi theo quy chuẩn, bao gồm tổ chức đón, trả trẻ; chăm sóc, giáo dục
vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường; quản lý sức khoẻ và an toàn cho trẻ; tổ
16
chức các hoạt động vui chơi, học tập, lao động; hoạt động ăn, nghỉ của trẻ
(đối với trường bán trú); tổ chức thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ từ 03 tháng đến 06 tuổi theo Chương trình GDMN do Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; tổ chức phối hợp các cơ quan, tổ chức
chính trị xã hội và cá nhân để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến kiến
thức khoa học nuôi dạy trẻ cho cha mẹ và cộng đồng; tổ chức thực hiện nhiệm
vụ huy động các nguồn lực của cộng đồng chăm lo cho sự nghiệp GDMN.
Tính đặc thù của trường mầm non
Với xu hướng phát triển trường mầm non công lập theo hướng toàn
diện, vững chắc đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập, chăm sóc giáo
dục trẻ, đồng thời triển khai các chính sách ưu đãi để thu hút các thành phần
kinh tế tham gia phát triển hệ thống trường lớp mầm non ngoài công lập. Việc
đầu tư giáo dục mầm non theo hướng ưu tiên phát triển giáo dục mầm non
công lập cho các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, đồng thời xây dựng
các chính sách nhằm thu hút đầu tư cho phát triển hệ thống trường mầm non
tư thục khu vực đô thị trong Tỉnh, thì trường mầm non có những nét đặc thù,
cụ thể:
Đối tượng nuôi dạy là trẻ từ 03 tháng đến 06 tuổi, giai đoạn nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục có ý nghĩa quan trọng đặt nền móng cho sự phát
triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm và thẩm mĩ của con người.
Nội dung thực hiện nhiệm vụ của trường mầm non là khá phong phú, từ
việc nuôi dưỡng, chăm sóc đến giáo dục.
Nhà trường đảm bảo thực hiện yêu cầu phổ cập GDMN cho trẻ 05
tuổi theo hướng nâng dần tỷ lệ trẻ được đến lớp để thực hiện chăm sóc giáo
dục 02 buổi/ngày đủ một năm học, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ,
tình cảm, thẩm mỹ, giúp trẻ hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
17
Những người thực hiện nhiệm vụ ở trường mầm non là cán bộ quản lý,
giáo viên, nhân viên - những người lao động đa năng ở môi trường rất đặc
thù, thể hiện phong phú, đa dạng những nét nhân cách của người mẹ, của nhà
giáo dục, vừa của người nghệ sĩ và vừa của người y tế, người bảo mẫu…
Cơ cấu tổ chức trường mầm non
Theo quy định của Điều lệ Trường mầm non do Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành thì cơ cấu tổ chức của trường mầm non bao gồm: Tổ chuyên
môn, gồm giáo viên, người làm công tác thiết bị giáo dục và cấp dưỡng; Tổ
văn phòng, gồm các nhân viên làm công tác y tế trường học, văn thư, kế toán
và nhân viên khác; hiệu trưởng và phó hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm
tổ chức, quản lý các hoạt động và chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
trẻ của nhà trường; Hội đồng trường đối với trường mầm non công lập, Hội
đồng quản trị đối với trường mầm non dân lập, tư thục được gọi chung là Hội
đồng trường. Hội đồng trường là tổ chức chịu trách nhiệm quyết định về
phương hướng hoạt động của nhà trường, huy động và giám sát việc sử dụng
các nguồn lực dành cho nhà trường, nhà trẻ, gắn nhà trường, nhà trẻ với cộng
đồng và xã hội, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục; Hội đồng thi đua khen
thưởng, Hội đồng tư vấn; Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam và đoàn thể
trong nhà trường.
1.1.2. Trường mầm non tư thục
Luật Giáo dục năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009, điều 48
quy định về Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân: “Trường công
lập do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh
phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên. Trường dân lập do cộng đồng dân
cư thành lập, đầu tư cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động. Trường
tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế
hoặc cá nhân thành lập, đầu tư cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí học tập
18
bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước. Nhà trường trong hệ thống giáo dục
quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch
của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Nhà nước tạo điều kiện
để trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân”.
Luật Giáo dục năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009, có riêng Mục
4 quy định về chính sách đối với trường dân lập, trường tư thục. Cụ thể:
Điều 65 Luật Giáo dục năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009, quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của trường dân lập, trường tư thục: “Trường dân
lập và trường tư thục có nhiệm vụ và quyền hạn như trường công lập trong
việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục và các
quy định liên quan đến tuyển sinh, giảng dạy, học tập, thi cử, kiểm tra, công
nhận tốt nghiệp, cấp văn bằng chứng chỉ. Trường dân lập và trường tư thục tự
chủ và tự chịu trách nhiệm về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà trường, tổ
chức các hoạt động giáo dục, xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo, huy
động và quản lý các nguồn lực để thực hiện mục tiêu giáo dục. Văn bằng,
chứng chỉ do trường dân lập, trường tư thục, trường công lập có giá trị ngang
nhau. Trường dân lập, trường tư thục chịu quản lý của cơ quan nhà nước về
giáo dục theo quy định của Chính phủ”.
Ngày 30 tháng 6 năm 2015, Bộ trưởng Bộ Giáo dục đã ký Thông tư số
13/2015/TT-BGDĐT về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động trường
mầm non tư thục. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 14 tháng 8
năm 2015, thay thế Quyết định số 41/2008/QĐ-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm
2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế tổ chức và
hoạt động trường mầm non tư thục và Thông tư số 28/2011/TT-BGDĐT ngày
15 tháng 7 năm 2011 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tổ
chức và hoạt động trường mầm non tư thục ban hành kèm theo Quyết định
19
số 41/2008/QĐ-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
Từ diễn giải trên, có thể hiểu: Trường mầm non tư thục là cơ sở giáo
dục mầm non thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, do tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập khi được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cho phép; nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và
bảo đảm kinh phí hoạt động là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; nhà
trường, nhà trẻ tư thục, có tư cách pháp nhân, con dấu và được mở tài khoản
riêng.
Mọi hoạt động của trường mầm non tư thục đều giống như các trường
mầm non công lập, từ mục tiêu, quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
theo mục tiêu, phương pháp, chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định. Chỉ khác trường mầm non tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư cơ sở vật chất
và bảo đảm kinh phí học tập bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Trường mầm non tư thục có địa vị pháp lý và vị trí vai trò như trường
mầm non công lập, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục của
Đảng, Nhà nước, tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
1.1.3. Quản lý trường mầm non tư thục
Quản lý là sự tác động có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn các quá
trình xã hội, những hành vi hoạt động của con người để đạt tới mục đích đúng
với ý chí của nhà quản lý và phù hợp với quy luật khách quan. Theo đó, có
thể thấy quản lý bao giờ cũng được đặt trong một mối quan hệ đa chiều, phức
hợp. Trong quản lý có các nhân tố: chủ thể quản lý, mục tiêu quản lý và đối
tượng quản lý, về bản chất, là cách thức tác động (tổ chức, điều khiển, chỉ
20
huy) hợp quy luật khách quan của chủ thể quản lý nhằm làm cho tổ chức vận
hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý trường mầm non tư thục là quá trình tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý (hội đồng quản trị, ban giám hiệu, đứng đầu là
chủ tịch hội đồng quản trị, hiệu trưởng) đến tập thể cán bộ, giáo viên để
chính họ tác động trực tiếp đến quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đối với từng độ tuổi và mục tiêu chung
của bậc học.
Theo phân cấp quản lý thì Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục đối
với trường mầm non tư thục, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập thuộc
loại hình tư thục; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về giáo dục đối với nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư
thục; Phòng giáo dục và đào tạo có trách nhiệm tham mưu, giúp Ủy
ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục
đối với nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục.
Quản lý trường mầm non tư thục là tập hợp những tác động tối ưu của
chủ thể quản lý đến tập thể cán bộ giáo viên nhằm thực hiện có chất lượng
mục tiêu, kế hoạch giáo dục của nhà trường, trên cơ sở vận dụng các tiềm
lực vật chất và tinh thần của xã hội, nhà trường và gia đình.
Thực chất công tác quản lý trường mầm non tư thục là quản lý quá
trình nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ, đảm bảo cho quá trình đó vận hành
thuận lợi và có hiệu quả. Quá trình chăm sóc giáo dục trẻ gồm các nhân tố tạo
thành như: mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, phương tiện nuôi
dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ; giáo viên (lực lượng giáo dục); trẻ em từ ba
21
tháng tuổi đến sáu tuổi (đối tượng giáo dục) và nhân tố cuối cùng là kết quả
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ.
1.1.4. Phát triển trường mầm non tư thục
Theo từ điển tiếng Việt thì phát triển là: “biến đổi hoặc làm biến đổi từ
ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp”.
Theo từ điển Anh - Anh thì “phát triển” (Develop) có nghĩa là “làm cho
ai/cái gì tăng trưởng dần dần, trở nên hoặc làm cho trưởng thành hơn, tiến
triển hơn hoặc có tổ chức hơn”.
Theo Triết học Mác - Lênin: Phát triển là một quá trình vận động từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, theo đó cái cũ biến mất và cái mới ra
đời. Đối với sự phát triển, nét đặc trưng là hình thức xoáy trôn ốc. Mọi quá
trình riêng lẻ đều có sự khởi đầu và kết thúc.
Nói một cách khái quát, phát triển là sự vận động đi lên của mọi sự vật
và hiện tượng tuân theo những quy luật nội tại khách quan của chúng.
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu phát triển bao gồm ba yếu tố: Tăng
cường số lượng, nâng cao chất lượng và điều chỉnh cơ cấu.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Phát triển trường mầm non tư
thục là quá trình làm tăng quy mô trường mầm non tư thục cả số lượng, chất
lượng và điều chỉnh cơ cấu trường lớp, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và
nhân viên phục vụ cho phù hợp để thực hiện mục tiêu nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ từ ba tháng đến sáu tuổi, giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 1.
- Mục tiêu phát triển trường mầm non tư thục:
Phát triển trường mầm non tư thục đảm bảo đáp ứng ba yếu tố, đó là
tăng thêm số lượng trường mầm non, tăng quy mô phòng học, phòng chức
22
năng và các công trình phụ trợ khác của trường mầm non tư thục; nâng cao
chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ các trường mầm non tư thục
đạt mục tiêu giáo dục bậc học theo chuẩn quy định; điều chỉnh cơ cấu, đội
ngũ quản lý, giáo viên, nhân viên y tế và nhân viên dinh dưỡng đảm bảo đáp
ứng yêu cầu công tác của trường mầm non tư thục đạt chuẩn quốc gia.
- Chủ thể phát triển trường mầm non tư thục:
Chủ thể phát triển trường mầm non tư thục bao gồm chủ thể gián tiếp
và chủ thể trực tiếp.
Chủ thể gián tiếp là uỷ ban nhân dân cấp huyện (thành phố, thị xã trực
thuộc tỉnh); phòng giáo dục và đào tạo cấp huyện. Các chủ thể này có chức
năng phê duyệt, cấp phép thành lập, cấp phép hoạt động và quản lý nhà nước
đối với việc phát triển các trường mầm non trên địa bàn, trong đó có các trường
mầm non tư thục.
Chủ thể trực tiếp là tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế,... hoặc các cá nhân sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách để
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động trường mầm
non tư thục.
- Phương thức, biện pháp phát triển trường mầm non tư thục
Phát huy tinh thần, nhiệt huyết và tài năng của các nhà giáo và mọi
công dân vì sự nghiệp giáo dục, huy động nguồn lực từ trong dân và mọi
thành phần kinh tế cho phát triển trường mầm non tư thục.
Phát triển trường mầm non tư thục phải có kế hoạch, qui hoạch phát
triển của địa phương, chấp hành qui định, điều kiện thành lập trường mầm
non do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, trong đó coi trọng qui hoạch, kế
hoạch phát triển, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, bảo đảm cơ sở vật chất trường
học và hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
- Nội dung phát triển trường mầm non tư thục:
23
Phát triển về số lượng: tăng thêm số lượng trường nhằm huy động trẻ
em lứa tuổi mầm non đến trường mầm non tư thục; đồng thời việc phát triển
các trường mầm non tư thục phải đảm bảo hợp lý về cơ cấu địa bàn (quy
hoạch, kế hoạch hoá mạng lưới trường mầm non). Cùng với tăng số lượng
trường phải đi đôi với duy trì, bảo đảm và nâng cao chất lượng chăm sóc và
giáo dục trẻ tại các trường mầm non tư thục.
Mục đích chính của việc phát triển trường mầm non tư thục là nhằm
nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục tại các trường mầm non tư thục
đạt mục tiêu giáo dục. Muốn vậy, cần phải tiến hành các biện pháp hợp lý
như: đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên,
nhân viên y tế, nhân viên dinh dưỡng và các nhân viên khác; quản lý
chương trình, nội dung và chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ ở
các trường mầm non tư thục; huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực
để đầu tư cơ sở vật chất theo quy định của pháp luật
1.2. Đặc điểm và nội dung phát triển trường mầm non tư thục
1.2.1. Đặc điểm phát triển trường mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang
trong thời gian tới
Đặc điểm phát triển trường mầm non tư thục nói chung và phát triển
trường mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang nói riêng được thể hiện ở những
nét ưu việt và những hạn chế bất cập trong khâu tổ chức thực hiện việc phát
triển loại hình trường này.
* Tính ưu việt của trường mầm non tư thục
Một là, hiện nay chúng ta đang xây dựng một xã hội học tập, tức là nhu
cầu được học tập (chăm sóc - giáo dục) là nhu cầu tất yếu khách quan, nhất là
lứa tuổi mầm non; măt khác, hiện nay, do đời sống của nhân dân ta có sự phát
triển đáng kể, điều đó kéo theo nhu cầu được chăm sóc, giáo dục con em cũng
ngày càng phải tốt hơn,... trong khi đó, hệ thống các trường mầm non công
24
lập không thể đáp ứng được yêu cầu này. Do đó, sự ra đời của các trường
mầm non tư thục là một tất yếu khách quan.
Hai là, sau một ra đời, tồn tại, phát triển, các trường mầm non tư thục
không chỉ tham gia giải quyết bài toán “có nơi để chăm sóc trẻ” bình thường
như các trường công lập, mà thực sự đã nâng cao được chất lượng chăm sóc
giáo dục thế hệ tương lai của đất nước. Đa số các trường mầm non tư thục
trong đó có tỉnh Bắc Giang đã đáp ứng được sự kỳ vọng của xã hội; nhiều
trường đã trở thành điểm sáng, là nơi lựa chọn để nhân dân đưa con em mình
đến với mong được chăm sóc, giáo dục với chất lượng cao nhất.
* Những hạn chế bất cập trong việc phát triển trường mầm non tư thục
ở tỉnh Bắc Giang.
Một là, sự quan tâm của một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa
đầy đủ tới phát triển giáo dục mầm non.
Do thiếu tầm nhìn chiến lược về sự phát triển giáo dục của địa phương,
vì vậy đã có tình trạng một số tổ chức đảng và chính quyền địa phương của
tỉnh chưa có những chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể và sát sao phát triển
bậc học này và cần sơm được khắc phục.
Hai là, trường mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang có sự phát triển
không đồng đều, có sự phân hoá các trường mầm non tư thục ở khu vực
thành phố và phát triển chậm ở vùng nông thôn, miền núi.
Do tình hình kinh tế xã hội ở các thành phố, thị xã của tỉnh phát
triển hơn so với vùng nông thôn, miền núi, sự chênh lệch phát triển về
giáo dục nói chung trong đó có GDMN là một hiện thực. Vấn đề đặt ra là
các cấp chính quyền cần có chủ trương, biện pháp để thu hẹp khoảng cách
chênh lệch phát triển đó, nhằm bảo đảm cho mọi người dân tiếp cận
GDMN công bằng.
25
Ba là, đa số cán bộ quản lý trường mầm non tư thục chưa được đào
tạo kiến thức quản lý trường mầm non, đội ngũ giáo viên còn thiếu, phần
nhiều chưa được đào tạo cơ bản.
Cán bộ QLGD và giáo viên trường mầm non tư thục trên địa bàn số
lượng thiếu so với thực tế, chưa qua đào tạo cơ bản về chuyên môn chiếm tỷ
lệ còn cao, đòi hỏi các trường mầm non tư thục có kế hoạch tuyển chọn nhân
sự cần chú ý khắc phục vấn đề này.
Bốn là, quỹ đất để xây dựng trường mầm non tư thục còn thiếu, quy
hoạch chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.
Trong chiến lược và qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh cũng
như các huyện trong tỉnh chưa có chủ trương, kế hoạch cụ thể đối với việc qui
hoạch phát triển trường mầm non, từ đó có qui hoạch dành quĩ đất cho xây
dựng trường mầm non.
1.2.2. Nội dung phát triển trường mầm non tư thục ở tỉnh Bắc Giang
1.2.2.1. Phát triển về số lượng và cơ cấu các trường mầm non tư thục
- Thành lập mới một số lượng trường mầm non tư thục trên địa bàn
nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc, giáo dục trẻ.
Thực hiện chính sách xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục để thu hút các
nguồn lực từ các tổ chức kinh tế - xã hội - nghề nghiệp, các cá nhân và cộng
đồng đầu tư xây dựng trường mầm non tư thục. Đối với tỉnh Bắc Giang, dự
kiến đến năm 2020 toàn tỉnh tăng thêm 11 trường so với năm học 2014 2015, trong đó tăng 5 trường mầm non tư thục đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng
số trường mầm non của tỉnh tăng lên 285 trường (274 trường mầm non công
lập và 11 trường mầm non tư thục).
Đầu tư, tăng quy mô phòng học, phòng chức năng và các công trình
phụ trợ khác của trường mầm non tư thục. Khuyến khích các trường mầm
26