Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

TÀI NGUYÊN NĂNG LƯỢNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 44 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM

MÔI TRƯỜNG
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG
ĐẾN CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CON NGƯỜI
ĐỀ TÀI: TÀI NGUYÊN NĂNG LƯỢNG - CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

NĂNG LƯỢNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................ 1
A. TÀI NGUYÊN NĂNG LƯỢNG .................................................................. 3
I.

Tình hình sử dụng năng lượng thế giới và Việt Nam ................................... 3
1. Bạn biết gì về năng lượng?........................................................................ 3
2. Chuyện gì đang xảy ra với năng lượng chúng ta đang sử dụng? .............. 4
3. Những ảnh hưởng của việc khai thác quá mức tài nguyên năng lượng .... 7
4. Giải pháp cấp thiết hiện nay ...................................................................... 9

II. Tài nguyên năng lượng ............................................................................... 11
1. Năng lượng không tái tạo ........................................................................ 11
2. Năng lượng tái tạo ................................................................................... 19
B. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG- NĂNG LƯỢNG TÁI
TẠO ...................................................................................................................... 32
I.

Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo trên thế giới ................................ 32


II. Chiến lược phát triển năng lượng mới ở Việt Nam .................................... 35
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 38


DANH MỤC HÌNH ẢNH

Hình 1.
Hình 2.
Hình 3.
Hình 4.
Hình 5.
Hình 6.
Hình 7.

Hình 8.
Hình 9.
Hình
10.

tỷ trọng các loại hình sản xuất điện năng trong hệ thống điện Việt
Nam( nguồn Trung tâm Điều độ Hệ thống diện Quốc gia, 2012)
Dự báo trữ lượng dầu mỏ, khí đốt, than đá của thế giới và Việt
Nam ( nguồn: BP, 2014)
Nhu cầu năng lượng thế giới( nguồn: Cơ quan Năng lượng Quốc
tế( IEA), 2012)
Các lĩnh vực sử dụng năng lượng của Việt Nam giai đọa 2010-2030
Lượng khí thải CO2 của các nước trên thế giới
Khối lượng khí thải của các nước EU, Mỹ, Nga, Trung Quốc so với
toàn thế giới
Lượng phát thải từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch (Nguồn: Tạp chí

PNAS)
Biến động hàm lượng điôxít cacbon trong thời gian 400.000 năm
gần đây cho thấy sự gia tăng của nó kể từ khi bắt đầu cách mạng
công nghiệp.
Biểu đồ cơ cấu sản xuất năng lượng Việt Nam 2010 (%)
Công suất lắp đặt và phát điện từ năng lượng hạt nhân, 1980 2011 (EIA).

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NLHT

Nhiên liệu hóa thạch

kWh
NLTT
GDP
PW
MW

Kilowatt giờ
Nhiên liệu tái tạo
Tổng sản phảm quốc nội
Petawatts
Megawatts


ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ đề an ninh năng lượng không còn mới lạ đối với chúng ta vì nhu cầu sử
dụng điện, gas, xăng dầu hàng ngày của mỗi người. Năng lượng là điện từ thắp
bóng đèn, là gas đun nấu và xăng chạy xe hàng ngày và cả thức ăn. Đây là số liệu
dự báo về dự trữ năng lượng cho Việt Nam đến cuối năm 2013 theo BP*, những

con số này thực sự đáng lo ngại cho an ninh của Việt Nam:
Than đá: còn lại 150 triệu tấn, ít hơn 0.05% trữ lượng thế giới, nếu giữ nguyên tốc
độ khai thác thì còn kéo dài được 4 năm (hiện tại Việt Nam đã phải nhập than đá để
duy trì các nhà máy trong hệ thống cũ).
Dầu thô: còn lại 4.4 tỷ thùng dầu, chiếm 0.3% trữ lượng dầu thế giới, nếu giữ
nguyên tốc độ khai thác thì còn kéo dài được 34.5 năm.
Khí thiên nhiên: còn lại 0.6 nghìn tỷ mét khối, chiếm 0.3% trữ lượng thế giới, nếu
giữ nguyên tốc độ khai thác thì còn kéo dài được 63.3 năm.

*

Nguồn:

/>
economics/statistical-review-of-world-energy.html
Những con số thật là đáng báo động và đáng sợ và chúng ta hẳn không muốn
đến chỉ khoảng 20 năm nữa nhứng chịu cảnh khủng hoảng không có điện và gas và
không có xăng chạy xe cũng như con cháu mình chịu cảnh đó. Thực tế chúng ta
không phải đợi vài chục năm nữa, rõ ràng Việt Nam đang phải nhập khẩu than đá từ
Trung Quốc, Úc.
Nếu chúng ta nghĩ một đời người ngắn ngủi và không phải lo xa cho vài chục
năm nữa? Hay là thế giới cứ để thị trường năng lượng từ các nguồn than đá, dầu
mỏ, hóa thạch và nguyên tử khủng hoảng và tự nó chết và đương nhiên con người
phải dùng đến năng lượng tái tạo?
Tôi xin được trích dẫn một vài câu nói của ông Hermann Scheer:

1


“ việc chúng ta bị phụ thuộc vào tài nguyên hóa thạch cũng giống như tự

đốt nhà mình vậy, và bình cứu hỏa trong tay chính là năng lượng tái tạo” ( Hermann
Scheer- chủ tịch Hội đồng Năng lượng Tái tạo Thế giới)
trong cuốn Tuyên Ngôn Mặt Trời (The Solar Manifesto) Hermann Scheer có
viết : “Để có thể thảo luận về năng lượng như một vấn đề riêng rẽ là một ảo tưởng
đầu óc. Phát thải CO2 không phải là vấn đề duy nhất của nhiên liệu hóa thạch. Ô
nhiễm phóng xạ không phải là vấn đề duy nhất của năng lượng hạt nhân. Nhiều mối
nguy hiểm khác được tạo ra bởi việc sử dụng năng lượng hạt nhân và hóa thạch: từ
các đô thị ô nhiễm tới sự xói mòn đất ở vùng nông thôn; từ ô nhiễm nước tới sa mạc
hóa; từ di cư hàng loạt tới các khu định cư quá tải và việc suy giảm an toàn cá nhân
lẫn an ninh quốc gia. Do hệ thống năng lượng hiện tại là gốc rễ của các vấn đề này,
năng lượng tái tạo là giải pháp cho chúng”.
Để hiểu rõ hơn về tài nguyên năng lượng và chiến lược phát triển tài nguyên
năng lượng ở thế giới và Việt Nam như thế nào tôi xin trình bày trong bài tiểu luận
khoa học môi trường với những nội dung sau đây:
-

Phần 1: Tài nguyên năng lượng ( tìm hiểu sơ lược về tài nguyên năng lượng,
đưa ra khái niệm, nguồn gốc, lợi ích, ảnh hưởng tới môi trường và các số liệu
thống kê và hình ảnh về các loại tài nguyên năng lượng trên thế giới)..

-

phần 2: chiến lược phát triển năng lượng thế giới và Việt Nam.
Bài tiểu luận được thực hiện lần đầu không tránh khỏi những hạn chế và

thiếu sót, tôi mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của giảng viên bộ môn và các
cán bộ chấm thi để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

2



A. TÀI NGUYÊN NĂNG LƯỢNG
I.
1.

Tình hình sử dụng năng lượng thế giới và Việt Nam
Bạn biết gì về năng lượng?
“Có điều quan trọng này hãy nhớ rằng chúng ta là năng lượng. Einstein đã

dạy chúng ta điều đó. Năng lượng không tạo ra cũng không mất đi, nó chỉ chuyển
từ dạng này sang dạng khác”.
–Rhonda Byrne–
Mọi hoạt động hàng ngày của con người đều dùng đến năng lượng. Để đun
nấu, chúng ta dùng củi, than, khí đốt hoặc điện để nấu nướng. Để đi lại, chúng ta
dùng xăng, dầu hay điện để chạy xe cộ. Để sản xuất và sinh hoạt , các cá nhân hoặc
tổ chức phải dùng điện để thắp sáng, chạy máy móc…
Năng lượng chính là sức mạnh vật lý hay tinh thần giúp chúng ta làm được
bất cứ việc gì. ở đây, năng lượng vật lí được hiểu một cách đơn giản là khả năng
làm thay đổi trạng thái hoặc di chuyển một vật. Năng lượng bao gồm nhiên liệu,
điện năng, nhiệt năng thu được trức tiếp hoặc thông qua chế biến từ các nguồn tài
nguyên năng lượng không tái tạo . điện năng ( thường gọi tắt là điện) là một dạng
năng lượng thứ cấp được chuyển đổi, được chuyển đổi từ các nguồn năng lượng sơ
cấp như than đá, khí đốt, dòng nước, gió, mặt trời...
Về nguồn gốc, năng lượng có thể chia ra làm hai loại: năng lượng tái tạo và
năng lượng không tái tạo.
• Năng lượng không tái tạo: là các nguồn năng lượng phải mất một thời gian
dài để hình thành. Hầu hết các nguồn năng lượng không tái tạo là nhiên liệu
hóa thạch than, dầu mỏ, khí tự nhiên) được hình thành nhờ sự phân hủy xác
động thực vật qua hàng triệu năm. Năng lượng hạt nhân( sinh ra từ quặng

phóng xạ uranium) cũng là năng lượng không tái tạo vì trữ lượng uranium
trên trái đất là hữu hạn.
• Năng lượng tái tạo: là các nguồn năng lượng được tạo ra và bổ sung trong
một thời gian ngắn. Chúng có thể không bao giờ cạn kiệt trong vòng vài tỉ
3


năm nữa. Một số nguồn năng lượng tái tạo: từ mặt trời( quang điện), từ
nước( thủy điện), từ gió( phong điện), từ các dòng nước nóng và magma
trong lòng đất( địa nhiệt), từ thủy triều và ngay cả từ chất thải chăn nuôi và
trồng trọt( như biogas)...

2.

Chuyện gì đang xảy ra với năng lượng chúng ta đang sử dụng?
Việt Nam và thế giơi đang đứng trước nguy cơ không đảm bảo về an ninh

năng lượng khi mà nhu cầu tăng nhanh và những nguồn cung truyền thống đang cạn
kiệt dần với tốc độ nhanh chóng. Bên cạnh đó, việc sản xuất và sử dụng nhiên liệu
hóa thạch( NLHT) tạo ra tác động tiêu cực đến sức khỏe, môi trường và xã hội. An
ninh năng lượng là sự đảm bảo năng lượng luôn có sẵn, đầy đủ, dưới nhiều dạng
khác nhau, sạch và rẻ
Thế giới hiện đang phụ thuộc rất nhiều vào nhiên liệu hóa thạch. Năm
2013, dầu mỏ, than đá và khí đốt cung cấp tới 87% tổng năng lượng tiêu thụ trên
toàn cầu. Còn ở Việt Nam, tỷ trọng các loại hình sản xuất điện sử dụng nhiên liệu
hóa thạch chiếm gần một nửa trong hệ thống điện quốc gia( xem hình 1).

Hình 1: tỷ trọng các loại hình sản xuất điện năng trong hệ thống điện Việt Nam( nguồn
Trung tâm Điều độ Hệ thống diện Quốc gia, 2012)


Tuy nhiên, những nguồn năng lượng truyền thống này đang dần cạn kiệt. Trên
thế giới, với tốc độ khai thác và tiêu thụ như hiện nay, ước tính trữ lượng dầu mỏ
4


chỉ còn đủ dùng cho 53 năm, khí thiên nhiên còn khoảng 55 năm và than đá còn 113
năm. Tại Việt Nam, nếu giữ nguyên tốc độ khai thác như hiện nay thì dầu mỏ chỉ
còn 34 năm, khí thiên nhiên còn 63 năm và đặc biệt là tham đá chỉ còn4năm ( xem
hình 2).

53 năm

Dầu
34 năm

55 năm

khí

63 năm

Than
n

113 năm
4 năm

Hình 2. Dự báo trữ lượng dầu mỏ, khí đốt, than đá của thế giới và Việt Nam
( nguồn: BP, 2014)


5


Nhu cầu năng lượng đang không ngừng tăng lên trên thế giới và tại Việt
Nam. Cùng với quá trình tăng dân số, đô thị hóa và phát triển kinh tế, nhu cầu sử
dụng năng lượng đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm vừa qua. Trên thế giới, dự
báo trong vòng 25 năm( 2010- 2035) nhu cầu năng lượng sẽ tăng lên 1,35 lần ( xem
hình 3). Còn ở Việt Nam, riêng về điện năng, nhu cầu sẽ tăng lên 7- 8 lần trong
vòng 20 năm( từ 100 tỉ kWh năm 2010 đến 695- 834 tỉ kWh vào năm 2030) ( xem
hình 4).

Hình 3. Nhu cầu năng lượng thế giới( nguồn: Cơ quan Năng lượng Quốc tế( IEA), 2012)

6


Hình 4. Các lĩnh vực sử dụng năng lượng của Việt Nam giai đọa 2010-2030( nguồn: MPI,
UND nghiên cứu, định hướng các mục tiêu giảm thải khí gây hiệu ứng nhà kính trong năng
lượng và phát triển Việt Nam giai đoạn 2010-2030)

Tình trạng cung không đủ cầu đe dọa an ninh năng lượng tại nhiều khu
vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nguồn than nước không còn đủ cho sản
xuất điện; ước tính cần nhập khẩu khoảng 10- 20 triệu tấn vào năm 2020, 30-32
triệu tấn vào năm 2025 và khoảng 50-65 triệu tấn vào năm 2030. Như vậy Việt Nam
sẽ bị phụ thuộc vào nguồn cung cấp nhiên liệu của nước ngoài. Trong khi đó, giá
nhiên liệu trên thị trường quốc tế liên tục biến động bởi tình hình kinh tế, chính trị,
công nghệ... hệ quả là vấn đề an ninh năng lượng quốc gia sẽ không còn được đảm
bảo.

3.


Những ảnh hưởng của việc khai thác quá mức tài nguyên năng
lượng
Bên cạnh đó, việc khai thác và sử dụng các loại NLHT, đặc biệt là than đang

tác động nghiêm trọng đến môi trường và xã hội. than làm ô nhiễm bầu không
khí chúng ta đang hít thở, nguồn nước chúng ta đang dùng và đất chúng ta đang
sống. Quá trình khai thác và tiêu thụ tan thải vào môi trường một lượng lớn khí
CO2, NO2, SO2, và các hạt bụi phân tử ( PM 2,5), thủy ngân, nhiều kim loại nặng(
chì, cadium, asen...) và các chất độc hại khác. Việc này không chỉ làm ô nhiễm
môi trường mà còn tác động nghiêm trọng tới hệ sinh thái và sức khỏe con
người.

7


Lượng khí thải Carbon Dioxide trên toàn cầu gây ra do quá trình sử
dụng năng lượng: Tổng quan năng lượng năm 2004 (IEO2004) đã dự đoán về sự
phát sinh khí thải CO2 có liên quan tới năng lượng mà như đã nêu trên chủ yếu là
khí thải carbon dioxide do con người gây ra trên toàn cầu. Căn cứ vào những kz
vọng về tăng trưởng kinh tế khu vực và sự lệ thuộc vào nguồn năng lượng hóa
thạch, trong IEO2004 đã cho thấy sự thải khí carbon dioxide trên toàn cầu sẽ tăng
nhanh hơn rất nhiều trong cùng một chu kz so với những năm 1990.

Hình5. Lượng khí thải CO2 của các nước trên thế giới
Các chất NOx và SOx thải vào khí quyển là thành phần chính gây ra mưa
acid, phá hoại mùa màng và làm hỏng các công trình xây dựng. Nước thải từ những
mỏ than chứa acid và các chất gây ô nhiễm đất, từ đó làm ô nhiễm sông hồ, tác
động tới hệ thủy sinh. Khai thác than bằng phương pháp lộ thiên còn xóa sổ haonf
toàn thảm thực vật và lớp đất mặt, gia tăng xói mòn đất và làm mất đi nơi trú ngụ

của nhiều sinh vật. khai thác than bằng phương pháp hầm lò còn gây lún đất, ô
nhiễm nước và nguy cơ xảy ra tai nạn hầm lò.
Còn việc khai thác dầu khí đang tạo ra nhiều vấn đề về môi trường như
ô nhiễm dầu với đất, không khí và nước, rò rỉ giếng khoan, dầu loang, đắm tàu và
các sự cố tràn dầu, nguy cơ lún đất khi khai thác trên thềm lục địa. Ô nhiễm dầu gây
tác hại nghiêm trọng và lâu dài đến hệ sinh thái, làm gián đoạn và ảnh hưởng tới các
hoạt động đánh bắt hải sản, du lịch...năm 2013, vụ loang dầu ở Quy Nhơn, Bình

8


Định đã làm ô nhiễm biển với hơn 50 tấn váng dầu lẫn trong cát được thu gom và
làm chết cá của nhiều hộ nuôi trồng thủy sản trong khu vực.
Ở nhiều nơi, việc quản lý kém tài nguyên như than đá, dầu, khí còn là
nguyên nhân của nghèo đói tham nhũng và xung đột.
Như vậy, đứng trước những nguy cơ không đảm bảo an ninh năng lượng và
các tác động môi trường, xã hội và khí hậu của NLHT chúng ta cần tìm đến những
biện pháp bền vững hơn.

4.

Giải pháp cấp thiết hiện nay

4.1.

Nghị định thư Kyoto về khí hậu
Nhu cầu về năng lượng và cùng với nó là lượng khí thải CO2 và các khí khác

mà ta thường gọi chung là “khí nhà kính” đã và đang tăng lên trong suốt 50 năm
qua. Sự tăng lên của lượng khí nhà kính này sẽ làm cho khí hậu toàn cầu ấm lên và

kéo theo nhiều vấn đề khác liên quan. Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Sự thay đổi
Khí hậu (UNFCCC) họp tại Kyoto tháng 12 năm 1997 đã đưa ra một thỏa thuận
chung về khí hậu nhằm ngăn ngừa việc biến đổi khí hậu, gọi tắt là Nghị định thư
Kyoto.
Theo đó, chậm nhất là vào năm 2012, 38 nước phải cắt giảm ít nhất là 5%
lượng khí thải với năm 1990, riêng Mỹ phải giảm 7% vì nước này chỉ chiếm 6%
dân số Thế giới, nhưng nền sản xuất khổng lồ của họ lại gây ra 25% tổng lượng khí
thải toàn cầu.
Để đạt được mục tiêu cắt giảm khí nhà kính như đã đề ra, các nước trong
Annex I có thể tiến hành việc giám sát sự giảm lượng khí thải trong nước hay
“phương thức linh hoạt”giữa các nước. Nghị định thư Kyoto về khí hậu sử dụng 3
cơ chế linh hoạt “flexible mechanisms”để giúp cho các nước đạt được chỉ tiêu cắt
giảm khí nhà kính bằng một phương thức có hiệu quả thương mại nhất.

9


Hình6. Khối lượng khí thải của các nước EU, Mỹ, Nga, Trung Quốc so với toàn thế giới

Mục tiêu của Kyoto 1997 đó là làm giảm các khí thải độc hại như CO2,
methane,

nitrous

oxide,

hydrofluorocarbons,

perfluorocarbons




sulfur

hexafluoride. Hiện nay thì lượng khí CO2 vẫn chiếm thành phần chủ yếu trong các
loại khí nhà kính ở hầu hết các nước Annex I,tiếp theo sau đó là methane và nitrous
oxide.
Nghị định thư Kyoto sẽ có hiệu lực sau 90 ngày kể từ khi có ít nhất 55 nước
trong đó bao gồm cả các nước nằm trong Annex I,tạo ra tổng cộng 55% lượng khí
nhà kính toàn cầu năm 1990, đặt bút phê chuẩn. Đến cuối năm 2003, 119 nước trên
Thế giới và Liên minh Châu Âu đã thông qua Hiệp định, bao gồm cả Canada, Trung
Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Mexico, New Zealand và Nam Triều Tiên. 31 nước trong
Annex I,thải ra 44,2% tổng lượng khí nhà kính năm 1990, đã đặt bút ký vào bản
Hiệp ước.. Theo nguồn tin ngày 28/7/2005 của BBC, Mỹ cùng 5 nước Châu ÁThái Bình Dương đang dự thảo một Hiệp ước về khí hậu mới để cạnh tranh với
Kyoto 1997, trong đó sẽ có mục chuyển giao công nghệ từ những nước công nghiệp
sang những nước đang phát triển, nhưng các chi tiết của dự thảo này vẫn còn đang
được giữ kín.
4.2.

Giải pháp làm giảm ô nhiễm khi sử dụng năng lượng

10


Nitrogen oxide sinh ra trong quá trình đốt cháy ở nhiệt độ cao như trong quá
trình vận hành xe hơi, máy móc và các nhà máy phát điện.. Để giảm lượng khí độc
hại sinh ra trong quá trình vận tải, một số nước áp dụng công nghệ cao để tạo ra
những loại máy móc hay ô tô đạt tiêu chuẩn cũng như hạn chế hàm lượng
sulfurtrong xăng, dầu để đảm bảo hạn chế đến mức tối đa lượng khí thải. Hầu hết
các nước ở châu Phi, Liên Xô cũ, Trung Đông và Mỹ Latin là vẫn còn dùng xăng

pha chì còn các nước khác, hiện nay đã chuyển sang dùng xăng không pha chì.
Những nước vẫn còn dùng nhiên liệu pha chì thì xăng pha chì là nguyên nhân chủ
yếu chiếm 90% khí thải có chì ở khu vực đô thị.
Thủy ngân là chất tích tụ bền vững trong cơ thể theo thời gian. Cá kiếm, cá
hồi, các loài chim ăn cá và hải cẩu là những loài vật chịu ảnh hưởng nhiều nhất của
việc tích tụ thủy ngân. Mặc dầu thủy ngân có mặt cả ở trên đất liền cũng như ở
ngoài biển nhưng nó thường tập trung nhiều nhất trong hệ sinh thái biển. Chất thải
chứa thủy ngân sinh ra trong quá trình sử dụng năng lượng đang trở thành mối quan
tâm đặc biệt ở các nước công nghiệp. Và như vậy, để tóm tắt lại những gì mà tôi
vừa trình bày chi tiết ở trên, các vấn đề ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu có
thể được giải quyết phần nào nếu như chúng ta lưu ý đến mấy vấn đề sau trong quá
trình sử dụng năng lượng:
• Cố gắng không sử dụng xăng dầu pha chì.
• Kiểm soát và điều khiển lượng chất thải thủy ngân sinh ra trong quá trình sử
dụng năng lượng.


Xây dựng quy chế kiểm sóat các khí thải, sao cho hạn chế tới mức tối đa các
khí thải độc hại.

II. Tài nguyên năng lượng
1.
1.1.

Năng lượng không tái tạo
Năng lượng hóa thạch
Nhiên liệu hóa thạch là các loại nhiên liệu được tạo thành bởi quá trình phân

hủy kỵ khí của các sinh vật chết bị chôn vùi cách đây hơn 300 triệu năm. Các
nguyên liệu này chứa hàm lượng cacbon và hydrocacbon cao.

11


• Than đá: Than đá có nguồn gốc sinh hóa từ quá trình trầm tích thực vật
trong những đầm lầy cổ cách đây hàng trăm triệu năm. Khi các lớp trầm tích
bị chôn vùi, do sự gia tăng nhiệt độ, áp suất, cộng với điều kiện thiếu oxy
nên thực vật (thực vật chứa một lượng lớn cellulose, hợp chất chứa C, O, H)
chỉ bị phân hủy một phần nào. Dần dần, hydro và oxy tách ra dưới dạng khí,
để lại khối chất giàu cacbon là than.
Than là dạng nhiên liệu hóa thạch có trữ lượng phong phú nhất, được tìm
thấy chủ yếu ở Bắc Bán Cầu. Các mỏ than lớn nhất hiện nay nằm ở Mĩ, Nga,
Trung Quốc và Ấn Độ. Các mỏ tương đối lớn ở Canada, Đức, Balan, Nam
Phi, Úc, Mông Cổ, Brazil...Trữ lượng than ở Mĩ chiếm khoảng 23,6% của cả
thế giới.
• Dầu và khí thiên nhiên: có nguồn gốc từ các trầm tích biển giàu xác bã
động thực vật cách đây khoảng 200 triệu năm. Các trầm tích hữu cơ ở điều
kiện chôn vùi thiếu oxy, dưới nhiệt độ 50-250 độ C, áp suất ở độ sâu 2-7 km
theo thời gian tạo nên hỗn hợp hydrocacbob là dầu và khí (ở dãy nhiệt độ cao
hơn và độ sâu sâu hơn dầu).
Phân bố dầu và khí thiên nhiên trên thế giới :Trữ lượng khổng lồ đến 63,2%
lượng dầu của cả thế giới tập trung ở Vịnh Ba Tư, nhất là Ảrập Saudi (thành
viên số 1 của OPEC :Organization of Petroleum Exporting Countries). Các
mỏ dầu quan trọng còn lại khác nằm ở vịnhư Venezuela, Mehico, Nga, Libi
và Mỹ (Alaska và vịnh Mehico).Gần 1/2 (49%) trữ lượng khí thiên nhiên của
thế giới nằm ở 2 nước Nga và Iran. Các mỏ khí thiên nhiên quan trọng khác
nằm ở Các Tiểu Vương Quốc Arap thống nhất, Arap Saudi, Mỹ và
Venezuela.

12



a) Tầm quan trọng
Nhiên liệu hóa thạch có vai trò rất quan trọng bởi vì chúng có thể được dùng
làm chất đốt (bị ôxi hóa thành điôxít cacbon và nước) để tạo ra năng lượng. Việc
sử dụng than làm nhiên liệu đã diễn ra rất lâu trong lịch sử. Than được sử dụng
để nấu chảy quặng kim loại. Khai thác dầu mỏ thương mại, phần lớn là sự thay
thế cho dầu có nguồn gốc động vật (như dầu cá) để làm chất đốt cho các loại đèn
dầu bắt đầu từ thế kỷ 19. Hạn chế và nguyên liệu thay thế
Theo nguyên tắc cung - cầu thì khi lượng cung cấp hydrocacbon giảm thì giá
sẽ tăng. Dù vậy, giá càng cao sẽ làm tăng nhu cầu về nguồn cung ứng năng
lượng tái tạo thay thế, khi đó các nguồn cung ứng không có giá trị kinh tế trước
đây lại trở thành có giá trị để khai thác thương mại. Xăng nhân tạo và các nguồn
năng lượng tái tạo hiện tại rất tốn kém về công nghệ sản xuất và xử lý so với các
nguồn cung cấp dầu mỏ thông thường, nhưng có thể trở thành có giá trị kinh tế
trong tương lai gần.

Hình 7. Lượng phát thải từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch (Nguồn: Tạp chí PNAS)

13


b) Tác động đến môi trường
Ở Hoa Kỳ, có hơn 90%
lượng khí nhà kính thải vào
môi trường từ việc đốt nhiên
liệu hóa thạch.[18] Đốt nhiên
liệu hóa thạch cũng tạo ra các
chất ô nhiễm không khí khác
như các ôxít nitơ, điôxít lưu
huỳnh, hợp chất hữu cơ dễ

bay hơi và các kim loại
Hình 8. Biến động hàm lượng điôxít cacbon trong thời
gian 400.000 năm gần đây cho thấy sự gia tăng của
nó kể từ khi bắt đầu cách mạng công nghiệp.
Canada:"Ngành điện là duy

nặng.Theo Bộ Môi trường

nhất trong số những ngành
công nghiệp trong đóng góp rất lớn của nó vào các phát thải liên quan đến hầu
hết các vấn đề về không khí. Sản xuất điện thải ra một lượng lớn các ôxít nitơ và
điôxít lưu huỳnh tại Canada, tạo ra sương mù và mưa axít và hình thành vật chất
hạt mịn. Nó là nguồn thải thủy ngân công nghiệp lớn nhất không thể kiểm soát
được tại Canada. Các nhà máy phát điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch cũng phát
thải vào môi trường điôxít cacbon, một trong những chất tham gia vào quá trình
biến đổi khí hậu. Thêm vào đó, ngành này có những tác động quan trọng đến
nước, môi trường sống và các loài. Cụ thể, các đập nước và các đường truyền tải
cũng tác động đáng kể đến nước và đa dạng sinh học."
c) Tại việt nam
Tình hình khai thác: Tính đến 1/1/2005 tổng trữ lượng than đã tìm kiếm thăm dò
khoảng 6,14 tỷ tấn. Mỗi chu kỳ kế hoạch 5 năm tổng sản lượng khai thác than tăng
khoảng 1-5 triệu tấn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Tổng trữ lượng dầu khí có thể đưa vào khai thác ở nước ta khoảng 3,8-4,2 tỷ tấn
quy đổi (TOE), trong đó trữ lượng đã được xác định khoảng 60% (1,05 - 1,14
TOE).Khả năng khai thác dầu thô so với năm 2010 dự báo đến năm 2020 sẽ sụt
giảm, còn 16-17 triệu tấn/năm. Đối với khí đốt, khả năng khai thác sẽ tăng, giai
đoạn 2011-2015 sẽ đạt mức từ 10,7 tỷ m3 lên 19 tỷ m3.
14



Kết quả phân tích trữ lượng và tiềm năng dầu khí tính đến 31/12/2004 là 4.300
triệu tấn dầu quy đổi, đã phát hiện 1.208,89 triệu tấn dầu quy đổi chiếm28% tổng tài
nguyên dầu khí ViệtNam, trong đó tổng trữ lượng dầu khí có khả năng thươngmại
là814,7 triệu tấn dầu qui đổi, chiếm 67% tổng tài nguyên dầu khí đã phát hiện. Trữ
lượngphát hiện tính cho các mỏ dầu khí gồmtrữ lượng với hệ số thu hồi dầu khí cơ
bản và hệ số thu hồi bổ sung do áp dụng công nghệ mới gia tăng thu hồi được tính
cho các mỏ đã tuyên bố thương mại, phát triển và đang khai thác được phân bổ như
sau: Trữ lượng dầu và condensat khoảng 420 triệu tấn (18 triệu tấn condensat),
394,7tỷ m3 khí trong đó khí đồng hành 69,9 tỷm3 khí không đồng hành 324,8 tỷ
m3.

Hìn
h 9.
Biể
u đồ

cấu
sản
xuất
năn
g
lượ
ng
Việt Nam 2010 (%)

1.2.

Năng lượng hạt nhân
Năng lượng hạt nhân là một loại công nghệ được thiết kế để tách năng


lượnghữu ích từ hạt nhân nguyên tửthông qua các lò phản ứng hạt nhân có kiểm
soát. Phương pháp duy nhất được sử dụng hiện nay làphân hạch hạt nhân, mặc dù
các phương pháp khác có thể bao gồm tổng hợp hạt nhân và phân rã phóng xạ. Tất
cả các lò phản ứng với nhiều kích thước và mục đích sử dụng khác nhau đều dùng
nước được nung nóng để tạo ra hơi nước và sau đó được chuyển thành cơ năng để

15


phátđiện hoặc tạo lực đẩy. Năm 2007, 14% lượng điện trên Thế giới được sản xuất
từ năng lượng hạt nhân.
a) Nguồn gốc
Phản ứng phân hạch hạt nhân được Enrico Fermi thực hiện hành công vào năm
1934 khi nhóm của ông dùng nơtron bắn phá hạt nhân uranium. Năm 1938, các nhà
hóa học người Đức làOtto Hahn và Fritz Strassmann, cùng với các nhà vật l{ người
Úc Lise Meitner và Otto Robert Frisch đã thực hiện các thí nghiệm tạo ra các sản
phẩm của uranisau khi bị nơtron bắn phá.. Các nhà khoa học tâm đắc điều này ở
một số quốc gia (như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp, Đức và Liên Xô) đã đề nghị
với chính phủ của họ ủng hộ việc nghiên cứu phản ứng phân hạch hạt nhân. Điện
được sản xuất đầu tiên từ lò phản ứng hạt nhân thực nghiệm EBR-I vào ngày 20
tháng 12 năm 1951 tại Arco, Idaho, với công suất ban đầu đạt khoảng 100 kW (lò
phản ứng Arco cũng là lò đầu tiên thí nghiệm về làm lạnh từng phần năm 1955).
b) Sử dụng
Đến năm 2005, năng lượng hạt nhân cung cấp 2,1% nhu cầu năng lượng của Thế
giới và chiếm khoảng 15% sản lượng điện Thế giới, trong khi đó chỉ tính riêngHoa
Kz, Pháp, vàNhật Bản sản lượng điện từ hạt nhân chiếm 56,5% tổng nhu cầu điện
của ba nước này. Đến năm 2007, theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Nguyên
tửQuốc tế (IAEA) có 439 lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động trên Thế giới, thuộc
31 quốc gia.


16


Hình 10. Công suất lắp đặt và phát điện từ năng lượng hạt nhân, 1980 - 2011 (EIA).

Trên phạm vi toàn cầu, việc hợp tác nghiên cứu quốc tế đang tiếp tục triển
khai để nâng cao độ an toàn của việc sản xuất và sử dụng năng lượng hạt nhân như
các nhà máy an toàn bị động, sử dụng phản ứng tổng hợp hạt nhân, và sử dụng nhiệt
của quá trình như trong sản xuất hydro để lọc nước biển, và trong hệ thống sưởi khu
vực. Trên phạm vi toàn cầu, việc hợp tác nghiên cứu quốc tế đang tiếp tục triển khai
để nâng cao độ an toàn của việc sản xuất và sử dụng năng lượng hạt nhân như các
nhà máy an toàn bị động, sử dụng phản ứng tổng hợp hạt nhân, và sử dụng nhiệt của
quá trình như trong sản xuất hydro để lọc nước biển, và trong hệ thống sưởi khu
vực.
c) Triển vọng
Một số quốc gia vẫn duy trì hoạt động phát triển năng lượng hạt nhân như
Pakistan, Nhật Bản, Trung Quốc, và Ấn Độ, tất cả đều đang phát triển công nghệ
nhiệt và nơtron nhanh, Hàn Quốc (Nam Hàn) và Hoa Kz chỉ phát triển công nghệ
nhiệt, Nam Phi và Trung Quốcđang phát triển các phiên bản Lò phản ứng modun
đáy cuội (PBMR). Một số thành viên của Liên minh châu Âu thuyết phục thúc đẩy
các chương trình hạt nhân, trong khi các thành viên khác vẫn tiếp tục cấm sử dụng
năng lượng hạt nhân. Nhật Bản có một chương trình xây dựng lò hạt nhân còn hoạt
17


động với một lò phản ứng mới vào mạng lưới năm 2005. Vào đầu thế kỷ 21, năng
lượng hạt nhân có một sức hấp dẫn đặc biệt đối với Trung Quốc và Ấn Độ theo
công nghệ lò phản ứng breedernhanh vì nguồn năng lượng này giúp họ phát triển
kinh tế một cách nhanh chóng.
d) Lò phản ứng hạt nhân

Cũng giống như một số trạm năng lượng nhiệt phát điện bằng nhiệt năng từ việc
đốt nhiên liệu hóa thạch, các nhà máy năng lượng hạt nhân biến đổi năng lượng giải
phóng từ hạt nhân nguyên tử thông qua phản ứng phân hạch. Khi một hạt nhân
nguyên tử dùng để phân hạch tương đối lớn (thường làurani 235 hoặc plutoni-239)
hấp thụ nơtron sẽ tạo ra sự phân hạch nguyên tử.. Một phần nơtron tự do này sau đó
được hấp thụ bởi các nguyên tử phân hạch khác và tiếp tục tạo ra nhiều nơtron hơn.
Đây là phản ứng tạo ra nơtron theo cấp số nhân. Phản ứng dây chuyền hạt nhân này
có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng chất hấp thụ nơtron và bộ đều hòa nơtron
để thay đổi tỷ lệ nơtron tham gia vào các phản ứng phân hạch tiếp theo. Các lò phản
ứng hạt nhân hầu hết có các hệ thống vận hành bằng tay và tự động để tắt phản ứng
phân hạch khi phát hiện các điều kiện không an toàn.
e) Những sự cố đã xảy ra
Ngày 26 tháng 4 năm 1986, lò phản ứng số 4 của nhà máy điện nguyên
tửChernobylphát nổ, gây ra một loạt vụ nổờ các lò phản ứng khác, làm tan chảy lõi
lò phản ứng hạt nhân. Đây là sự cố hạt nhân trầm trọng nhất trong lịch sử. Do không
có tường chắn nên các đám mây bụi phóng xạ bay lên bầu trời và lan rộng ra nhiều
khu vực phía tây Liên bang Xô Viết, một số nướcĐông Âu và Tây Âu, Anh và phía
đông Hoa Kz. Thảm hoạnày phát ra lượng phóng xạ lớn gấp bốn trăm lần so với quả
bom nguyên tử được ném xuốngHiroshima. Sau thảm họa, hàng loạt các vấn đề về
ô nhiễm môi trường cũng như về sức khỏe đe dọa người dân.
Gần đây nhất, ngày 11 tháng 3, 2011, sau trận thảm họa động đất và sóng
thần Sendai 2011, nhà máy điện hạt nhân Fukushima gặp hàng loạt các vấn đề đối
với các lò phản ứng và rò rỉ phóng xạ gây ra sự cố nhà máy điện Fukushima I. Tình
trạng ô nhiễm phóng xạngày càng cao. Tuy không có người tửvong tại chỗ, nhưng
nó gây nhiều lo ngại về sức khỏe của con người trong khu vực bị ảnh hưởng sau
18


này. Dự kiến phải mất vài năm để sửa chữa nhà máy và vài tháng để khử sạch
phóng xạ.

f) Ở Việt Nam
Việt Nam bước vào chương trình Điện hạt nhân trong bối cảnh cơ sở hạ tầng
cho việc thực hiện dự án nhà máy điện hạt nhân như nguồn nhân lực, nguồn tài
chính…ở trình độ phát triển thấp. Theo Bộ trưởng Nguyễn Quân, Việt Nam đã
quyết tâm xây dựng các nhà máy điện hạt nhân dân sự vì mục đích hòa bình, an
toàn cho con người, môi trường đảm bảo an ninh năng lượng. Đến năm 2020, khi tổ
máy đầu tiên có công suất 1.000 MW hoạt động thì chỉ đảm bảo 1,6% tồng sản
lượng điện quốc gia và đến năm 2030 khi 10 tổ máy đi vào hoạt động với công suất
trên 10 nghìn MW thì điện hạt nhân cũng mới chỉ đảm bảo khoảng hơn 6% tổng sản
lượng điện quốc gia. Như vậy, Việt Nam vẫn phụ thuộc trên 90% sản lượng điện từ
các nguồn truyền thống như nhiệt điện, thủy điện và một phần nhỏ từ các nguồn
năng lượng tái tạo như điện mặt trời, sóng biển, năng lượng gió…. Các hoạt động
như hội thảo, triển lãm giáo dục và đào tạo, trao đổi thông tin và kinh nghiệm về
điện hạt nhân với sự hỗ trợ của IAEA và các quốc gia có điện hạt nhân đã được tiến
hành. Trong năm 2013, sẽ báo cáo khả thi và phê duyệt địa điểm cho nhà máy điện
hạt nhân Ninh Thuận 1 và nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 và dự kiến sau năm
2015 sẽ khởi công xây dựng.

2.
2.1.

Năng lượng tái tạo
Năng lượng từ mặt trời
Trái đất nhận được 174 petawatts (PW) từ bức xạmặt trời, khoảng 30% được

phản xạ trở lại không gian trong khi phần còn lại được hấp thụ bởi các đám mây,
đại dương và vùng đất. Bề mặt Trái đất, biển và bầu không khí hấp thụ bức xạ mặt
trời, và điều này làm tăng nhiệt độ của chúng. Không khí ấm có chứa nước bốc hơi
từ các đại dương tăng lên, gây ra lưu thông khí quyển hoặc đối lưu. Tiềm ẩn nhiệt
ngưng tụ nước khuếch đại đối lưu, sản xuất các hiện tượng khí quyển như gió, bão

và. Ánh sáng mặt trời bị hấp thụ bởi các đại dương và các vùng đất giữbề mặt ở
nhiệt độ trung bình là 14 °C. Bằng cách quang hợp cây xanh chuyển đổi năng lượng
mặt trời vào năng lượng hóa học, trong đó sản xuất thực phẩm, gỗ và sinh khối từ
nhiên liệu có nguồn gốc hóa thạch.
19


a) Có những loại năng lượng nào thu được từ mặt trời?
-

Nhiệt mặt trời: Công nghệ nhiệt mặt trời có thể được sử dụng cho đun nước
nóng, sưởi ấm.

-

Điện mặt trời

-

Hóa học năng lượng mặt trời

-

Xe năng lượng mặt trời

b) Phương pháp lưu trữ năng lượng
Năng lượng mặt trời có thể được lưu trữ ở nhiệt độ cao bằng cách sử dụng muối
nóng chảy. Muối là một phương tiện lưu trữ có hiệu quả bởi vì chúng có chi phí
thấp, có nhiệt dung riêng cao và có thể cung cấp nhiệt ở nhiệt độ tương thích với
các hệ thống điện thông thường. Solar Two sử dụng phương pháp lưu trữ năng

lượng này, cho phép nó lưu trữ 1,44 TJ trong bể chứa 68 m3 của nó với một hiệu
quả lưu trữ hàng năm khoảng 99%.
Các hệ thống PV không nối lưới có truyền thống sử dụng pin sạc được để lưu trữ
điện dư thừa. Với các hệ thống nối lưới, điện dư thừa có thể được gửi
đến lưới truyền tải, trong khi điện lưới tiêu chuẩn có thể được sử dụng để đáp ứng
thiếu hụt. Các chương trình Đo đếm điện trong mạng cung cấp cho hộ gia đình một
tín dụng cho bất kỳ điện năng nào mà họ cung cấp cho lưới điện. Điều này thường
được xử lý một cách hợp pháp bằng cách "lăn trở lại" đồng hồ đếm điện bất cứ khi
nào ngôi nhà sản xuất điện nhiều hơn so với tiêu thụ. Nếu việc sử dụng điện lưới là
dưới số không, công ty tiện ích được yêu cầu phải trả tiền cho thêm theo tỷ lệ tương
tự như họ tính phí người tiêu dùng. Phương pháp tiếp cận pháp lý khác liên quan
đến việc sử dụng hai đồng hồ đếm điện, để đếm điện tiêu thụ so với điện được sản
xuất. Điều này ít phổ biến hơn do chi phí lắp đặt tăng lên của đồng hồ thứ hai.
c) Phát triển, triển khai và kinh tế
Bắt đầu với việc tăng sử dụng than đi kèm với Cách mạng công nghiệp,tiêu
thụ năng lượng đã dần dần chuyển từgỗ và sinh khối về nhiên liệu hóa thạch. Sự
phát triển sớm của các công nghệ năng lượng mặt trời bắt đầu vào những năm 1860
được thúc đẩy bởi một kz vọng rằng than sẽ sớm trở nên khan hiếm. Tuy nhiên,
phát triển các công nghệ năng lượng mặt trời trì trệ trong những năm đầu thế kỷ 20
khi đối mặt với sựsẵn có ngày càng tăng, tính kinh tế.
20


Phát triển trong lĩnh vực nước nóng năng lượng mặt trời tiến triển đều đặn
trong suốt những năm 1990 và tỷ lệ tăng trưởng trung bình 20% mỗi năm kể từ năm
1999. Mặc dù thường bị đánh giá thấp, đun nước nóng và làm mát năng lượng mặt
trời đến nay là công nghệ năng lượng mặt trời được triển khai rộng rãi nhất với
công suất ước tính khoảng 154 GW năm 2007.
d) Tại Việt Nam
Vị trí địa đã ưu ái cho Việt Nam một nguồn năng lượng tái tạo vô cùng lớn,

đặc biệt là năng lượng mặt trời. Trải dài từ vĩ độ 23023’ Bắc đến 8027’ Bắc, Việt
Nam nằm trong khu vực có cường độ bức xạ mặt trời tương đối cao. Trong đó,
nhiều nhất phải kể đến thành phốHồ Chí Minh, tiếp đến là các vùng Tây Bắc (Lai
Châu, Sơn La, Lào Cai) và vùng Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh)…
Theo ông Nguyễn Đức Cường – Phụ trách Trung tâm Năng lượng tái tạo và
CDM - Viện Năng lượng (EVN), “rào cản” lớn nhất của vấn đề này bắt nguồn từ
kinh phí. Dù năng lượng mặt trời ở dạng “nguyên liệu thô”, nhưng chi phí đầu tư để
khai thác, sử dụng lại rất cao do công nghệ, thiết bị sản xuất đều nhập từ nước
ngoài. Phần lớn những dự án điện mặt trời đã và đang triển khai đều sử dụng nguồn
vốn tài trợ hoặc vốn vay nước ngoài. Do đó, mới chỉ có một vài tổ chức, viện
nghiên cứu và các trường đại học tham gia, còn phía doanh nghiệp, cá nhân vẫn
chưa “mặn mà” với việc ứng dụng, sản xuất cũng như sử dụng các thiết bị năng
lượng mặt trời.
2.2.

Năng lượng gió
Năng lượng gió là động năng của không khí di chuyển trong bầu khí quyển

Trái Đất. Năng lượng gió là một hình thức gián tiếp của năng lượng mặt trời. Sử
dụng năng lượng gió là một trong các cách lấy năng lượng xa xưa nhất từ môi
trường tự nhiên và đã được biết đến từ thời kz Cổ đại.
a) Sự hình thành năng lượng gió
Bức xạ Mặt Trời chiếu xuống bề mặt Trái Đất không đồng đều làm cho bầu
khí quyển, nước và không khí nóng không đều nhau. Một nửa bề mặt của Trái Đất,
mặt ban đêm, bị che khuất không nhận được bức xạ của Mặt Trời và thêm vào đó là
bức xạ Mặt Trời ở các vùng gần xích đạo nhiều hơn là ở các cực, do đó có sự khác
21


nhau về nhiệt độ và vì thế là khác nhau về áp suất mà không khí giữa xích đạo và 2

cực cũng như không khí giữa mặt ban ngày và mặt ban đêm của Trái Đất di động
tạo thành gió. Trái Đất xoay tròn cũng góp phần vào việc làm xoáy không khí và vì
trục quay của Trái Đất nghiêng đi (so với mặt phẳng do quỹ đạo Trái Đất tạo thành
khi quay quanh Mặt Trời) nên cũng tạo thành các dòng không khí theo mùa.
b) Sử dụng năng lượng gió
Năng lượng gió đã được sử dụng từ hằng trăm năm nay. Con người đã dùng
năng lượng gió để di chuyển thuyền buồmhay khinh khí cầu , ngoài ra năng lượng
gió còn được sử dụng để tạo công cơ học nhờ vào các cối xay gió .
Ý tưởng dùng năng lượng gió để sản xuấtđiện hình thành ngay sau các phát
minh ra điện và máy phát điện. Lúc đầu nguyên tắc của cối xoay gió chỉ được biến
đổi nhỏ và thay vì là chuyển đổi động năng của gió thành năng lượng cơ học thì
dùng máy phát điện để sản xuất năng lượng điện. Khi bộmôn cơ học dòng chảy tiếp
tục phát triển thì các thiết bị xây dựng và hình dáng của các cánh quạt cũng được
chế tạo đặc biệt hơn.
c) Sản xuất điện từ năng lượng gió
Vì gió không thổi đều đặn nên năng lượng điện phát sinh từ các tuốc bin gió
chỉ có thể được sử dụng kết hợp chung với các nguồn năng lượng khác để cung cấp
năng lượng liên tục. Tại châu Âu , các tuốc bin gió được nối mạng toàn châu Âu,
nhờ vào đó mà việc sản xuất điện có thể được điều hòa một phần. Một khảnăng
khác là sửdụng các nhà máy phát điện có bơm trữ để bơm nước vào các bồn chứa ở
trên cao và dùng nước để vận hành tuốc bin khi không đủ gió. Xây dựng các nhà
máy điện có bơm trữ này là một tác động lớn vào thiên nhiên vì phải xây chúng trên
các đỉnh núi cao.
Mặt khác vì có ánh sáng Mặt Trời nên gió thổi vào ban ngày thường mạnh
hơn vào đêm và vì vậy mà thích ứng một cách tự nhiên với nhu cầu năng lượng
nhiều hơn vào ban ngày. Công suất dự trữ phụ thuộc vào độ chính xác của dự báo
gió, khả năng điều chỉnh của mạng lưới và nhu cầu dùng điện. (Đọc thêm thông tin
trong bài tuốc bin gió ).

22



×