Gợi ý chính sách và giải pháp cho Việt Nam trong APSC những năm tới
1. Một số kiến nghị mang tính định hướng
Thứ nhất, do tầm quan trọng khá đặc biệt của APSC đối với duy trì, củng cố
an ninh và phát triển của Việt Nam, nên Việt Nam bằng mọi cách, huy động các
nguồn tiềm lực để hiện thức hóa APSC vào năm 2015 và tiếp theo là hoàn thiện
cộng đồng này sau đó theo hướng tăng cường hội nhập chính trị và luật pháp, tạo
nên một định chế đủ mạnh để ngăn ngừa và giải quyết xung đột có chiều hướng leo
thang tại khu vực này. Chính vì vậy cả sau 2015 vẫn coi AC nói chung, APSC nói
riêng là một trong những trụ cột của chính sách đối ngoại. Cụ thể là cần thiết có
những văn kiện chỉ đạo phát triển quan hệ toàn diện với ASEAN và các nước thành
viên.
Thứ hai, Việt Nam cần chủ động đề xuất các giải pháp, đưa ra các sáng kiến
nhằm bổ sung, hoàn thiện mô hình của APSC sau 2015 theo hướng định chế, ràng
buộc về mặt pháp luật và chế tài xử lý các trường hợp vi phạm. Cụ thể là rà soát lại
bản hiến chương ASEAN, loại bỏ những điểm mâu thuẫn, chồng chéo về nguyên
tắc và định hướng các hoạt động, điều chỉnh, bổ sung các định chế, trong đó cần
xem xét lại và điều chỉnh nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp và chủ nghĩa
tiệm tiến cho phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Bên cạnh đó nên mạnh
dạn đề xuất biến Hội đồng tối cao TAC thành Tòa án ASEAN.
Thứ ba, trong khi tiến hành các giải pháp đồng bộ thúc đẩy APSC, cần chọn
lọc và ưu tiên tham gia của Việt Nam vào giải quyết các vấn đề mà Việt Nam có
lợi ích sống còn và có thế mạnh như vấn đề Biển Đông và sông Mê Công. Các
nước ASEAN đang chăm chú theo dõi bản lĩnh của Việt Nam trong hai vấn đề này.
Hơn nữa đã đến lúc cần chủ động thúc đẩy hợp tác và đối thoại về an ninh truyền
thống, trong đó có an ninh – quốc phòng, kể cả đề xuất về tập trận chung.
Thứ tư, để thúc đẩy các quá trình trên, Việt Nam cần tranh thủ tối đa các
diễn đàn, cơ chế hợp tác đa phương, song phương, cả chính thức và phi chính thức
khác nhau mà Việt Nam đang có ngoài ASEAN. Điều này sẽ làm cho Việt Nam có
thêm “không gian co dãn” trong chính sách, giảm bớt áp lực từ phía các nước lớn
và tăng tiếng nói của Việt Nam trong ASEAN.
Thứ năm, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan, bộ, ngành
của Việt Nam trong việc thực hiện hóa APSC. Tình trạng thiếu thông tin, sự khép
kín của các cơ quan chức năng, thiếu kết hợp đồng bộ giữa các nhà quản lý, thực
thi nhiệm vụ với giới nghiên cứu bước đầu đã được cải thiện, nhưng vẫn còn là vấn
đề tồn tại.
2. Một số kiến nghị mang tính giải pháp cụ thể
a) Các giải pháp chính liên quan đến các vấn đề chính trị, an ninh phức tạp, gai
góc đang nổi lên
Trước hết là vấn đề Biển Đông, mặc dù trong DOC, Hướng dẫn DOC và
Tuyên bố 10 năm DOC luôn nhấn mạnh đến việc tuân thủ Công ước về Luật Biển
năm 1982 và kêu gọi các bên liên quan giữ nguyên trạng tranh chấp, không làm
phức tạp thêm tình hinh, nhưng trong thực tế các cam kết chính trị trên đã bị vi
phạm nghiêm trọng. Việc Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 45 đã không đưa
ra đực một thông cáo chung và sự do dự, trì hoãn từ phía Trung Quốc trong việc
đàm phán COC cũng như bước thỏa hiệp mới, nội dung sáo mòn trong nguyên tắc
6 điểm về Biển Đông đưa ra sau Hội nghị AMM 45 va trong Tuyên bố 10 năm
DOC tại Hội nghị Cấp cao ASEAN – Trung Quốc tháng 11 năm 2012 vừa qua tại
Campuchia đang báo hiệu một tương lai khó xác định về hiện thực hóa và tính màu
nhiệm của COC.1 Có thể nói, sự chia rẽ trong ASEAN và chính sách “chia để trị”
của các thế lực bên ngoài cũng như sự gia tăng xung đột và cạnh tranh chiến lược
giữa các bên liên quan đến Biển Đông có khả năng làm suy yếu vai trò của
ASEAN trong giải quyết tranh chấp, trước hết là ngăn ngừa xung đột tại Biển
Đông. Điều này không chỉ làm giảm vai trò của ASEAN trong một cấu trúc an
ninh khu vực mới đang hình thành, mà tác động xấu dến quá trình hiện thực hóa
APSC. Chính vì vậy, ASEAN nói chung, Việt Nam, nước có lợi ích sống còn ở
Biển Đông nói riêng, hơn lúc nào hết phải có quyết tam và trách nhiệm chính trị
cao để sớm có một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông, trong đó các quy định chặt
chẽ, cụ thể mang tính ràng buộc về mặt pháp lý. Để đạt được mục tiêu này, Việt
Nam cần các nỗ lực mới sau:
Về mặt nhận thức và chủ trương:
Việt Nam hơn lúc nào hết coi việc tham gia giải quyết tranh chấp Biển Đông, trước
hết là bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình tại vùng
-
1 Ngay cả trong Tuyên bố 10 năm DOC cũng không đề cập đến việc đàm phán COC. Ngay cả danh từ Biển Đông
cũng không được nhắc đến trong Tuyên bố chung của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 21.
biển này là lợi ích sống còn, là trách nhiệm chính trị cao cả không chỉ đối với dân
tộc mà còn là vận mệnh, thành bại của APSC với đúng nghĩa của nó. Nói một cách
khác, sự gắn kết số phận của Việt Nam và các nước ASEAN khác cũng như khẳng
định vị thế của nước ta trong ASEAN phụ thuộc sâu sắc vào tính chủ động, sự
khôn khéo của Việt Nam trong đề xuất các giải pháp và triển khai chính sách đối
với Biển Đông. Có thể nói đây không chỉ là phép thử của Việt Nam trong duy trì
hòa bình, giữ vững chủ quyền và lợi ích của Việt Nam, mà còn là thách thức có
tính bước ngoặt đối với hiện thực hóa APSC và sự phát triển của cộng đồng này
sau 2015.
Bên cạnh bảo vệ lợi ích chính đáng của mình ở Biển Đông và sử dụng vấn đề Biển
Đông để nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam ở khu vực, củng cố sự đoàn kết
trong ASEAN mà quá trình này còn giúp Việt Nam thúc đẩy quan hệ tổng thể với
các nước ở bên ngoài khu vực cùng chia sẻ lợi ích, nhất là với Mỹ, Nhật Bản, Ấn
Độ, Australia, Nga,..
Cần quán triệt chủ trương là giải quyết tranh chấp Biển Đông là nhằm bảo vệ vững
chắc chủ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam, duy trì môi trường hòa bình
cho phát triển đất nước và khu vực, thúc đẩy APSC tiến về phía trước và giải quyết
các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản
của Hiến chương Liên hợp quốc, Luật Biển năm 1982 và DOC năm 2002, đồng
thời tiến tới COC.
- Về triển khai hành động:
Việt Nam cần phải đi đầu thúc đẩy tiến trình COC, tiếp tục, chủ động hoàn thiện
“Tài liệu Quan điểm của ASEAN về các thành tố cần có của COC” và tìm cách
vận động các nước ASEAN nhanh chóng đề nghị Trung Quốc đàm phán về bộ quy
tắc ứng xử này càng sớm càng tốt, không để kéo dài trong nhiều năm. Việc sớm
khởi động đàm phán về COC sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các bên, trước hết là
Việt Nam. Nếu như Trung Quốc còn do dự, đợi tới “thời điểm chín muồi”, thì Việt
Nam nên vận động hành lang với các nước khác, gây “sức ép” đề nghị ASEAN
chủ động tự thông qua một văn kiện kiểu giống COC cho chính mình như đã ký
TAC trước đây, từ đó làm nền tảng, thúc đẩy cho sự ra đời một COC giữa ASEAN
và Trung Quốc.
Để thúc đẩy quá trình trên, Việt Nam, một mặt cần xem xét, xác định rõ hơn vềchủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình ở Biển Đông theo luật quốc
tế, mặc khác chủ động đề xuất và tổ chức các cuộc đàm phán với các nước ASEAN
khác có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông để đưa ra (Hết trang 203)