Tải bản đầy đủ (.pdf) (1,595 trang)

Shogun Tướng Quân Cuối cùng james clavell (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.39 MB, 1,595 trang )


Shogun Tướng Quân
James Clavell
Chia sẻ ebook:
Follow us on Facebook: />

Table of Contents
SHOGUN
Tập 1
Tập 2
Tập 3
Cuối mục lục
SHOGUN - TẬP 1
CHƯƠNG 01
CHƯƠNG 02
CHƯƠNG 03
CHƯƠNG 04
CHƯƠNG 05
CHƯƠNG 06
CHƯƠNG 07
CHƯƠNG 08
CHƯƠNG 09
CHƯƠNG 10
CHƯƠNG 11
CHƯƠNG 12
CHƯƠNG 13
CHƯƠNG 14
CHƯƠNG 15
CHƯƠNG 16
CHƯƠNG 17
CHƯƠNG 18


CHƯƠNG 19
CHƯƠNG 20
CHƯƠNG 21
CHƯƠNG 22
CHƯƠNG 23
CHƯƠNG 24
CHƯƠNG 25
SHOGUN - TẬP 2
CHƯƠNG 26
CHƯƠNG 27
CHƯƠNG 28
CHƯƠNG 29
CHƯƠNG 30
CHƯƠNG 31
CHƯƠNG 32
CHƯƠNG 33
CHƯƠNG 34


CHƯƠNG 35
CHƯƠNG 36
CHƯƠNG 37
CHƯƠNG 38
CHƯƠNG 39
CHƯƠNG 40
CHƯƠNG 41
CHƯƠNG 42
CHƯƠNG 43
CHƯƠNG 44
CHƯƠNG 45

SHOGUN - TẬP 3
CHƯƠNG 46
CHƯƠNG 47
CHƯƠNG 48
CHƯƠNG 49
CHƯƠNG 50
CHƯƠNG 51
CHƯƠNG 52
CHƯƠNG 53
CHƯƠNG 54
CHƯƠNG 55
CHƯƠNG 56
CHƯƠNG 57
CHƯƠNG 58
CHƯƠNG 59
CHƯƠNG 60
CHƯƠNG 61
Hết


SHOGUN - TẬP 1


CHƯƠNG 01

Blackthorne đột nhiên tỉnh dậy. Trong một giây lát, anh tưởng mình đang nằm mơ vì anh
đang ở trên bờ và căn phòng anh nằm không thể nào tin được. Nó nhỏ, rất sạch và trải bằng
chiếu mềm, anh đang nằm trên một chiếc chăn dày và một chiếc khác đắp qua người. Trần
nhà bằng gỗ tuyết tùng nhẵn bóng, tường là những lát gỗ tuyết tùng vuông , phủ bằng giấy
mờ để làm nhạt ánh sáng một cách dễ chịu. Bên cạnh anh, một chiếc khay màu đỏ thắm để

những chiếc bát nhỏ. Một bát đựng rau luộc, anh ăn ngấu nghiến, hầu như không để ý đến
cái vị cay của nó. Bát kia đựng canh cá và anh cũng húp cạn luôn. Một bát nữa đựng đầy
cháo bột mỳ hay lúa mạch đặc quánh và anh cũng kết thúc nó nhanh chóng bằng cách ăn
bốc. Nước ở trong cái bầu hình thù kỳ quặc, ấm và có vị là lạ, hơi đắng nhưng thơm.
Rồi anh để ý cây thánh giá đặt trong hốc tường.
"Nhà của người Spain hay Portugal?"
(Spain: Tây Ban Nha, Portugal: Bồ Đào Nha)
Anh suy nghĩ, kinh hoàng.
"Của người Nhật hay Cathay?"
(Cathay: tên cổ để gọi người Trung Quốc)
Tấm cửa lùa bằng gỗ trên tường được kéo ra. Một người đàn bà trung niên, to béo, mặt
tròn, quỳ gối bên cửa, bà cúi chào và mỉm cười. Nước da bà màu vàng, đôi mắt đen và hẹp,
mớ tóc đen dài của bà búi gọn ghẽ trên đầu Bà ta mặc chiếc áo dài lụa màu xám, đi tất trắng
ngắn, đế dày, một băng vải màu tím quấn quanh lưng.
"GoshujinSama, gokibun waikaga desu ka?"
bà ta nói. Bà ta đợi trong khi anh ngó ngơ ngác, rồi nhắc lại.


"Đây là người Nhật?" anh hỏi.
"Người Nhật hay Cathay?"
Bà ta nhìn anh không hiểu và cũng nói một câu gì khác anh không hiểu. Rồi anh nhận ra
mình trần truồng. Quần áo của anh không thấy đâu. Bằng ngôn ngữ cử chỉ, anh ra hiệu
muốn mặc quần áo. Rồi anh chỉ vào những bát thức ăn, bà ta hiểu anh vẫn còn đói.
Bà ta mỉm cười, cúi chào và kéo cánh cửa lại.
Anh nằm xuống, kiệt sức. Sự bất động khó chịu nôn nao của sàn nhà làm đầu óc anh quay
cuồng. Anh cố gắng hồi tưởng lại. Mình nhớ là đã đưa neo ra cho Vinck. Mình nghĩ đúng là
Vinck. Bọn mình đang ở trong vịnh, con tàu húc mũi vào một vũng nước cạn và dừng lại.
Bọn mình có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ bờ nhưng mọi sự đều yên ổn. Có ánh đèn trên bờ,
rồi mình ở trong ca bin và đêm tối. Mình không nhớ gì hết. Rồi có ánh đèn xuyên qua màn
đêm và những tiếng nói lạ. Mình nói tiếng Anh, rồi tiếng Bồ. Một người dân sở tại nói một ít

tiếng Bồ. Hay anh ta là người Portugal nhỉ? Không, mình nghĩ anh ta là dân sở tại. Không
biết mình có hỏi anh ta mình ở đâu không nhỉ? Mình không nhớ. Rồi bọn mình lại trở lại
vũng nước, một đợt sóng lớn xô lên , mình bị cuốn ra biển và chìm - lạnh buốt - không, biển
ấm và giống một chiếc giường lụa dày chừng hai mét. Chắc họ khiêng mình lên bờ và để
mình ở đây.
"Hẳn nó là cái giường này đây, mềm và ấm đến thế", anh nói to
"Trước đây mình chưa bao giờ ngủ trên lụa." Sự yếu đuối trùm lên anh và anh ngủ thẳng
một mạch không mộng mị.
Khi thức dậy, có nhiều thức ăn hơn trong những chiếc bát sành và quần áo của anh xếp gọn
ghẽ bên cạnh. Chúng đã được giặt, là và được vá bằng những đường khâu nhỏ thẳng tắp.
Nhưng dao của anh không còn và cả chùm chìa khóa nữa.
Mình phải kiếm ngay một con dao, anh nghĩ - hoặc một khẩu súng.
Mắt anh nhìn lên cây thánh giá. Mặc dù đang kinh hãi, sự kích động của anh dồn lên. Suốt
đời mình, anh đã nghe nói đến những huyền thoại do những hoa tiêu và những thủy thủ kể
về sự giàu có không thể tưởng tượng được của vương quốc bí mật Portugal ở phương Đông.


Người ta đã cải đạo, làm cho những người ngoại đạo đi theo công giáo, điều khiển, khống
chế họ. Ở đây vàng rẻ như gang, ngọc lục bảo, hồng thạch, kim cương, sa phia nhiều như sỏi
trên bờ biển.
Nếu cái chuyện công giáo mà đúng, anh tự nhủ, thì có lẽ những chuyện còn lại cũng đúng.
Về sự giàu có ấy. Đúng. Nhưng mình được vũ trang và được quay về tàu Erasmus, đứng sau
khẩu pháo của nó sớm chừng nào tốt chừng ấy.
Anh ăn ngấu nghiến , mặc quần áo, đứng lắc lư, thấy mình lạc lõng như anh luôn cảm thấy
khi ở trên bờ. Đôi ủng của anh đã mất. Anh đi ra cửa, người hơi lảo đảo, một tay đưa ra phía
trước để giữ thăng bằng, nhưng những thanh gỗ vuông mỏng không chịu được sức nặng
của anh, chúng lung lay, giấy rách ra. Anh thẳng người lên. Người đàn bà đứng ngây ngoài
hành lang ngước mắt nhìn anh trân trân.
"Tôi xin lỗi" , anh nói, lúng túng lạ lùng về sự vụng về của mình. Sự trong trắng của căn
phòng bị hoen ố đi chút ít.

"Giày của tôi đâu?"
Người đàn bà nhìn anh ngơ ngác. Anh kiên nhẫn hỏi lại bằng cử chỉ. Bà ta rẽ vào một lối
nhỏ, quỳ xuống và kéo một cánh cửa gỗ khác, ra hiệu gọi anh. Có tiếng người nói ở gần và
tiếng nước chảy. Anh đi qua cửa và thấy mình ở trong một phòng khác, gần như không có
đồ đạc gì. Phòng này mở ra một hàng hiên có những bậc dẫn tới khu vườn nhỏ có tường cao
bao quanh. Bên cạnh lối vào chính này có hai người đàn bà già, ba đứa trẻ mặc áo dài màu
đỏ tươi và một ông già rõ ràng là người làm vườn, tay cầm cào cỏ. Ngay lập tức tất cả đều
cúi chào trịnh trọng, đầu cúi thấp.
Blackthorne ngạc nhiên thấy ông già gần như trần truồng, chỉ có một cái khố nhỏ xíu hầu
như không che nổi chỗ kín của mình.
"Xin chào", anh nói với họ.
Họ đứng bất động, đầu vẫn cúi.
Bàng hoàng, anh nhìn họ, rồi cúi chào một cách vụng về. Tất cả đều thẳng người lên và
mỉm cười với anh. Ông già cúi chào một lần nữa và quay lại làm việc trong vườn. Lũ trẻ nhìn


anh chằm chằm rồi cười và chạy tóe đi. Người đàn bà già biến vào tít sâu trong nhà. Nhưng
anh vẫn cảm thấy cặp mắt họ dõi nhìn anh.
Anh nhìn thấy đôi ủng của mình đặt ở cuối bậc thềm. Trước khi anh kịp cầm nó lên, người
đàn bà đứng tuổi đã quỳ xuống, trước sự bối rối của anh, giúp anh đi giày.
"Cám ơn", anh nói. Anh suy nghĩ một lúc rồi chỉ vào mình :
"Blackthorne" , anh nói thong thả,
"Blackthorne." Rồi anh chỉ vào bà ta :
"Tên bà là gì?"
Bà ta nhìn anh không hiểu.
"Blackthorne"
Anh nhắc lại một cách cẩn thận, chỉ vào mình rồi lại chỉ vào bà ta.
"Tên bà là gì?"
Bà ta chau mày, rồi chợt hiểu, bà ta chỉ vào người và nói :
"Onna! Oana!"

"Onna!" anh nhắc lại, tự hào về mình cũng như bà ta tự hào về mình.
"Onna."
Bà ta gật đầu sung sướng:
"Onna!."
Khu vườn không giống bất cứ một cái gì anh đã từng nhìn thấy: một thác nước nhỏ, một
dòng suối, một cây cầu nhỏ, một lối đi rải sỏi tỉa tót, đá hoa và những bụi cây. Nó sạch sẽ
quá, anh nghĩ thế. Sạch sẽ quá.
"Không thể tin được.", anh nói.
"Ko…tin…da…?" Bà ta ướm lại.


"Không có gì", anh nói. Rồi không biết làm gì nữa anh ra hiệu để bà ta đi. Ngoan ngoãn, bà
ta cúi chào lễ phép và bước đi.
Blackthorne ngồi trong ánh nắng ấm áp, tựa mình vào một chiếc cột. Cảm thấy mình còn
rất yếu , anh ngắm nhìn ông già rẫy cỏ trong khu vườn đã sạch. Không hiểu những người
khác ở đâu? Hạm trưởng còn sống không? Mình ngủ bao nhiêu ngày? Mình nhớ mình đã
thức dậy, ăn và ngủ lại, ăn không được thoải mái như trong những giấc mơ.
Trẻ con líu ríu đuổi nhau chạy qua. Anh thấy lúng túng thay cho chúng vì sự trần truồng
của người làm vườn, bởi khi ông ta nghiêng người hoặc cúi xuống thì người ta nhìn thấy tất
cả. Anh ngạc nhiên khi thấy lũ trẻ tỏ ra không để ý gì hết. Anh nhìn thấy những mái ngói và
mái gianh của những tòa nhà khác bên ngoài tường và xa xa là những dãy núi cao. Một cơn
gió hanh khô lướt qua bầu trời xô đẩy những đám mây chuyển động. Ong đang làm mật và
đây là một ngày xuân tuyệt đẹp. Cơ thể anh đòi được ngủ nữa nhưng anh cố vươn thẳng
người và đi ra cửa vườn. Người làm vườn mỉm cười, cúi chào, chạy tới mở cửa, rồi lại cúi
chào và khép cửa lại.
Xóm làng trải quanh bến cảng hình lưỡi liềm trông về phía Đông. Hơn hai trăm nóc nhà
không giống bất cứ ngôi nhà nào anh đã từng trông thấy, nép vào nhau ở đầu mỏm núi tỏa
xuống bờ biển. Phía trên là những thửa ruộng vuông vức ,với những con đường bụi bặm
dẫn về phía Bắc và phía Nam. Bên dưới, khu cảng rải đá cuội và một bờ dốc bằng đá để bốc
dỡ hàng hoá chạy thẳng xuống biển. Một bến cảng tốt, an toàn và một cầu tàu bằng đá; đàn

ông, đàn bà rửa cá, đan lưới, một chiếc thuyền kiểu dáng độc đáo đang được đóng ở phía
Bắc. Những hòn đảo ở ngoài biển xa, nằm về phía Đông và phía Nam. Những mạch đá ngầm
sẽ ở đấy hoặc ở bên kia chân trời.
Trong bến, có nhiều tàu, hình thù kỳ quái, hầu hết dùng cho nghề đánh cá. Một vài chiếc có
buồm lớn, vài chiếc khác có mái chèo. Những người chèo thuyền đứng đẩy thuyền ra khơi,
chứ không ngồi kéo như anh sẽ làm ở địa vị mình. Một vài con thuyền hướng ra biển, những
thuyền khác hướng mũi về cầu tàu. Chiếc Erasmus thả neo gọn gàng, cách bờ 50 bộ, nước
vừa đủ với ba dây cáp:
"Ai đã làm như vậy?" anh tự hỏi.


Có những chiếc thuyền bên cạnh nó, anh có thể nhìn thấy những người bản xứ trên thuyền.
Nhưng không có người nào của anh.
"Họ đi đâu cả nhỉ?" Anh nhìn quanh làng và bắt đầu để ý thấy nhiều người đang nhìn anh.
Khi họ biết anh để ý đến họ, tất cả đều chào. Mặc dầu không thoải mái, anh vẫn chào lại. Rồi
họ lại vui vẻ bình thường qua lại, mặc cả chào nhau, hình như quên khuấy mất anh. Tất cả
giống như những con bướm muôn màu. Nhưng anh bỗng cảm thấy có những con mắt đang
dò xét anh, từ mỗi khung cửa, khi anh bước về phía bờ biển.
Tại sao họ lại kỳ quái như vậy? Anh tự hỏi, không phải nghĩ về quần áo và hành vi của họ.
Đó là họ không có vũ khí, anh nghĩ một cách kinh ngạc. Không kiếm, không súng! Tại sao
vậy?
Những cửa hiệu ngoài trời đầy hàng hóa, những kiện hàng kỳ lạ bày dọc phố nhỏ. Sàn nhà
cao, người bán và người mua quỳ hoặc ngồi xổm trên những sàn gỗ sạch. Anh thấy hầu hết
đều đi guốc hoặc dép cói, bàn chân dày tẽ giữa ngón cái và những ngón khác để giữ những
sợi dây đan nhưng họ để guốc dép bẩn ngoài cửa, chùi chân và xỏ vào những đôi dép sạch
để trong nhà. Nếu suy nghĩ, mình sẽ thấy như vậy rất hợp lý, anh tự nhủ, thán phục.
Sau đó, anh thấy một người trọc đầu tiến lại. Một nỗi sợ lướt thót người từ dái đến dạ dày
anh. Người thầy tu này rõ ràng là người Portugal hoặc Spain và mặc dù chiếc áo dài lòa xòa
màu da cam, chuỗi tràng hạt và chiếc thánh giá ở thắt lưng, sự thù hận lạnh lẽo vẫn lộ rõ
trên nét mặt gã. Chiếc áo dài có nhiều vết loang lổ và đôi ủng kiểu Châu Âu của gã bê bết

bùn. Gã ngó ra bến cảng, nhìn chiếc Erasmus, Blackthorne biết gã hẳn đã nhận ra đó là tàu
Holland hoặc England, một loại tàu mới lạ đối với hầu hết mặt biển. Nó thon hơn, nhanh
hơn, một loại tàu buôn chiến đấu được đóng theo khuôn mẫu cải tiến của những tàu Anh, đã
giáng bao nhiêu.thất bại trên luồng biển Spain. Cùng đi với gã thầy tu còn có mười người
bản xứ, tóc đen, mắt đen, một người ăn mặc như gã, chỉ trừ đôi dép buộc dây. Những người
khác mặc áo dài màu sắc khác nhau và quần rộng hoặc chỉ đóng khố. Nhưng không ai có vũ
khí.
Blackthorne muốn bỏ chạy trong khi còn kịp nhưng anh biết anh không có sức và cũng
không có chỗ nào để trốn. Chiều cao, khổ người và màu mắt của anh làm anh xa lạ trong cái
thế giới này. Anh ngả lưng dựa vào tường.


"Anh là ai?" Gã thầy tu hỏi bằng tiếng Portugal.
Gã là một người to béo, ngăm đen, ở tuổi hăm lăm hăm bảy, râu dài.
"Anh là ai?" Blackthorne nhìn lại.
"Tàu đó là tàu Holland. Anh là một tên Holland dị giáo. Các anh là hải tặc. Chúa thương xót
lấy các anh."
"Chúng tôi không phải hải tặc, chúng tôi là những người lái buôn hòa bình, trừ đối với kẻ
thù của chúng tôi. Tôi là hoa tiêu của tàu đó. Anh là ai?"
"Cha Sebastio. Làm sao các anh tới được đây? Làm sao?"
"Chúng tôi bị gió thổi giạt vào bờ. Chỗ này là chỗ nào? Có phải những người Nhật Bản
không?"
"Đúng. Nhật Bản. Người Nhật." Gã thầy tu nói một cách sốt ruột.
Gã ta quay lại một người nhiều tuổi hơn những người khác nhỏ và mảnh, có đôi cánh tay
khỏe mạnh và bàn tay chai, đầu hói cao, tóc buộc lại thành một cái đuôi màu xám như lông
mày của anh ta. Gã thầy tu vừa nói ngập ngừng với anh ta bằng tiếng Nhật, vừa chỉ vào
Blackthorne. Tất cả có vẻ sửng sốt, một người làm dấu thánh.
"Người Holland dị giáo, bọn phản loạn, bọn hải tặc. Tên anh là gì?"
"Đây là một khu của người Portugal à?"
Mắt gã thầy tu đanh lại và vằn máu.

"Trưởng làng nói ông ta đã báo cáo với nhà cầm quyền về các anh. Tội ác của các anh sẽ bị
trừng trị. Những người còn lại trong thủy thủ đoàn các anh đâu?"
"Chúng tôi bị gió thổi chệch hướng. Chúng tôi cần thức ăn, nước và thời gian để sửa lại tàu.
Rồi chúng tôi sẽ đi. Chúng tôi có thể trả cho mỗi..."
"Những người còn lại trong thủy thủ đoàn của các anh đâu?"
"Tôi không biết. Trên tàu. Tôi chắc họ ở trên tàu?."


Gã thầy tu hỏi viên trưởng làng, người này trả lời và chỉ về phía cuối làng, giải thích một
thôi một hồi. Gã thầy tu quay lại Blackthorne:
"Người ta đóng đinh câu rút những tội phạm ở đây. Hoa tiêu! Anh sắp chết. Daimyo sắp tới
cùng với những Samurai của mình. Chúa hãy rủ lòng thương xót anh."
"Daimyo là cái gì?"
"Lãnh chúa phong kiến. Ông ta thống lĩnh cả địa hạt này. Làm sao anh tới được đây?"
"Thế Samurai?" .
"Những lính chiến - những người lính - những người thuộc đẳng cấp lính chiến." Gã thầy tu
mỗi lúc một thêm bực tức.
"Anh từ đâu đến và các anh là ai?"
"Tôi không nhận ra giọng anh", Blackthorne nói để làm gã mất cảnh giác.
"Anh là người Spain?"
"Tôi là người Portugal." Gã thầy tu nổi đóa, bị mắc lừa.
"Tôi đã nói với anh, tôi là cha Sebastio, người Portugal. Anh học tiếng Portugal ở đâu tốt
vậy hả?."
"Nhưng Portugal và Spain bây giờ là một nước", Blackthorne nói khiêu khích.
"Các anh cùng một vua."
"Chúng tôi là một nước khác. Chúng tôi là một dân tộc khác. Muôn đời vẫn là như vậy.
Chúng tôi cắm cờ riêng. Sở hữu ở nước ngoài của chúng tôi là riêng, phải, riêng. Vua Philip
đã đồng ý như vậy khi ông ta ăn cắp nước tôi."
Cha Sebastio cố gắng kìm mình, ngón tay gã run run:
"Ông ta đã dùng vũ lực chiếm nước tôi hai mươi năm trước đây! Binh lính của ông ta và

tên quỷ bạo chúa Spain, quận công Alva! Chúng đánh bại nhà vua chân chính của chúng tôi.
Bây giờ con trai của Philip thống trị nhưng ông ta cũng không phải là vua thật sự của chúng
tôi. Chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ đón nhà vua chúng tôi trở lại.".


Rồi gã nói một cách cay độc.
"Anh biết đó là sự thật Cái mà con quỉ Alva muốn làm với đất nước anh, hắn đã làm đối với
đất nước tôi.".
"Không đúng. Alva là một tai họa đối với Holland, nhưng ông ta không bao giờ chinh phục
được nó. Holland còn được tự do. Mãi mãi sẽ tự do. Nhưng ở Portugal, ông ta chỉ mới đập
gẫy một đội quân nhỏ mà cả đất nước đã đầu hàng. Không có gan. Các anh có thể tống cổ
người Spain đi nếu các anh muốn, nhưng các anh sẽ không bao giờ làm điều đó. Không có
danh dự. Không có cojones (hột dái-tiếng Spain). Các anh chỉ biết thiêu sống những người
vô tội dưới danh nghĩa Chúa."
"Chúa hãy thiêu đốt ngươi trong ngọn lửa địa ngục đời đời." Gã thầy tu nổi giận.
"Quỷ Satan đã xổng và sẽ bị đập nát. Những kẻ dị giáo sẽ bị đập nát. Các người bị nguyền
rủa trước Chúa."
Bất giác, Blackthorne cảm thấy một nỗi kinh hoàng tôn giáo dâng lên trong anh.
"Lũ thầy tu các người không có cái tai của Chúa, không nói bằng giọng của Người. Chúng ta
đã thoát khỏi ách thối tha của các người và chúng ta sẽ thoát mãi mãi.".
Mới bốn năm trước đây, Mary Tudor Khát Máu là hoàng hậu của England và Spain, Philip
II, Philip Bạo Tàn, là chồng của bà ta. Người đàn bà sùng đạo một cách điên rồ này, con-của
Henry VIII, đã đem trở về những thầy tu Thiên Chúa giáo, những tòa án dị giáo, những cuộc
xét xử dị giáo, sự ngự trị của Giáo hoàng nước ngoài đối với England đã đảo ngược sự kiềm
chế của vua cha, những thay đổi lịch sử đối với tòa thánh La Mã ở Anh, ngược lại ý nguyện
của đa số. Bà ta đã ngự trị năm năm và vương quốc bị xé nát bởi lòng căm thù, nỗi sợ hãi và
sự đổ máu. Nhưng bà ta đã chết và Elizabeth trở thành Nữ hoàng năm hai mươi bốn tuổi.
Blackthorne lòng tràn đầy kinh ngạc và tình quí mến sâu xa khi anh nghĩ tới Elizabeth.
Trong bốn mươi năm bà đã chiến đấu với thế giới. Bà đã khôn ngoan và chiến thắng nhiều
Giáo hoàng, đế quốc La Mã thần thánh, Pháp và Spain kết hợp lại. Bị rút phép thông công, bị

phỉ nhổ, bị sỉ vả ở nước ngoài, bà đã dẫn dắt Anh quốc đến bến - an toàn, hùng mạnh, độc
lập.


"Chúng tôi tự do", Blackthorne nói với gã thầy tu.
"Các anh đã bị bẻ gẫy, bây giờ chúng tôi đã có trường riêng, sách riêng, kinh thánh riêng,
nhà thờ riêng của chúng tôi. Người Spain của các anh thì vẫn thế. Rác rưởi! Bọn thầy tu các
anh vẫn thế. Một bọn người tôn thờ tượng thần."
Gã thầy tu nâng cây thánh giá, giơ lên chắn giữa Blackthorne và gã, như một cái khiên.
"Ôi, lạy Chúa, hãy che chở chúng tôi khỏi sự độc ác này! Tôi không phải người Spain, nói để
anh biết! Tôi là người Portugal. Và tôi không phải là thầy tu. Tôi là một người anh em của
hội Jesus!."
"À, một tên Jesuit."
(Jesuit - Hội viên của hội Thánh La Mã -The Society of Jesus. Do Ichnatius Loyota thành lập
năm 1534 mục đích là để bảo vệ chế độ Giáo Hoàng và Thiên Chúa giáo chống lại sự cải
cách).
"Phải. Cầu Chúa thương xót lấy linh hồn của ngươi", cha Sebastio nói giật giọng câu gì đó
bằng tiếng Nhật và mấy người kia lao tới Blackthorne. Anh tựa lưng vào tường, đấm mạnh
một người nhưng bị những người khác vây chặt Anh thấy mình bị ngạt thở.
"Nanigoto da?" (Có chuyện gì?-Tiếng Nhật)
Đột ngột cuộc loạn đả ngừng lại.
Một người trẻ tuổi đứng cách xa chừng mười bước. Anh ta mặc quần ống túm, đi guốc, mặc
kimono mỏng, hai thanh kiếm tra trong vỏ giắt ở thắt lưng. Một thanh trông giống như dao
găm. Thanh kia, dài và hơi cong. Bàn tay phải của anh ta để thờ ơ trên đốc kiếm.
"Nanigoto da?" anh ta hỏi gay gắt khi không ai trả lời ngay.
"Nanigoto da?.".
Những người Nhật quỳ rạp xuống, đầu cúi sát đất. Chỉ có thầy tu đứng. Gã cúi chào và bắt
đầu giải thích ấp úng, nhưng người đàn ông ngắt lời gã một cách khinh bỉ và chỉ tay vào
người đứng đầu:
"Mura!"



Mura, trưởng làng, đầu cúi thấp, bắt đầu giải thích nhanh. Mấy lần ông ta chỉ vào
Blackthorne, một lần vào con tàu và hai lần vào gã thầy tu. Lúc này, ngoài phố không động
tĩnh gì hết. Tất cả những người có mặt đều quỳ, đầu cúi thấp. Trưởng làng đã nói xong.
Người đàn ông có vũ khí hỏi thêm ông ta một cách ngạo mạn, người này trả lời cung kính và
nhanh. Sau đó, người đeo kiếm nói điều gì đó với trưởng làng, vung tay với vẻ khinh miệt lộ
liễu đối với gã thầy tu rồi với Blackthorne và trưởng làng, nói mấy lời với gã thầy tu, gã này
đỏ mặt.
Gã đeo kiếm thấp hơn và trẻ hơn Blackthorne nhiều, bộ mặt đẹp trai, hơi rỗ, chằm chằm
nhìn người lạ.
"Onushi ittai doko kara kitanoda? Doko no kuni no monoda!."
Gã thầy tu nói một cách lo ngại :
"Kasigi Omi-san hỏi anh từ đâu tới và quốc tịch gì?"
"Có phải Omi-san là Daimyo không?" Blackthorne hỏi, bất giác nhìn những thanh kiếm.
"Không. Ông ấy là một Samurai, một Samurai chịu trách nhiệm làng này. Họ của ông ấy là
Kasigi, Omi là tên. Ở đây người ta luôn luôn để họ lên trước.
"San" nghĩa là
"Ngài", người ta thêm vào tên gọi để tỏ sự lễ độ. Anh nên học để có lễ độ - và tìm một cung
cách cư xử. Ở đây người ta không tha thứ sự thiếu lễ độ." Giọng gã đanh lại.
"Nhanh lên, trả lời đi!"
"Amsterdam. Tôi là người Anh."
Cơn bàng hoàng của cha Sebastio lộ rõ. Gã nói:
"Người Anh. Nước Anh" với Samurai và bắt đầu giải thích nhưng Omi nóng nảy ngắt lời và
tuôn ra một tràng.
"Omi-san hỏi anh có phải lãnh đạo không? Ngài trưởng làng nói có một vài kẻ dị giáo các
anh còn sống và hầu hết đều bị ốm. Có hạm trưởng không?"


"Tôi là người chỉ huy", Blackthorne trả lời, mặc dù bây giờ khi họ đã ở trên bờ rồi thì hạm

trưởng là người chỉ huy.
"Tôi chỉ huy", anh nói thêm, biết hạm trưởng Spillbergen chẳng chỉ huy được gì hết, dù ở
trên bộ hay trên biển, ngay cả khi ông ta khoẻ mạnh.
Lại một tràng nữa của Samurai.
"Omi-san nói vì anh là chỉ huy, anh được phép đi lại tự do trong làng, muốn đi đâu thì đi
cho đến khi ông chủ tới. Ông chủ của anh ta, một Daimyo, sẽ quyết định số phận của anh.
Cho đến khi đó anh vẫn được phép sống như một vị khách trong nhà trưởng làng, đến và đi
tùy thích. Nhưng anh không được rời khỏi làng. Nhóm thủy thủ của anh bị cầm cố trong nhà
và không được phép rời nhà. Anh có hiểu không?."
"Có. Thủy thủ của tôi ở đâu?."
Cha Sebastio chỉ tay mơ hồ về dãy nhà gần bên, rõ ràng gã bối rối bởi quyết định và sự nôn
nóng của Omi.
"Đó! Hãy hưởng sự tự do của ngươi, tên hải tặc, sự xấu xa của ngươi xứng với..."
"Wakari masu ka?" Omi nói trực tiếp với Blackthorne.
"Chữ CÓ, anh có hiểu không?"
"Bằng tiếng Nhật nói thế nào?"
Cha Sebastio nói với Samurai:
"Wakari masu."
Omi miệt thị vẫy họ đi. Tất cả đều cúi chào thấp. Trừ một người cố ý đứng yên không chào.
Nhanh đến lóa mắt, thanh kiếm rít lên làm thành một đường vòng cung ánh bạc, đầu người
đàn ông không chào văng khỏi vai, một suối máu phun ra trên đất. Thân mình giãy giụa một
lúc rồi lặng yên. Bất giác, người thầy tu lùi lại một bước. Không một người nào ở phố nhúc
nhích mảy may. Đầu họ vẫn cúi thấp và bất động. Blackthorne cứng người, choáng váng.
Omi thờ ơ dẫm chân lên xác chết.


"Ikinasai!" Anh ta nói, hất tay cho mọi người đi.
Những người đàn ông đứng trước anh ta vẫn cúi sát đất. Rồi họ đứng lên và đi một cách
trầm tĩnh. Đường phố bắt đầu vắng bóng người.
Cha Sebastio nhìn xuống cái xác chết, gã làm dấu thánh giá một cách long trọng và nói:

"In nomine Patris et Filii et Spiritus Sanci"
(TiếngLatin: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần).
Gã nhìn chăm chăm vào tay Samurai, lúc này gã không còn sợ hãi nữa.
"Ikinasai!" Đầu mũi kiếm sáng loáng dí vào cái xác chết.
Một lúc lâu sau đó, gã thầy tu quay người và bỏ đi. Vẻ tự trọng, Omi nheo mắt nhìn theo,
rồi liếc nhìn Blackthorne.
Blackthorne lùi lại, rồi khi đã ở một khoảng cách yên ổn, anh nhanh chóng rẽ vào góc phố
và biến mất.
Omi cười phá lên. Đường phố lúc này vắng không. Khi tiếng cười tắt, anh ta nắm chặt lấy
đốc kiếm bằng cả hai tay và bắt đầu đều đặn băm cái xác thành từng mảnh nhỏ.
*
Blackthorne ở trong một chiếc thuyền nhỏ, người chèo thuyền vui vẻ đẩy mái chèo về phía
chiếc Erasmus. Anh kiếm được chiếc thuyền này không khó khăn gì và anh
có thể nhìn thấy mọi người trên sàn tàu. Tất cả đều là Samurai. Một số mặc giáp che ngực
bằng thép nhưng hầu hết đều mặc kimono thường, - người ta gọi chiếc áo dài bằng cái tên
như vậy,- và hai thanh kiếm. Tất cả cùng để tóc một kiểu, phía đỉnh đầu cạo nhẵn, tóc ở phía
sau và hai bên gom lại thành một cái đuôi sam, bôi dầu, cuốn hai vòng trên đỉnh đầu, buộc
lại gọn ghẽ. Chỉ Samurai mới được phép để như thế và đối với họ, đó là điều bắt buộc. Chỉ
Samurai mới đeo hai thanh kiếm - thanh kiếm dài để chém giết, cán cầm bằng cả hai tay và
thanh ngắn giống như một lưỡi dao găm. Đối với họ đó là điều bắt buộc.
Những Samurai đứng dọc bên mép tàu của anh, nhìn anh.


Lòng bồn chồn, anh trèo lên cầu tàu, đi vào sàn tàu. Một Samurai ăn mặc lịch sự hơn những
người khác tiến tới và cúi chào. Blackthorne đã biết rõ cung cách này, anh cúi chào lại. Mọi
người trên sàn tàu rạng rỡ hẳn lên. Anh vẫn còn cảm thấy sự rùng rợn của cách giết người
đột ngột vừa rồi ở ngoài phố. Những nụ cười của họ không làm giảm sự bàng hoàng của
anh. Anh đi về phía cầu thang dẫn tới cabin và dừng lại đột ngột. Một tấm lụa đỏ lớn dán
ngang ô cửa, bên cạnh là một dấu nhỏ với hàng chữ loằng ngoằng kỳ dị. Anh do dự ngó sang
cánh cửa bên kia, nhưng nó cũng được gắn bằng một khuông vải và một cái dấu tương tự.

Anh với tay định bóc khuông lụa.
"Hotte Oké!" Để làm cho rõ ràng hơn, người Samurai đứng gác lắc đầu. Anh ta không còn
cười nữa.
"Nhưng đây là tàu của tôi và tôi muốn..."
Blackthorne cố kìm nỗi lo ngại, mắt vẫn nhìn những thanh kiếm. Mình phải xuống dưới đó,
anh nghĩ. Phải lấy hải trình của mình, đó là điều bí mật. Lạy Chúa, nếu người ta tìm thấy
những cái đó và trao cho các thầy tu hoặc những người Nhật thì là xong. Bất cứ một tòa án
nào trên thế giới (trừ England và Holland) đều sẽ kết tội anh là hải tặc với chứng cớ đó. Hải
trình ghi ngày tháng, địa điểm và số chiến lợi phẩm thu được, số lượng người chết trong ba
cuộc đổ bộ ở châu Mỹ và một ở châu Phi, số nhà thờ bị cướp phá và việc đã đốt các thành
phố và tàu bè như thế nào. Còn hải trình Portugal? Đó là giấy khai tử, bởi vì tất nhiên nó đã
bị đánh cắp. Ít nhất nó cũng đã được mua của một tên phản bội Portugal và theo luật của họ,
bất cứ một người nước ngoài nào bị bắt mà có giữ hải trình của họ, chưa nói đến hải trình
mở đường vào eo Magellan, thì sẽ bị giết chết ngay lập tức. Và nếu hải trình đó được tìm
thấy trên một tàu địch, con tàu đó sẽ bị đốt, tất cả mọi người trên tàu đều bị xử tội không
chút xót thương.
"Nan no yoda?" Một Samurai nói.
"Ông có nói tiếng Portugal không?" Blackthorne hỏi.
Người đàn ông nhún vai :" Wakari masu.".
Một người khác tiến lên kính cẩn nói với người thủ lĩnh, người này gật đầu đồng ý.


"Bạn của người Portugal", người Samurai này nói tiếng Bồ nhưng phát âm rất nặng. Anh ta
mở áo kimono, để lộ một cây thánh giá nhỏ bằng gỗ đeo ở cổ.
"Thiên Chúa!" anh ta chỉ vào mình và mỉm cười.
"Thiên Chúa!" Anh ta chỉ vào Blackthorne.
"Thiên Chúa không?"
Blackthorne do dự rồi gật đầu:
"Thiên Chúa!"
"Người Portugal?"

"Người Anh."
Người đàn ông nói líu lo thủ lĩnh của mình, cả hai nhún vai rồi lại nhìn anh. "Portugal?"
Blackthorne lắc đầu, không thích mình lại không đồng ý với họ về bất cứ điều gì.
"Các bạn tôi? Ở đâu?"
Người Samurai chỉ về cuối làng. "Bạn."
"Đây là tàu của tôi. Tôi muốn xuống dưới." Blackthorne nói điều đó bằng nhiều cách, gồm
cả ra hiệu. Họ hiểu.
"Ah, so desu! Kinjiru", họ nhấn mạnh, chỉ hàng chữ và tươi cười.
Rõ ràng, anh không được phép xuống dưới. Kinjuru hẳn có nghĩa là cấm, Blackthorne bực
bội nghĩ. Ờ. Mẹ kiếp! Anh giật quả đấm cửa và mở ra một chút.
"Kinjiru!"
Anh bị giật lại, giáp mặt với một Samurai. Những thanh kiếm của họ đã rút khỏi nửa bao.
Đứng yên bất động, hai người đàn ông đợi anh quyết định. Những người khác trên.sàn tàu
ngắm nhìn dửng dưng.
Blackthorne biết, anh không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc lùi lại, vì vậy anh nhún
vai, kiểm tra lại những sợi dây thừng lớn và cả con tàu hết sức cẩn thận. Những cánh buồm
tơi tả đã được hạ xuống và buộc lại. Nhưng những sợi dãy chằng lại khác với tất cả những gì


anh đã từng nhìn thấy, vì thế anh cho rằng người Nhật đã làm cho con tàu thêm chắc chắn.
Anh đi xuống cầu tàu và đứng lại. Anh toát mồ hôi lạnh, khi thấy tất cả bọn họ đều nhìn anh
một cách hiểm ác và lạy Chúa, anh nghĩ bụng, sao mình lại có thể ngu ngốc đến như vậy?
Anh cúi chào lịch sự và lập tức sự thù địch biến mất, tất cả cúi chào lại và mỉm cười. Nhưng
anh vẫn cảm thấy mồ hôi ròng ròng chảy dọc xương sống, anh căm ghét tất cả những gì
dính dáng tới Nhật, anh ao ước anh và các thủy thủ của mình lại trở lại tàu, được vũ trang
và giong buồm ra khơi.
*
"Lạy Chúa tôi, tôi nghĩ chắc là anh lầm, hoa tiêu ạ", Vinck nói. Nụ cười móm của anh ta rộng
ngoác và tục tĩu
"Nếu anh có thể chịu nổi với cái của mà người ta gọi là thức ăn, thì đó là nơi tốt nhất mà tớ

được ở. Tớ đã được hai người đàn bà trong ba ngày và họ như những con thỏ. Họ sẽ làm bất
cứ cái gì nếu cậu bày cách cho họ làm."
"Đúng thế. Nhưng mình chẳng làm nổi trò trống gì nếu không có thịt hoặc rượu. Chẳng thể
lâu được. Tớ mệt nhoài, và tớ chỉ có thể làm được một lần",
Maetsukker nói, khuôn mặt hẹp của anh ta giật giật.
"Lũ con hoang da vàng không hiểu rằng chúng ta cần thịt,bia và bánh mỳ. Rượu mạnh hoặc
vang."
"Đó là điều tồi tệ nhất! Lạy Chúa tôi, tôi sẵn sàng đổi cả nước thiên đàng lấy chút tửu!"
Baccus Van Nekk đầy u sầu. Ông bước tới, đứng bên Blackthorne, ngước lên nhìn anh. Ông
cận thị nặng và đã mất đôi kính cuối cùng trong trận bão. Nhưng dù có kính chăng nữa, ông
cũng vẫn luôn luôn đứng sát lại. Ông là thương nhân.chính, người giữ ngân và là đại diện
của Công ty Đông Ấn - Holland đã góp tiền cho cuộc hành trình này.
"Chúng ta đã ở trên bờ, yên ổn rồi mà tôi vẫn không có được một hớp rượu nào. Không
một giọt rượu nào! Khủng khiếp. Cậu có được chút nào không, hoa tiêu?"
"Không" Blackthorne không thích ai gần anh nhưng Baccus là bạn, và gần như mù, vì thế
anh không tránh ra chỗ khác.


"Chỉ có nước sôi với mấy cái lá trong đó."
"Họ chẳng hiểu tửu là gì. Chẳng có gì uống ngoài nước sôi và mấy cái lá - Chúa hãy cứu giúp
chúng tôi! Có lẽ cả cái đất nước này không có rượu chắc?"
Lông mày ông rướn lên.
"Hoa tiêu, hãy cho tôi một ân huệ to lớn. Đi xin một ít rượu, được không?"
Blackthorne đã tìm thấy ngôi nhà họ bị giam ở góc phía Đông của làng. Người lính gác
Samurai đã để anh qua, nhưng các thủy thủ của các anh xác nhận là họ không thể bước ra
ngoài cổng vườn. Ngôi nhà có nhiều phòng như phòng của anh nhưng rộng hơn và có nhiều
đầy tớ tuổi tác khác nhau, cả đàn ông lẫn đàn bà.
Mười một người trong số thủy thủ đoàn của anh còn sống. Những người chết đã được
người Nhật đưa đi. Những suất rau tươi phong phú đã bắt đầu chữa khỏi bệnh thiếu
vitamin C, và tất cả, trừ hai người, đã bình phục nhanh chóng. Hai người này trong ruột bị

chảy mủ. Vinck chích cho họ nhưng cũng không ăn thua. Đến tối , anh nghĩ, họ sẽ chết. Viên
hạm trưởng ở một phòng khác, vẫn đang còn rất mệt.
Sonk, người làm bếp, thấp, to ngang , bật cười nói:
"Hoa tiêu ơi, ớ đây thế mà tốt, đúng như Johann nói, chỉ trừ thức ăn và không rượu. Những
người bản xứ cũng không đến nỗi nào, chừng nào anh không đi giày vào nhà. Lũ con hoang
da vàng phát điên nếu anh không cởi giày ra."
"Này, Blackthorne nói. Ở đây có một tên thầy tu. Một tên Jesuit."
"Lạy Chúa tôi!." Tất cả những trò đùa cợt biến mất khi anh kể cho họ nghe về gã thầy tu và
về vụ chém đầu vừa rồi.
"Tại sao hắn lại chặt đầu người đó, hoa tiêu?."
"Mình không biết."
"Tốt nhất, chúng ta nên lên tàu. Nếu bọn cha cố thấy chúng ta trên bờ..." Một nỗi sợ hãi bao
trùm trong phòng lúc này. Salamon, anh chàng câm nhìn Blackthorne. Mồm anh ta mấp
máy, nước bọt sùi ra ở khoé miệng.


"Không. Salamon ạ, không lầm đâu", Blackthorne nói một cách nhẹ nhàng để đáp lại câu
hỏi lặng câm của anh.
"Hắn nói hắn là một tên Jesuit mà.".
"Lạy Chúa tôi, Jesuit hay Dominican hoặc gì gì đi chăng nữa thì cũng chẳng khác nhau cái
cứt gì", Vinck nói.
"Chúng ta nên quay lên tàu thôi. Hoa tiêu, cậu hỏi tay Samurai đó đi."
"Chúng ta ở trong tay Chúa", Jan Roper nói.
Anh ta là một trong những lái buôn phiêu lưu, mắt hẹp, trán cao, mũi mỏng.
"Chúa sẽ che chở chúng ta khỏi những kẻ thờ quỷ Sa tăng.".
Vinck nhìn Blackthorne.
"Thế còn những người Portugal, hoa tiêu? Anh có nhìn thấy ai không?"
"Không. Không có dấu hiệu gì của họ ở trong làng.".
"Chúng sẽ bu đến đây ngay khi biết chúng ta." Maetsukker nói thay cho mọi người và chú
bé Croocq bật lên một tiếng rên.

"Ừ, đã có một tên thầy tu, tất phải có những tên khác.".
Ginsel liếm đôi môi khô :
"Và bọn chinh phục Spain bị Chúa nguyền rủa cũng không xa..."
"Đúng thế", Vinck nói thêm, không thoải mái.
"Chúng nó như chấy.".
"Lạy Chúa tôi! Lũ thầy tu!" Có người nào lẩm bẩm.
"Và lũ chinh phục Spain!."
"Nhưng chúng ta đang ở Nhật, phải không hoa tiêu?" Van Nekk hỏi.
"Anh ta bảo với anh thế?"
"Ừ, sao?."


Van Nekk xích lại gần hơn và hạ giọng :
"Nếu như có thầy tu ở đây và một vài người bản xứ là công giáo thì có lẽ cái phần kia là
đúng - về sự giàu có, vàng, bạc và đá quý ấy." Tất cả đều im lặng.
"Anh có thấy chút gì không, hoa tiêu? Có vàng không? Có đá quý ở những người bản xứ,
hoặc vàng không?"
"Không. Không có gì hết", Blackthorne suy nghĩ một lúc." Mình không nhớ đã nhìn thấy
được gì. Không có vàng đeo cổ, chuỗi hạt hoặc vòng xuyến gì. Mà này, còn điều này nữa kể
cho các cậu nghe. Mình đã lên tàu nhưng nó bị niêm phong rồi." Anh kể lại những điều đã
xảy ra và nỗi lo ngại của họ tăng lên.
"Lạy Chúa tôi, nếu chúng ta không thể trở lại tàu, lại có cả thầy tu . Chúng ta phải đi khỏi
đây thôi." Giọng Maetsukker bắt đầu run lên.
"Hoa tiêu, chúng ta sẽ làm gì đây? Họ sẽ thiêu sống chúng ta! Những tên chinh phục Spain những thằng con hoang đó sẽ xọc kiếm của chúng..."
"Chúng ta ở trong tay Chúa", Jan Roper nói to một cách tự tin.
"Người sẽ che chở chúng ta khỏi những kẻ nghịch Chúa. Đó là lời hứa của Người. Chằng có
gì phải sợ.".
Blackthorne nói:
"Cái cách Samurai Omi-san càu nhàu với gã thầy tu, tôi chắc anh ta ghét gã. Như vậy là tốt
phải không? Điều tôi muốn biết là tại sao gã thầy tu lại không mặc chiếc áo dài bình thường

của họ? Tại sao lại chiếc áo màu da cam? Trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái đó.".
"Đúng, lạ thật!." Van Nekk nói.
Blackthorne nhìn lên.
"Có lẽ ảnh hưởng của họ ở đây không mạnh. Điều đó có thể giúp chúng ta rất nhiều."
"Chúng ta nên làm gì, hoa tiêu?" Ginsel hỏi.


"Hãy kiên nhẫn và đợi thủ lĩnh của họ, Daimyo tới. Ông ta sẽ để chúng ta đi. Tại sao lại
không? Chúng ta chẳng làm gì hại cho họ. Chúng ta có hàng hóa để buôn bán. Chúng ta
không phải là hải tặc. Chúng ta chẳng có gì để sợ cả."
"Rất đúng, và đừng quên, hoa tiêu nói bọn rợ không phải tất cả đều là công giáo", Van Nekk
nói để tăng dũng khí cho chính mình hơn là cho những người khác.
"Phải. Anh chàng Samurai ghét gã thầy tu là điều tốt. Và chỉ có Samurai mới được vũ trang
thôi. Cũng không đến nỗi quá xấu, phải không? Canh chừng bọn Samurai và lấy lại vũ khí
của chúng ta. Ý kiến là như thế. Chúng ta sẽ lên tàu ngay cho mà xem.".
"Ngộ nhỡ cái gã Daimyo này lại là cha cố thì sao?" Jan Roper hỏi.
Không ai trả lời. Sau đó Ginsel nói:
"Hoa tiêu, cái anh chàng đeo kiếm hả? Hắn ta băm cái gã da vàng kia thành từng mảnh sau
khi chặt đầu gã à?"
"Ừ."
"Lạy Chúa! Họ là những kẻ man rợ! Những kẻ mất trí." Ginsel là một thanh niên cao, đẹp
trai, cánh tay ngắn, chân đi vòng kiềng. Bệnh thiếu vitamin C đã làm anh mất hết răng.
"Sau khi hắn chặt đầu gã kia, những người khác cứ thế bỏ đi? Không nói điều gì cả?"
"Lạy Chúa tôi, một người không có vũ khí bị giết chết như vậy ư? Tại sao hắn lại làm như
vậy? Tại sao hắn lại giết anh ta?"
"Mình không biết, Ginsel ạ. Nhưng cậu không bao giờ nhìn thấy một tốc độ như vậy. Gươm
vừa tuột khỏi vỏ, đầu người đàn ông đã lăn lông lốc.".
"Chúa che chở cho chúng ta!"
"Lạy Chúa tôi" ,Van Nekk lẩm bẩm.
"Nếu chúng ta không thể trở lại tàu. Trận bão đáng nguyền rủa. Không có kính tôi thấy bất

lực quá đi!"
"Có bao nhiêu Samurai trên tàu, hoa tiêu?" Ginsel hỏi.


×