THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP LỐI SỐNG SINH VIÊN
GVHD: Tạ Minh
SINH VIÊN THỰC HIỆN: HUỲNH VĂN HẬU: MSSV: 1514283
Nhập môn xã hội học
MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: KIẾN THỨC CƠ BẢN.............................................................................................5
1.1 Khái niệm xã hội học.............................................................................................................5
1.2 Đối tượng nghiên cứu của xã hội học....................................................................................5
1.3 Chức năng của xã hội học......................................................................................................5
1.4 Xã hội hóa cá nhân.................................................................................................................6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU...............................................................................7
2.1 Thực trạng lối sống sinh viên chia làm 3 loại ( Theo một nghiên cứu của trường ĐH Khoa
học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia TP.HCM)...................................................................10
2.2 Một số bộ phận có lối sống tha hóa, không đẹp- cần đáng lên án.......................................11
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU...................................................................13
3.1 Tính tiêu cực.......................................................................................................................13
3. 2 Tính tích cực ( tốt và phù hợp ) :.......................................................................................15
3.3 Nguyên nhân của vấn đề......................................................................................................17
3.4 Biện pháp khắc phục............................................................................................................19
CHƯƠNG 4 : QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN......................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................23
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóng mặt. Nó
bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập vào. Vì thế mà xã hội ngày càng
phát triển nhưng bên cạnh đó nó cũng làm thay đổi về tư tưởng về lối sống của nhiều người.
Đặc biệt ở đây , một vấn đề rất được quan tâm là lối sống của sinh viên ngày nay. Nói đến
sinh viên tức là nói đến thế hệ đang nắm trong tay tri thức cùng với những hiểu biết về tiến bộ xã
hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng
không nhỏ. Họ là lớp người đang được đào tạo toàn diện và đầy đủ nhất, bao gồm các chuyên
ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học…
Nói đến sinh viên Việt Nam tức là nói đến một thế hệ trẻ đầy sức sống và sức sáng tạo. Họ
nắm trong tay tri thức của thời đại, chìa khóa mở ra cánh cửa cho tiến bộ xã hội nói chung và sự
phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng không nhỏ .Hiện nay
Việt Nam có tổng số 376 trường đại học, cao đẳng trên cả nước, trong đó bộ Giáo dục và Đào
tạo trực tiếp quản lý 54 trường, các Bộ, ngành khác quản lý 116 trường, Các tỉnh, thành phố là cơ
quan chủ quản của 125 trường. Tổng số sinh viên bậc đại học hiện nay khoảng 1.7000.000
người, số lượng tuyển sinh hằng năm trong những năm gần đây khoảng 500.000 người/kỳ thi.
Về mặt chất lượng, sinh viên là lớp người trẻ được đào tạo toàn diện và đấy đủ nhất, bao gồm
các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học… chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố: chuyên ngành theo học, sự phân bố các trường, khu vực sinh sống và học tập…, lối
sống của sinh viên Việt Nam nhìn chung cực kỳ đa dạng và phong phú
Nhưng xã hội ngày càng văn minh hiện đại, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, công
cuộc hội nhập với thế giới càng cao, đời sống con người càng được nâng cao thì càng đặt ra cho
sinh viên, tầng lớp tri thức, giới trẻ ngày nay càng nhiều thử thách. Khi mà các nền văn hóa
phương tây đang du nhập vào Việt Nam, có những điều tốt đẹp nhưng cũng không ít những giá
trị văn hóa không thích hợp với tư tưởng, truyền thống của người phương đông, câu hỏi đặt ra là
sinh viên, tầng lớp trí thức sẽ thích ứng thế nào với một môi trường mới? Họ sẽ chọn lọc học
những cái hay, cái đẹp phù hợp với bản thân hay học theo cái xấu không phù hợp để rồi dần dần
3
đánh mất đi những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Mỗi người có một cách thích ứng riêng nên
nó đã tạo nên nhiều lối sống trong sinh viên và giới trẻ.
Sinh viên là lớp thanh niên trí thức đại diện và quyết định tương lai đất nước, chính vì thế
việc bàn về lối sống của sinh viên là một điều quan trọng và hết sức cần thiết.
4
CHƯƠNG 1: KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.1 Khái niệm xã hội học
-Xã hội học là khoa học xa hội, là học thuyết về xã hội, là hệ thống các mối quan hệ xã hội giữa
người vs người được thể hiện trên nhiều lĩnh vực đời sống xh như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, phong tục tập quán, lối sống, thẩm mĩ văn hóa nghệ thuật
-Là khoa học nghien cứu các sự kiện xã hội quá trình xh diễn ra dưới sự tác dộng của cá nhân với
tư cách là chủ thể xã hội
-Đồng thời là khoa học nghiên cứu cách ứng xử, phạm vi giao tiếp và mối quan hệ xh thông qua
các hoạt dộng xã hội của con người.
1.2 Đối tượng nghiên cứu của xã hội học
Có nhiều cách nhìn khác nhau về đối tượng của xã hội học:
- Theo Durkheim, đối tượng nghiên cứu của xã hội là “sự kiện xã hội”.
- Theo quan điểm của M. Weber, xã hội học là khoa học nghiên cứu về “ hành động xã
hội”.
- Đối với Auguste Comte, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các quy luật tổ chức xã
hội.v.v.
Tuy nhiên, xem xét toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội học thế giới, có ba khuynh hướng chính
trong cách tiệp cận xã hội học như sau:
- Khuynh hướng tiếp cận vi mô: Các nhà xã hội học theo khuynh hướng này cho rằng hành vi
hay hành động xã hội của con người là đối tượng nghiên cứu của xã hội học.
- Khuynh hướng tiếp cận vĩ mô: Hệ thống xã hội, cấu trúc xã hội là đối tượng nghiên cứu của xã
hội học.
- Khuynh hướng tiếp cận tổng hợp: Xã hội loài người và hành vi xã hội của con người là đối
tượng nghiên cứu của xã hội học.
Đại diện cho khuynh hướng tiếp cận thức ba là Osipov (Bungari). Theo ông, “Xã hội học là khoa
học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung và đặc thù của sự phát triển và vận hành của
các hệ thống xã hội được xác định về mặt lịch sử, là khoa học về các cơ chế tác động và các hình
thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân, các nhóm xã hội, các giai
cấp và các dân tộc” (Xã hội học và thời đại, Tập 3, số 23/1992, tr. 8). Định nghĩa này của ông
được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều nước khi bàn đến đối tượng nghiên cứu của xã hội học.
1.3 Chức năng của xã hội học
3 chức năng cơ bản của Xã hội học:
- Chức năng nhận thức: Xã hội học trang bị những tri thức khoa học về sự phát triển của xã hội
và những qui luật của sự phát triển . Vạch rõ được nguồn gốc của sự phát triển đó. Xác định
được nhu cầu phát triển của xã hội . Xây dựng lý luận và phương pháp luận để nhận thức xã hội.
(nhờ đó mà chúng ta có được nhãn quan mới mẻ hơn khi tiếp cận tới các hiện tượng xã hội, sự
kiện xã hội và quá trình xã hội vốn rất gần gũi rất quen thuộc quanh chúng ta, và như thế xã hội
hiện ra dưới mắt chúng ta sáng rõ hơn mà trước đó chúng ta chưa bao giờ được biết đến hoăc biết
đến rất ít.)
5
- Chức năng thực tiễn: là chức năng quan trọng của xã hội học , nó đưa vào phân tích các hiện
tượng xã hội để làm sáng tỏ các triển vọng và phát triển của xã hội và dự báo để có kế họach
quản lý xã hội một cách khoa học
- Chức năng tư tưởng: muốn quản lý và lãnh đạo xã hội thì cấp quản lý phải nắm bắt được tư
tưởng , trạng thái tâm lý xã hội của mọi tầng lớp nhân dân. để từ đó có những quyết sách đúng,
nắm bắt và định hướng được dư luận xã hội để nâng cao hiệu quả quản lý và lãnh đạo trong mọi
lĩnh vực đời sống xã hội.
Để xã hội phát triển đi lên hài hòa thì 3 chức năng trên phải được gắn bó chặt chẽ với nhau. Từ
một vấn đề mới, thông qua nghiên cứu xã hội học cho ta biết được vấn đề đó đúng hay sai qui
luật, nguồn gốc xuất phát từ đâu, có ảnh hưởng như thế nào trong xã hội. Nhưng như vậy chưa
đủ, khi đi vào cuộc sống thực tế nó giúp ta soi rọi thêm giá trị thực của nó, kết quả và tầm ảnh
hưởng lan tỏa đến đâu, mặt tích cực và tiêu cực và thông qua đó các nhà quản lý nắm bắt được
trạng thái tâm lý của xã hội để đề ra những biện pháp kịp thời làm cho những vấn đề mà xã hội
đề cập phát huy được tối đa mặt tích cực, giảm thiểu mặt tiêu cực. Nghĩa là từ nhận thức một vấn
đề của xã hội, được thực tế kiểm chứng trong cuộc sống và qua đó đề ra biện pháp phát huy mặt
mạnh, giảm thiểu mặt yếu. Đó là một chu trình khép kín nhưng có phản biện mà xã hội hiện nay
đang áp dụng trong thực tế
1.4 Xã hội hóa cá nhân
Xã hội hóa cá nhân là quá trình cá nhân tham gia vào nhóm xã hôi, được xã hội thừa nhân cá
nhân đó như hành vi đánh dấu của mình, là quá trình cá nhân tiếp nhận học tập, bắt chéo lẫn
nhau trong cuộc sống, là học đóng vai tro xã hội theo đúng khuôn mẫu hành vi, tự tổ chức, quản
lý hệ thống các quan hệ xã hội và hoạt động xã hội của mình
Xã hội hóa là một quá trình cá nhân thực hiện mối quan hệ tương đồng giữa người này
với người khác theo những khuôn mẫu hành vi và cá nhân phải thích nghi với khuôn mẫu hành
vi đó. Đó là quá trình cá nhân học cách thức hành đồng tương quan với vai trò của mình, Từ đó
hình thành nên nhân cách của mỗi người.
Quá trình xã hội hóa cá nhân nhầm thực hiên 3 mục đích:
-Quá trình xã hội hóa đã trang bị cho cá nhân những kỹ năng cần thiết để cá nhân
hòa nhập vào xã hội mà họ đang sống
-Xã hội hóa đã hình thành ở mỗi cá nhân khả năng thông đạt và phát triển khả
năng nói đọc viết diễn tả tư duy chính kiến trước xã hội.
-Quá trình xã hội hóa làm cho cá nhân theo chuẩn mục xã hội các giá trị sống tiêu
chuẩn và luôn luôn hấp thụ được niềm tin của xã hội.
Xã hội hóa cá nhân bắt đầu từ khi cá nhân mới sinh ra cho đến khi lớn lên, trưởng thành
và chết đi.Môi trường là tác nhân của quá trình xá hội hóa cá nhân: gia đình, nhà trường, xã hội.
Do đó mỗi cá nhân cần thực hiện 3 giai đoạn xã hội hóa của mình
-Cá nhân gắn liền với gia đình
-Cá nhân gắn liền với nhà trường
-Cá nhân gắn liền với xã hội
6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU
1- Thực trạng sinh viên hiện nay – thụ động trong học tập
Làm thêm, dạy kèm, bán hàng , tiếp thị dẫn đến lơ là học tập, hoặc không theo nổi
chương trình học đại học là những lý do sinh viên bị buộc thôi học. Tuy nhiên đó không
phải là lý do chính, vì có những sinh viên vừa học vừa làm thêm nhưng kết quả học tập vẫn
đạt điểm cao.Nguyên nhân ở đây là do sinh viên không chịu tìm tòi sách, tài liệu phục vụ
cho chuyên môn của mình ( mặc dù trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên
lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra những tư liệu, đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham
khảo)và tâm lí quen với việc “đọc _chép”. Từ đó dẫn đến thực trạng thụ động trong học
tập của phần lớn sinh viên hiện nay.
Từ thực tế trên cho thấy bên cạnh chương trình học tập đại học hiện nay đã nặng nề, thì công
cụ để truyền tải kiến thức hiện nay cũng chưa lấy gì làm hài lòng. Số sinh viên tìm đến thư viện
không nhiều, chỉ lác đác vài bạn đến thư viện những ngày bình thường và có nhiều hơn một chút
khi mùa thi đến. Nhân viên quản lý thư viện cho biết, một ngày bình quân chỉ có khoảng vài
chục em đến đây ngồi học, tìm tòi tư liệu.Trong khi đó, giờ giảng dạy của giảng viên trên lớp
không có gì hơn ngoài một cái micrô cứ ọc-ẹc theo kiểu “mạnh thầy thầy cứ nói”, còn lớp học
đông đúc thì “mạnh trò, trò ngủ”.
Tại một hội thảo về cải tiến phương pháp giảng dạy đại học mới đây, một giáo sư ở Trường ĐH
Sư phạm TP.HCM đã phải cảnh báo khi ông khám phá ra cách học tập của sinh viên mà ông trực
tiếp giảng dạy hiện nay thụ động đến độ khó tin! Để kiểm nghiệm cách học thụ động này đến
đâu, vị giáo sư đã làm cuộc điều tra bỏ túi: tuần đầu chỉ đứng giảng trên lớp cho sinh viên (và cả
học viên cao học) ghi chép, kết quả chỉ 40% đạt điểm kiểm tra trên trung bình.Tuần hai, giáo sư
lên lớp chỉ hướng dẫn đầu sách tham khảo, kết quả trên 60 % sinh viên đạt điểm trung bình.
Trong hai tuần này, tinh thần học tập của sinh viên không mấy thích thú, thậm chí có người nằm
ngủ gật! Nhưng đến tuần thứ ba, vị giáo sư áp dụng phương pháp gợi mở câu hỏi đề tài, thì cả
lớp thảo luận, tranh cãi quyết liệt, và kết quả học tập khiến cho vị giáo sư hài lòng : 90% đạt
điểm kiểm tra trên trung bình.
Ở các nước tiên tiến, một giáo sư khi giảng dạy trên lớp luôn phải đi kèm từ một đến hai trợ
giảng. Những trợ giảng này luôn đảm nhiệm công tác điều phối không khí lớp học, nội dung học
tập của sinh viên và tổ chức những cemina cho sinh viên bàn thảo đề tài học tập, gợi mở kiến
thức. Từ đó, người học bị lôi cuốn theo chiều hướng chủ động và sáng tạo. Nhưng đó là chuyện
ở các nước, còn ở các trường ĐH chúng ta hiện nay, để làm được việc này vẫn còn khoảng cách
khá xa!
Thêm nữa, tâm lí quen “đọc _ chép” mỗi khi trên lớp cũng dẫn tới tình trạng thụ động của sinh
viên, nếu giảng viên không đọc thì sinh viên cũng không chép, chỉ ngồi nghe và thưc tế là kiến
thức đọng lại trong đầu khi đó sẽ rất ít,thậm chí là không có gì. Trong khi đó sinh viên cũng
không có thói quen đọc giáo trình và các tài liệu liên quan đến môn học đó khi ở nhà.
Rõ ràng khi ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong cơ quan làm việc sau
này. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc không dám nói lên sự thật, không dám nhìn nhận
cái sai.... Trong mỗi giờ học, chuyện sinh viên phát biểu ý kiến là rất ít thay vào đó là “Giảng
viên nêu vấn đề, sinh viên cúi mặt xuống bàn...” Đó là việc các thầy cô đứng trên bục giảng và
yêu cầu nhiều lần các sinh viên trả lời câu hỏi. Đó không phải là những câu hỏi khó. Thông
thường nó đều nằm trong phạm vi hiểu biết và có thể trả lời của sinh viên. Thế nhưng rất ít có
cánh tay nào giơ lên. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến không khí học tập trong lớp. Nó gây ra
7
một cảm giác rất áp lực mỗi khi thầy cô đặt câu hỏi. sinh viên thì cảm thấy áp lực, còn giáo viên
cũng cảm thấy chán nản vì chỉ có sự làm việc một chiều.
Vậy thì nguyên nhân do đâu sinh viên "không thèm” phát biểu ý kiến trong giờ học ? Sau đây
là 6 nguyên nhân được đưa ra :
(1) Chuyện phát biểu là chuyện của ai đó chứ không phải của mình. Mình không phát biểu thì
sẽ có người khác phát biểu, thế thôi .
(2) Không muốn là người đầu tiên. Đây là một tâm lý khá phổ biến bởi khi một người nào đó
đã giơ tay phát biểu và khi thầy cô tiếp tục hỏi về vấn đề đó thì có khá nhiều người xung phong
nhưng lại không giơ tay ngay từ đầu .
(3) Không phát biểu không sao, vì thầy cô gọi mãi không ai xung phong thì sẽ "chọn mặt gửi
vàng" trong danh sách lớp và sẵn làm luôn công việc điểm danh. Xong, thế là qua chuyện, họa
hoằn lắm thầy cô mới gọi trúng mình.
(4) Đa phần những người hay phát biểu không phải là những "sao" trong lớp. Không hiểu
rằng các "sao" này sợ phát biểu nếu sai sẽ bị mất hình tượng hay sao mà không bao giờ giơ tay
phát biểu nhưng lại thích ngồi ở dưới trả lời nho nhỏ.
(5) Trong những giờ học ngoại ngữ , điều này lại càng khó chịu hơn. Lớp học thật sự căng
thẳng mỗi khi thầy cô có câu hỏi và yêu cầu xung phong. Lớp học thì ít người, thầy cô cứ đứng
trên mà kêu gọi, ở dưới sinh viên cứ cúi mặt xuống bàn .
(6)Và cuối cùng có lẽ chính là do sự thụ động, nhút nhát trong một bộ phận lớn sinh viên hiện
nay.
Tuy nhiên, "chuyện phát biểu trong sinh viên" không phải chỉ xuất hiện ở giảng đường đại học.
Ngay từ ngôi trường cấp II, cấp III điều này cũng đã khá quen thuộc. Thế nhưng quy mô những
lớp học ngày xưa còn nhỏ, thầy cô đã khá quen mặt nên nếu không xung phong, thầy cô sẵn sàng
gọi lên bảng. Ở cấp I lại khác, các em phát biểu khá hồn nhiên và luôn làm theo lời cô dạy "hăng
hái phát biểu ý kiến".
Vậy thì tại sao lại xảy ra một hiện tượng kỳ quặc đến như vậy?! Phải nhìn nhận rằng sự vô
trách nhiệm, thụ động, ỷ lại đang thật sự tồn tại trong một bộ phận lớn những người chủ tương
lai của đất nước . Từ việc ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong cơ quan
làm việc sau này. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc không dám nói lên sự thật, không
dám nhìn nhận cái sai. Như thế, cái sai không được đưa ra ánh sáng, không được làm rõ nên sẽ
không thể tìm ra được cách giải quyết, không thể tiến bộ. Một đất nước mà có thế hệ trẻ như thế
thì lạc hậu là chuyện không thể tránh khỏi.
Thông qua việc tiến hành khảo sát bằng câu hỏi “tại sao sinh viên giờ lười phát biểu?” ở một
số bạn sinh viên nằm rải rác ở một số trường ĐH và CĐ và đây là những nguyên nhân chính dẫn
đến tình trạng "ít phát biểu" được rút ra từ 15 phiếu khảo sát tiêu biểu nhất:
(1) . Do sinh viên quá lười học, không chịu chuẩn bị bài trước ở nhà mà chỉ đợi lên lớp chờ giảng
viên giảng rồi chép vào nên không đủ kiến thức để trả lời những câu hỏi của thầy cô
(2) . Vì sợ phát biểu sai bị bạn bè cười nhạo và đôi khi sợ bị thầy cô la (hoặc có thể bị trừ điểm)
thì "quê độ"
(3) . Trong lớp không ai giơ tay phát biểu mà mình phát biểu thì sợ bị coi là "chảnh"
(4) . Có khi câu hỏi quá khó vượt ngoài kiến thức hiểu biết
(5) . Có thể sinh viên không cảm thấy hứng thú với môn học, tiết học thiếu tranh ảnh minh họa,
giảng viên giảng bài chưa cuốn hút... nên sinh viên chọn cách ngồi chép bài là hơn
(6) . Tán chuyện hoặc không tập trung nghe giảng nên không hiểu rõ câu hỏi
(7) . Đôi khi câu hỏi được đặt ra quá dễ, bạn nào cũng biết rồi nên không ai giơ tay phát biểu vì
không có hứng
8
(8) . Trong một số trường hợp giơ tay phát biểu là vì được khuyến khích cộng thêm điểm số
(nhưng đây chỉ là phần thiểu số)
(9) . Không khí trong lớp học không được sôi động
(10) . Sợ phát biểu đúng có thể thầy cô sẽ đặt tiếp những câu hỏi khác mà mình không biết trước
được
(11) . Không tự tin vào bản thân, ngại ngùng khi phải đứng lên và trả lời trước đám đông...
Phần lớn sinh viên được khảo sát cho rằng những nguyên nhân có ảnh hưởng tiêu cực tới
hứng thú học tập trong sinh viên là: trong quá trình giảng dạy, giảng viên không đưa ra các tình
huống để kích thích sinh viên tư duy, không cập nhật thông tin về đời sống xã hội, phần lớn thời
gian trong giờ học giảng viên chỉ đọc cho sinh viên chép những kiến thức sẵn có trong giáo trình
rồi giải thích qua loa, không tạo được bầu không khí thân thiện trong lớp...
Nhưng ngoài ra “Sự áp đặt của giảng viên cũng khiến sinh viên sợ sai !” Đa phần sinh viên rất
ngại phát biểu, trừ khi gặp những vấn đề khúc mắc không tự tìm hiểu được thì mới cần phải hỏi
trực tiếp giảng viên. Ở một số môn học, đặc biệt là các môn đại cương, có thể nói giảng viên chỉ
truyền đạt lại cho sinh viên theo cách đọc - chép nên không tạo được bầu không khí học tập sôi
động. Một số giáo viên có nêu câu hỏi rồi chỉ định hoặc để sinh viên tự giơ tay trả lời, nhưng
phần đông sinh viên không hưởng ứng lắm. Những nguyên nhân chính khiến sinh viên ngại phát
biểu là cảm giác sợ sai. Sự áp đặt của giáo viên cũng "đóng góp" vào tâm lý sợ sai của sinh viên.
So với thế giới, sinh viên nước ta còn thụ động. Chỉ có chừng vài phần trăm sinh viên là chủ
động. Điều này làm giảm năng lực tự nghiên cứu của sinh viên. Khác với học sinh, nhiệm vụ của
sinh viên là học và nghiên cứu. Sinh viên không nên thụ động, lên giảng đường nghe thầy giảng
rồi... trả lại cho thầy mà phải tự tìm tài liệu đọc để thảo luận trước lớp. Việc thầy cô gợi ý để sinh
viên thảo luận cũng thể hiện được sự chưa chủ động ở sinh viên. Vậy mà thậm chí, có khi thầy
nêu vấn đề thảo luận rồi mà sinh viên vẫn ngồi im, không hăng hái tham gia. Điều này làm giảm
chất lượng giờ dạy vì giảng viên muốn nghe ý kiến sáng tạo, giải quyết vấn đề của sinh viên.
Một số giảng viên phải đưa ra biện pháp cộng điểm cho sinh viên nào tích cực phát biểu. Không
đọc trước tài liệu làm tăng tính rụt rè của sinh viên khi phát biểu trước lớp. Kết quả là bạn trẻ tốt
nghiệp ĐH rồi mà vẫn nhút nhát và e ngại khi diễn đạt trước đám đông, dẫn đến sự hạn chế tinh
thần làm việc theo nhóm và khả năng lãnh đạo nhóm. Nếu tâm lý nhút nhát này phổ biến rộng rãi
thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Theo đó, hầu hết bạn trẻ nước ta mới ra trường
chưa thể làm "sếp" ngay được, trong khi ở các nước tiên tiến chỉ chừng 30 tuổi là người ta đã thể
hiện rõ chất lãnh đạo của mình. Tự tin phát biểu nghĩa là mạnh dạn trước công chúng. Điều này
càng quan trọng đối với người trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn vì đây là khả năng
thuyết phục được người khác thông qua lời nói. Sợ không dám nói nghĩa là bỏ qua cơ hội. Để
khắc phục được điều này, sinh viên phải tự học để nắm vững kiến thức và mạnh dạn phát biểu.
nhưng mỗi sinh viên lớn lên trong môi trường văn hoá, xã hội khác nhau, hình thành những thói
quen, cách suy nghĩ, các năng lực nhận thức, hứng thú cũng khác nhau. Điều này tạo nên sự đa
dạng và sự phong phú về phong cách học, một số sinh viên học tập tích cực, chủ động, một số
khác lại tỏ ra thụ động, thích im lặng ngồi nghe hơn là tranh cãi.
Vậy sinh viên mong muốn gì ở giảng viên? Làm nên sự thụ động của sinh viên, lỗi cũng một
phần chính là ở giảng viên. Đa số sinh viên được khảo sát mong muốn giảng viên áp dụng các
phương pháp dạy học tích cực để tích cực hoá người học trong các giờ học. Có 88,8% sinh viên
muốn các bài giảng của giảng viên gồm cả những tri thức mới không có trong giáo trình; 73,3%
sinh viên thích được giảng viên giao làm những bài tiểu luận để giúp họ phát triển khả năng suy
nghĩ độc lập, tư duy phê phán; 82,4% sinh viên thích giảng viên hỏi, khuyến khích sinh viên đặt
9
câu hỏi, hướng dẫn sinh viên đào sâu suy nghĩ để hiểu bản chất hơn là thuyết trình suốt cả tiết
học; 85,6% sinh viên muốn khi bắt đầu mỗi môn học, giáo viên nêu yêu cầu, hướng dẫn phương
pháp học, tài liệu tham khảo và cách khai thác thông tin từ các tài liệu tham khảo này; 79,2%
sinh viên mong muốn các môn học có nhiều giờ tự học (có hướng dẫn và giải đáp thắc mắc) hơn
so với hiện nay. Tuy nhiên, khi đưa ra con số chỉ có 34,7% sinh viên thích hỏi và đưa ra những
quan điểm của cá nhân, nhưng có dự báo rằng những đổi mới về phương pháp dạy và học theo
hướng tích cực hoá người học có thể sẽ gặp những khó khăn đáng kể do nếp nghĩ và các thói
quen học thụ động đã định hình ở một bộ phận lớn sinh viên hiện nay.
Các nghiên cứu về tâm lý học đường cho thấy chương trình đào tạo với phương pháp giảng
dạy mang tính nhồi nhét kiến thức hiện nay đã tạo ra một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên
thụ động, thiếu khả năng thích ứng xã hội. Sinh viên luôn thụ động với khối lượng kiến thức về
lý thuyết, việc thực hành, thực tập bị xem nhẹ, thậm chí bị bỏ qua, từ đó tạo ra một bộ phận
không nhỏ sinh viên thụ động, vụng về, thiếu khả năng thích ứng xã hội.
Thực trạng sinh viên lười lao động và học tập ngày một nhiều. Bởi lẽ gia đình cứ tưởng con em
mình đang vất vả, lao tâm khổ tứ cày trên giảng đường, luôn sợ con vất vả hơn bạn bè, gởi tiền
dư giả. Nào ngờ, một số bạn luôn ăn chơi sa đà, nhậu nhẹt đến suốt sáng, chơi bài bạc, game...
Chờ tới khi thi, nước tới chân mới nhảy.
2.1 Thực trạng lối sống sinh viên chia làm 3 loại ( Theo một nghiên
cứu của trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia
TP.HCM)
Thạc sĩ Nguyễn Ánh Hồng (Giảng viên Khoa Giáo dục học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và
Nhân văn - ĐH Quốc gia TP.HCM) vừa hoàn thành cuộc điều tra xã hội về lối sống của sinh
viên hiện nay. Sinh viên được chọn mẫu ngẫu nhiên tại ba trường thành viên (Trường ĐH Khoa
học Tự nhiên, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐH Bách khoa). Trên cơ sở
tìm hiểu sự lựa chọn các hoạt động cơ bản của sinh viên bằng phương pháp phân tích nhân tố và
phân tích phân loại đã cho thấy ba kiểu sống cơ bản của sinh viên TP.HCM hiện nay.
60% sống khép mình, ít tham gia hoạt động xã hội!
Kiểu sống của nhóm sinh viên này chiếm tỷ lệ cao nhất trong các kiểu sống của sinh viên tại
TP.HCM. Họ vẫn chú ý đến học tập và thường gặp gỡ, thăm hỏi bạn bè và người thân nhưng
thường trong phạm vi hẹp. Ngoài ra họ còn xem ti vi, đọc sách báo. Có điều họ ít tham gia vào
các hoạt động xã hội, chính trị, sinh hoạt tập thể. Đây là cách sống thiếu năng động, thiếu tích
cực, ít hòa nhập vào đời sống xã hội. Trước những sự kiện đang xảy ra xung quanh mình, họ
luôn tỏ thái độ bàng quan. Ngay cả lửa cháy như cháy Trung tâm Quốc tế ITC cũng không hề tác
động “xi nhê” gì đến họ!
Kết quả nghiên cứu trên còn cho thấy môi trường sống đã ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống của
sinh viên. Chẳng hạn, sinh viên sống cùng với gia đình thể hiện một lối sống chăm lo bản thân và
người thân, nhưng thiếu tích cực hòa nhập vào đời sống xã hội chung. Trong khi đó, những sinh
viên sống xa nhà lại gắn bó với cuộc sống tập thể và xã hội hơn. Do vậy, lối sống tích cực ở họ
cũng cao hơn hẳn những sinh viên cùng sống với gia đình. Đặc biệt môi trường sống ở ký túc xá
đã ảnh hưởng lớn đối với việc hình thành kiểu sống này.
10
10% sinh viên hướng vào vui chơi, hưởng thụ!
Gồm những sinh viên hướng hoạt động của mình vào việc vui chơi mang tính hưởng thụ, nhiều
khi vô bổ, ít chú ý đến việc mở mang kiến thức và hoàn thiện nhân cách. “Tớ chỉ thích điện thoại
nào đời mới...”, “Phim Hàn Quốc đang chiếu tới tập...”, “Hàng hiệu hợp thời ở chỗ...”. Đó là
những điều quan tâm thường trực trong đời sống hàng ngày của nhóm sinh viên này. Tuy vậy, họ
là những con người rất năng động, hứng thú với những hoạt động vui chơi, giải trí, hưởng thụ
những thú vui của tuổi trẻ, thể hiện một lối sống tiêu dùng "sành điệu". Lắm khi “ăn chơi” kiểu
bạt mạng đến quên cả lối về!
30% sinh viên say mê học tập?
Và ai cũng biết rằng trách nhiệm của người sinh viên hôm nay đến giảng đường là để học hỏi,
tìm kiếm một ngành nghề nào đó cho cuộc sống tương lai, hoặc để tự nâng cao kiến thức hiểu
biết Nhưng điều đáng tiếc đã xảy ra: chỉ có 30% trong số họ thực hiện được công việc này. Đây
là nhóm sinh viên có thái độ sống tích cực, năng động, có chí hướng và say mê học tập.
Những hoạt động của nhóm sinh viên này nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện cá nhân như
học thêm, làm thêm, đọc sách, đi thư viện. Đồng thời họ cũng thích xem biểu diễn nghệ thuật,
tham gia vào các hoạt động xã hội, câu lạc bộ, các lễ hội truyền thống Nhóm sinh viên này
hướng những hoạt động của mình vào mục đích thỏa mãn nhu cầu phát triển cá nhân, đồng thời
cũng có những hoạt động hướng ngoại tích cực như hướng đến những nơi giao tiếp công cộng,
đại chúng. Nơi họ đến và tham gia hoạt động là những tổ chức hoạt động chính quy với mục đích
lành mạnh.
2.2 Một số bộ phận có lối sống tha hóa, không đẹp- cần đáng lên án
Lối sống không đẹp thể hiện ngay từ những điều chúng ta tưởng như là những điều nhỏ nhặt
nhất mà nhiều khi chúng ta bỏ qua không để ý đến như: xả rác ra đường, không nhường chỗ cho
người già và phụ nữ mang thai khi trên xe buýt, thờ ơ trước những số phận kém may mắn…..
Cờ bạc, lô đề không phải là hiện tượng mới lạ gì trong giới sinh viên. Chỉ cần lượn một vòng
quanh các trường có nhiều nam sinh viên như đại học xây dựng, đại học giao thông vận tải… là
có thể thấy ngay dịch vụ lô đề trá hình dưới dưới các quầy bán sổ số mọc lên như nấm. Tầm từ
4h – 5h30, lực lượng nam sinh viên tạt ù vào các quầy này đánh mấy con lô có khi nhiều gấp
mấy lần số sinh viên đang… ngồi trên thư viện nghiên cứu. Một buổi tối ngồi cùng cánh sinh
viên trường đại học xây dựng, ta sẽ thấy giật mình khi được nghe kể những câu chuyện về mức
độ liều lĩnh trong cách “ ăn chơi” của một số “ hảo thủ” trường này đã được “ giang hồ” đồn thổi
thành giai thoại.
Hiện tượng sinh viên uống rượu đã trở thành chuyện thường ngày đối với nhiều người. Bất cứ
một dịp nào: sinh nhật, lễ tết, ngày cuối tuần… thậm chí không cần nhân dịp gì các sinh viên
cũng tụ tập chén tạc, chén thù. Sự thật đã có ba cậu sinh viên đại học xây dựng uống hết ba chai
rượu Lúa Mới ( loại một lít một chai ) trong buổi liên hoan chia tay một đồng chí lên đường “ về
quê mẹ” ( vì bị đình chỉ học một năm) mà đồ nhắm chỉ có vài củ lạc với vài quả khế. Uống xong,
cả bọn say xỉn, nôn mửa ra phòng khiến ai vô tình đi ngang qua sẽ cảm thấy kinh hãi với lối sống
buông thả của một bộ phận sinh viên hiện nay.
Ai cũng biết uống nhiều như vậy sẽ cực hại đến lục phủ ngũ tạng nhưng tất cả đều phớt lờ và cho
rằng “ vui là chính, sức khỏe là thứ yếu”. thậm chí những khi “ viêm màng túi”, nhiều sinh viên
còn đi mua những loại rượu rẻ tiền chỉ vài nghìn đồng/ lít là “rượu ít cồn nhiều”. Uống những
11
loại này, đầu đau như búa bổ, mắt nở hoa cà hoa cải vô cùng hại người. Biết thế, nhưng tất cả
đều bỏ qua, chỉ cần lúc “ trăm phần trăm” thấy vui là được. Mọi chuyện sau này đến đâu thì đến,
không cần quan tâm.
Tình yêu và vấn đề sống thử trong sinh viên cũng là vấn đề rất được quan tâm hiện nay , yêu
nhiều, yêu vô tội vạ, bạ đâu yêu đấy. Nghe có vẻ buồn cười nhưng đó là sự thật. Nhiều sinh viên
hiện nay quan niệm tình yêu đơn giản như mua một cái áo, sắm một cái quần. Thấy vừa, đẹp thì
“ mặc” lâu lâu một chút, không thấy ưng ý thì lại thay ra ngay và chuyển sang chiếc khác.
một bộ phận sinh viên hiện nay đang đánh đồng tình yêu với tình dục. Nhiều người trong số họ
quan hệ với bạn trai/ bạn gái mà thậm chí còn không nắm rõ quá khứ của nhau. Tiền sử những
bệnh lây truyền qua đường tình dục của đối phương lại càng mù mịt. Học thức cao nhưng không
ít đôi thiếu nghiêm trọng những kiến thức sinh sản giới tính. Hậu quả là tình trạng nạo phá thai ở
Việt Nam đứng hàng cao nhất thế giới và không ít “ nam thanh nữ tú” phải lén lút, vội vàng đến
những phòng khám hoa liễu chữa trị căn bệnh “ khó nói”. Khám chữa không đến nơi đến chốn,
nhiều bạn đã phải trả giá quá đắt cho những phút giây lầm lỡ khi không còn khả năng sinh con.
Nguy hiểm nhất là tình trạng “ tình cho không biếu không”, những cô gái có tiểu sử tình dục
không rõ ràng tự động đến sống chung với các nam sinh viên. Họ chỉ cần có chỗ ăn ở còn không
cần yêu cầu gì khác. Đây thực chất là những cô gái bán hoa đã hết thời tìm cách mồi chài, chéo
kéo những sinh viên vốn tò mò, thích của lạ. Đây là những đối tượng có nguy cơ bị nhiễm HIV
rất cao. Mới đây, cái chết của một nam sinh trường TL vì bị nhiễm HIV từ những cô gái “ cho
không biếu không” này đã dấy lên dư luận lo ngại trong xã hội về thực trạng nhức nhối này.
Một ví dụ : Thu Giang ( Đại học Ngoại Thương ), cô sinh viên gốc Hải Phòng có nước da trắng,
dáng người dong dỏng cao, có khuôn mặt khả ái được coi là người luôn biết sống hết mình. Cô
cười: “ Phải sống hết mình chứ! Cái gì cũng có cái giá của nó. Chẳng ai cho không ai cái gì bao
giờ…” Nói rồi cô nhảy lên sau chiếc xe của một anh chàng đi lẫn vào giữa dòng người. Còn
N.M.H ( Đại học Ngoại Ngữ Hà Nội), quê ở Yên Bái đã chuyển sang sống cùng người yêu ở
làng Phùng Khoang đã được gần 3 tháng. Hàng ngày đi học về, cô lo cơm nước, giặt giũ cho
người yêu. Nhiều khi bạn bè thấy cô vội vã, tất bật như người có gia đình. Cô cho rằng: “ Sinh
viên sống cùng người yêu chẳng có gì lạ, bạn bè mình đứa nào yêu cũng thế…”
12
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
3.1 Tính tiêu cực
Trước tiên ta đánh giá những nét tiêu cực trong đời sống sinh viên:
Tư tưởng là vấn đề đầu tiên và cũng là vấn đề lớn nhất cần bàn đến. Tư tưởng của một bộ
phận sinh viên còn lệch lạc. Dưới tác động ồ ạt của nền kinh tế thị trường, dường như giới trẻ
ngày nay luôn nhìn sự vật dưới con mắt của người tư bản. Họ còn nghi ngờ vào chế độ xã hội
chủ nghĩa. Đó là cái nhìn thiển cận, lệch lạc. Nhiều sinh viên đã đánh mất niềm tin vào chủ nghĩa
xã hội. Thử hỏi những người nắm trong tay vận mệnh của đát nước mà có những tư tưởng như
vậy thì tương lai của đất nước sẽ đi về đâu?
Sinh viên sùng bái đồng tiền, đi kèm với giá trị vật chất. Nét tiêu cực trong lối sống của sinh
viên còn thể hiện trong việc nhìn nhận một cách sai lầm về giá trị cuộc sống. Đó là hiện tượng
sùng bái giá trị và cho rằng “ những thứ không mua được bằng tiền thì mua được bằng nhiều
tiền, những thứ không mua được bằng nhiều tiền thì mua được bằng rất nhiều tiền, những thứ
không mua được bằng rất nhiều tiền thì mua được bằng rất rất nhiều tiền” rồi lại “ tiền là tiên là
phật, tiền là sức bật của lò xo, tiền là thước đo của tuổi trẻ” dường như chỉ có tiền và tiền là nhất.
Nhiều thanh niên lấy đồng tiền là thước đo giá trị trong cuộc sống, sống không có lý tưởng hoặc
lý tưởng chính là những yếu tố thực dụng như tiền bạc, danh vọng và địa vị. Coi trọng giá trị vật
chất, xem thường giá trị tinh thần, ít nghĩ tới lợi ích chung nên họ quên đi những tình cảm thiêng
liêng chung quanh mình, quên đi những mối quan hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Đó là thước
đo giá trị của xã hội tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội ấy kẻ có tiền là kẻ mạnh. Chính vì thế, không
ít sinh viên con nhà giàu đã sử dụng đồng tiền gây ra nhiều chuyện sai trái có liên quan đến đạo
đức như mua điểm, chèn ép bạn bè… Lối sống hưởng thụ dẫn đến nhiều vấn đề tiêu cực khác
trong sinh viên: tệ nạn xã hội, thái độ không đúng đắn đối với lao động xảy ra nhiều trong sinh
viên.
Chủ nghĩa cá nhân có xu hướng tăng trong giới trẻ ngày nay. Trào lưu dân chủ hóa, làn sóng
công nghệ thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt rõ
trong những người trẻ có học vấn là sinh viên. Họ tự ý thức cao về bản thân mình và muốn thể
hiện vai trò cá nhân. Nhiều người chỉ quan tâm đến những lợi ích cá nhân trước mắt mà quên
mất lợi ích tập thể, thậm chí chà đạp lên lợi ích của người khác. Vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân,
13
một số thanh niên còn bất chấp cả: pháp luật, gia đình, bạn bè…khi trả lời câu hỏi “ việc làm khi
ra trường bạn muốn?”, hơn một nửa các bạn trẻ muốn có công việc nhiều tiền, chỉ có 24% muốn
chọn công việc có thể cống hiến và phục vụ cho xã hội. Đây là một lối sống không tôt vì tiền mà
bỏ qua các lợi ích xã hội. Một số khác sống không động chạm đến ai, nhưng cũng không quan
tâm đến ai họ thu mình lại như những con ốc, sống khép kín. Họ ít trò chuyện, đi chơi cùng bạn
bè. Chỉ cần biết đến mình, còn người khác thì mặc kể kiểu “ đèn nhà ai nấy rạng”. Dường như có
sự đề cao lợi ích cá nhân hơn nghĩa vụ cá nhân. Sự hy sinh và quan tâm đến người khác thấp đi,
và nếu có thì đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ. Nó thể hiện
ngay trên những chỗ công cộng như xe buýt… Sinh viên, giới trẻ như đang áp dụng phương
pháp “ không nghe, không nhìn, không thấy”, những việc của người khác thì tốt nhất không nên
xen vào không sẽ bị thiệt thân ( thấy đánh nhau thì tránh xa, thấy người ta móc túi thì coi như
không biết…). Nói một cách khác dưới ảnh hưởng của xã hội giới trẻ như bị “ vô cảm” trước
mỗi việc đang xảy ra . Điều đó cũng khó mà chấp nhận được trong một đất nước theo chế độ xã
hội chủ nghĩa. Nhưng ngược lại những người có quan điểm “ sống hết mình, chơi hết mình, yêu
hết mình” theo trường phái con hổ cũng dễ rơi vào cạm bẫy mà người ta đã giăng ra dẫn tới hậu
quả khó lường.
Sinh viên – một lối sống vị kỉ
Lối sống thực dụng trong sinh viên bắt nguồn từ cuộc sống gắn với sự phát triển của nền kinh
tế thị trường. Sùng bái đồng tiền, làm tất cả để đạt được mục đích của mình bất chấp thủ đoạn;
coi những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong cuộc sống là tất yếu không những không thể thiếu mà
còn rất quan trọng và hữu ích trong việc đạt mục đích cá nhân nếu mình không chạy theo sẽ chỉ
có thiệt thòi cho bản thân, trước tiên mình phải nghĩ đến bản thân mình đã. Cái nhìn thực tế
không ảo tưởng viển vông, không mơ mộng hóa sự việc là điều tốt, song tới mức thực dụng thì
lại là chuyện khác.
Sinh viên – một lối sống tha hóa dễ dãi không coi trọng giá trị đạo đức truyền thống, phong
tục tập quánCó nhiều sinh viên với lối sống quá dễ dãi, chạy theo trào lưu ( ví dụ như “sống thử”
), những mặt tích cực của nó không đáng kể gì so với những mặt tiêu cực của nó. Cách sống này
không được xã hội chấp nhận, phong tục, tập quán của Việt Nam không phù hợp với lối sống
này. Có rất nhiều ý kiến, đánh giá được đưa ra cho “ sống thử”, đều là những ý kiến không tán
thành. Người phải chịu thiệt thòi nhiều nhất là người con gái, sau một thời gian sống thử, họ bị
tổn thương về mặt tình cảm, suy sụp tinh thần, còn có nhiều hậu quả khó lường khác có thể xảy
14
đến trong tương lai ( nhiều người không thể sinh con do lạo phá thai trong quá trình sống thử).
Sinh viên chắc hẳn ai cũng biết được những tác hại đó nhưng họ vẫn làm.
Thái độ bi quan, chán đời xuất hiện ở một số sinh viên cũng cần phải phê phán. Trong khi
phần lớn thanh niên đều cố gắng sống và học tập vì tương lai, ít nhất vì lợi ích của bản thân, thì
lại có những người chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt không đâu mà không tha thiết gì cuộc sống.
Đôi khi chỉ vì thất tình hay không đạt được một điều mong muốn mà họ co mình lại thay đổi thái
độ của bản thân thờ ơ với cuộc sống xung quanh, tinh thần suy sụp, thậm chí nhiều người ngốc
nghếch suy nghĩ không thông còn tìm đến cái chết. Những chuyện tương tự như thế nghe thật
nực nực cười nhưng không thể không nhắc tới. Theo các con số thống kê thì các vụ tự tử trong
sinh viên xảy ra ngày càng nhiều, nguyên nhân của các vụ tự tử đó thường là do chuyện tình cảm
đổ vỡ. Hoặc khi có một điều gì xảy không như họ mong muốn họ sẵn sàng quên đi mục đích, lý
tưởng của mình chán đời, họ lăn vào những cuộc chơi vô đối.
Qua đây ta có đưa ra lời nhắc nhở đối với những ai đang có quan điểm sai lầm “ Hãy sống lại,
sống theo một cách đúng nghĩa của nó, đừng để mọi chuyện đi qua rồi ngoảnh đầu tiếc nuối”.
3. 2 Tính tích cực ( tốt và phù hợp ) :
Không thể xét một vấn đề đơn giản trên một khía cạnh mà phải cân nhắc nó trên nhiều mặt,
không thể chỉ nhìn vào mặt tốt, tích cực mà quên đi những điều còn tồn đọng, mặt tiêu cực và
ngược lại. Ta tiếp tục đánh giá mặt tích cực trong lối sống của sinh viên:
Như chúng ta đã biết bao đời nay có biết bao nhiêu anh hùng trẻ làm nên lịch sử của đất nước.
Từ thời phong kiến đã xuất hiện những anh hùng thiếu niên, không chịu bán nước quyết giữ
nước như Trần Quốc Toản. Là một cậu bé 15 tuổi nhưng đã muốn ra trận cứu nước, nghe các
quan thần bàn về việc nước mà bóp nát quả cam trong tay khi nào không hay. Đến thời kỳ nước
ta bị thực dân pháp và đế quốc Mỹ chiếm đóng những con người trẻ, những người vô cùng yêu
nước đã không nề hà hiểm nguy đã đóng góp tuổi trẻ của mình cho đất nước. Không phân biệt
trai gái, người ra trận trực tiếp chiến đấu, người ở lại củng cố hậu phương, người tham gia công
tác liên lạc, hoạt động trong công tác tình báo… Cũng có những người bỏ lại tuổi trẻ của mình ở
chiến trường như chị Đặng Thị Thùy Trâm – một cô sinh viên Hà Nội đã tình nguyện ra chiến
trường rồi để lại tuổi 20 tuổi đẹp nhất trong tiếng bom đạn. Hay những em bé dù ít tuổi nhưng đã
bộc lộ cách sống đẹp của mình: Kim Đồng – một em bé làm công tác liên lạc, cũng đã hi sinh
trong một lần đang làm nhiệm vụ. Và giờ đến sinh viên ngày nay, mỗi thời một khác nhưng họ
15
vẫn mang trong mình dòng máu của người Việt Nam nên phần nào họ vẫn kế thừa được những
truyền thống tốt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam với sứ mệnh trụ cột của đất nước.
Điểm nổi bật đầu tiên khi chúng ta nghĩ về sinh viên đó là những con người năng động và
sáng tạo. Chính sinh viên là những người tiên phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi mới về
kinh tế, giáo dục… Trong đầu họ luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi
cơ hội để biến các cơ hội đó thành hiện thực. Không chỉ chờ đợi cơ hội đến, họ còn tự mình tạo
ra cơ hội. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh sáng chế; và không ít trong số những
phát minh ấy được áp dụng, được biến thành sản phẩm hữu ích trong thực tiễn. Với thế mạnh là
được đào tạo vừa toàn diện vừa chuyên sâu, sinh viên có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế, xã hội của đất nước. Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương pháp học
sao cho lượng kiến thức họ thu được là tối đa. Không chờ đợi, thụ động dựa vào thầy cô, họ tự
mình đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ mọi nguồn. Phần lớn sinh viên đều có khả
năng thích nghi cao với mọi môi trường sinh sống và học tập. Họ không chỉ học tập trong phạm
vi hẹp ở trường, lớp, giới trẻ ngày nay luôn phát huy tinh thần học tập ở mọi nơi, mọi lúc, nhiều
sinh viên còn học một lúc hai ba trường đại học. Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân loại, sinh
viên Việt Nam còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác như văn hóa, nghệ
thuật… Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham gia các hoạt động xã
hội như y tế, từ thiện… Ngoài giờ học, những sinh viên, những tuyên truyền viên hiến máu nhân
đạo lại ngược xuôi đi mang kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi nhà. Không chỉ thế, mùa
hè sẽ có ý nghĩa hơn khi sinh viên đem lòng nhiệt huyết cháy bỏng của mình cho hoạt động tiếp
sức mùa thi hay đem tri thức, sức lực của mình đến những miền quê giúp đỡ những người nông
dân… Bằng sự năng động, sinh viên luôn cập nhật thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp
với sự thay đổi và phát triển của xã hội. Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu điểm nổi
bật làm lên lối sống tích cực của sinh viên Việt Nam thời đại mới.
Sinh viên Việt Nam chăm chỉ, muốn tự lập và khẳng định bản thân. Ngoài việc hoàn thành tốt
công việc học tập ở trường sinh viên còn tìm kiếm các công việc làm thêm như: gia sư, làm tiếp
thị, marketing…để kiếm thêm thu nhập và trau dồi kinh nghiệm cho bản thân là tiền đề để sau
khi ra trường dễ dàng thích ứng với môi trường, tìm được công việc phù hợp. Có những sinh
viên muốn ra ngoài ở trọ không muốn phụ thuộc vào gia đình, muốn tự mình kiếm sống để lấy
tiền đóng học. Có thể trên bước đường đầu tiên họ có thể vấp ngã, không dễ dàng gì vượt qua
16
nhưng họ đã cố gắng không chịu khuất phục để đạt được mục tiêu của mình. Và họ đã có thành
công trong cuộc sống.
Sinh viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu thử thách. Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm trong
suy nghĩ mà luôn được thử nghiệm trong thực tế. Có thể thành công hoặc thất bại, song họ không
hề chùn bước. Với họ, mỗi lần thất bại làm họ tự tin hơn với nhiều kinh nghiệm hơn. Táo bạo
nhưng không liều lĩnh, trước khi thực hiện một việc gì, họ luôn tính toán, xem xét vấn đề một
cách thận trọng. Nói rằng táo bạo, nghĩa là trước đó chưa có ai dám làm dám thử nghiệm, họ là
người đầu tiên thực hiện, chứ không phải họ đâm đầu thực hiện một việc mà họ không biết tỉ lệ
thành công của mình. Khi cảm thấy mình đã có đủ mọi điều kiện cần thiết, họ mới bắt tay vào
thực hiện. Một điều quan trọng đáng nói ở đây, đó là nếu gặp rủi ro thất bại thì họ sẵn sàng chấp
nhận như một chuyện đương nhiên tất yếu sẽ xảy ra, tức là có thất bại thì thất bại ấy cũng nằm
trong kế hoạch. Họ dám nhìn thẳng vào thất bại, đương đầu và vượt qua nó, không chịu bị gục
ngã. Có nhiều sinh viên vẫn ngồi trên ghế giảng đường đại học mà đã dám thành lập công ty ( dù
là nhỏ), để tự mình thử thách, làm giàu.Tóm lại, táo bạo và tự tin cũng là điểm rất đáng quý trong
lối sống của sinh viên Việt Nam. Nó giúp con người ta vươn lên trong cuộc sống.
Một câu hỏi vẫn thường được đặt ra là: sinh viên hôm nay sống có lý tưởng không, lý tưởng
ấy là gì, có sự phù hợp giữa lý tưởng cá nhân với lý tưởng của dân tộc của nhân loại không. Có
thể khẳng định là có, chính những lý tưởng này mà con người phấn đấu hơn trong cuộc sống,
đính hướng cho lối sống của mỗi người làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
3.3 Nguyên nhân của vấn đề.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những lối sống khác nhau của sinh viên. Sau đây là một số
nguyên nhân dẫn đến lối sống tiêu cực của sinh viên Việt Nam:
a)Nguyên nhân khách quan:
+ Nguyên nhân từ gia đình:
Quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong xã hội ngày nay khá lỏng lẻo do cha mẹ không có nhiều
thời gian quan tâm chăm sóc con cái. Bên cạnh đó, sự thiếu gương mẫu của người lớn cũng có
tác động không tốt tới sự hình thành nhân cách trong con trẻ. Một đứa bé được lớn lên trong môi
trường ( gia đình, xã hội) còn nhiều bất cập ắt sẽ biến thành những công dân chưa thực sự trân
trọng những giá trị đạo đức và nhân văn. Có những gia đình quá chiều con để cho con cái sống
quá đầy đủ về mặt vật chất, muốn gì cũng có tạo cho trẻ một thói xấu, và muốn tìm tòi những thứ
17
mới lạ bên ngoài. Nhiều bậc cha mẹ có quan niệm sai lầm là con mình đã lớn không cần phải
quản nữa để tự do thích làm gì thì làm.
+ Nguyên nhân từ môi trường bên ngoài tác động đến sinh viên:
Phần đông sinh viên phải đi học xa nhà, không có ai quản, thiếu sự quan tâm, chăm sóc của
bố mẹ. Bước vào một môi trường mới có nhiều cám dỗ không lường trước được, dễ sa ngã, học
đòi bạn bè xấu. Một số sinh ra cách sống đơn độc, nhút nhát, khó gần; số khác sẽ tụ tập với
những người có cùng hoàn cảnh, tâm trạng với mình để quậy phá xưng hùng, xưng bá, sống bất
cần đời. Và để lấy “ số má” với bạn bè, chúng sẽ làm bất cứ gì, chơi bất cứ thứ chi để chứng tỏ “
đẳng cấp”, “ thua trời một vạn không bằng kém bạn một li”.
+ Nguyên nhân từ nhà trường:
Nhà trường hiện nay cũng chỉ đề cao việc nhồi nhét kiến thức, đề cao việc “ đào tạo nguồn
nhân lực để đáp ứng nhu cầu nhân lực của nền kinh tế”. Việc giáo dục đạo đức, giáo dục công
dân cho người học gần như bị bỏ quên hoặc bị xem là thứ yếu. Và đặc biệt là đối tượng sinh viên
đã 18 tuổi trở lên có đầy đủ các quyền về dân sự và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nên sự
lỏng lẻo trong việc giáo dục và định hướng cũng ít đi. Lối sống tha hóa đạo đức của một bộ phận
không nhỏ của giới trẻ trong xã hội ta có một nguyên nhân cần nhấn mạnh là do ảnh hưởng của
những gì đang diễn ra trong cuộc sống hiện nay.
+ Nguyên nhân từ xã hội:
Là nguyên nhân chúng ta khó có thể kiểm soát và điều chỉnh nhất. Nếu chúng ta nhìn vào
những gì đã và đang diễn ra hằng ngày sẽ thấy những hiện tượng tha hóa đạo đức không phải là
hành động bộc phát, mà hầu như chúng tuân theo “ quy luật nhân quả”; những hành vi đáng tiếc
đó được lập trình từ trước do những ảnh hưởng không mong muốn của xã hội. Lối sống tha hóa
đạo đức đó là do ảnh hưởng của cuộc sống hiện đại. Có nhười đã nói: cuộc sống càng hiện đại
bao nhiêu thì giới trẻ ngày càng hư hỏng bấy nhiêu. Và cuộc sống càng văn minh hiện đại bao
nhiêu thì hình như con người càng làm nô lệ cho nhiều thứ chán nản, thất vọng. Khi đó họ tìm
đến rượu bia, xì ke, ma túy, thuốc lắc, ăn chơi trác táng. Xã hội cũ liệu sinh viên có biết đến và
thường xuyên ghé thăm các vũ trường, sàn nhảy như bây giờ không?
Hơn nữa, do cuộc sống trong cơn lốc của nền kinh tế thị trường, giới trẻ khó đứng vững được
trước những thay đổi chóng mặt của nó. Họ phải chạy theo giá trị vật chất, những thứ đảm bảo
cho một cuộc sống thoải mái hơn về tiện nghi. Với xu thế đó, họ không có thời gian để thưởng
18
thức những giá trị tinh thần cao đẹp như những liều thuốc an thần. Thay vào đó, họ cứ lao đầu
vào dòng đời ngược xuôi tốc độ, cạnh tranh. Trong thời đại này, ai bình chân người đó sẽ chết
đói, có người cho rằng “ thật thà ăn cháo, láo nháo ăn cơm”; nếu cứ sống một cách lương thiện
thì áo chẳng có mà mặc, cơm chẳng có mà ăn, nói chi là “ ăn no mặc ấm, ăn sung măc sướng”.
Nhìn vào thực tế, ta thấy được những hậu quả do sự phát triển của xã hội, do lối giáo dục từ
chương, nhồi sọ, và do cơ chế quản lý. Đó là một lối sống buông thả, gian lận thương trường và
hưởng thụ quá độ. Những vụ việc như “ múa kiếm”, tham ô tham nhũng của người lớn được du
di cho qua không thể không khiến người trẻ nghĩ rằng “ làm sai cũng chẳng sao cả”, vì đâu có
thấy những hành vi đó bị trừng phạt thích đáng. Hơn nữa, do hội nhập văn hóa làm cho giới trẻ
sống “ tây hóa” không còn biết đến nền tảng đạo đức của con người. Nếu không thích nghi với
cuộc sống xã hội đang ngày càng thay đổi một cách chóng mặt thì con người sẽ tự bị xã hội đào
thải nhưng nếu thích ứng một cách không có chọn lọc thì những cái xấu sẽ lan nhanh hơn cái văn
minh mà ta hướng tới.
Từ những nguyên nhân này ta có thể tìm những biện pháp giải quyết để lối sống của sinh viên
tốt hơn. “ Sống đẹp ngay từ khi…con nít”, hình thành bản lĩnh con người.
b)Nguyên nhân chủ quan ( từ phía bản thân )
Do lối sống thiếu ý thức, sống buông thả, đua đòi; đặc biệt là các bạn lạm dụng tự do để làm
những chuyện phi đạo đức. Và các bạn đã hiểu sai cái tự do đó, tự do không phải làm những gì
mình thích, tự do phải là một giá trị để đảm bảo hạnh phúc của mình và người khác. Nói như
Jean Cocteau: “ Cái thảm kịch của giới trẻ, chính là giới trẻ bị đặt vào tình trạng không thể
không vâng lời vì sự tự do quá đáng”. Cũng có nhiều sinh viên có ý nghĩ thi đỗ đại học bước
sang một trang mới không cần phải phấn đấu nữa, mà phải ăn chơi cho thỏa những ngày học tập
vất vả nên sa đà vào những trò vui không rút chân ra được. Khi đã thi đỗ đại học không ít người
được thưởng những thứ này thứ kia, muốn gì được đấy dễ hư hỏng. Bản thân các bạn trẻ không
muốn sống khác thì khó có thể tạo ra một lối sống mới.
3.4 Biện pháp khắc phục
Một trong những giải pháp cụ thể để ngăn chặn lối sống phóng túng tiêu cực của sinh
viên thời nay đó là:
19
-
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng về chính trị cũng như những tư tưởng
đúng đắn mà Bác đã dạy sinh viên chúng ta. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức
cho thế hệ trẻ trong gia đình và nhà trường về tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao tính tự
giác, đoàn kết, kỷ luật…bằng cách biểu dương, khen thưởng những tấm gương sinh viên trong
học tập, lao động, tạo nhiều sân chơi bổ ích, nhiều hoạt động thu hút sinh viên để góp phần xây
dựng lý tưởng sống đẹp, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, thăn hỏi động viên
những sinh viên lầm đường lạc lối để học tự tin hơn trong cuộc sống
-
Nhà trường cũng góp phần tạo điều kiện cho sinh viên học tập phát triển tài năng, đặc
biệt là việc phát huy các phong trào vượt khó hay tổ chức các kỳ thi Olympic môn học để chọn
các tài năng trẻ trong nghiên cứu khoa học.
-
Tích cực đấu tranh chống các hình thức mê tín dị đoan, sử dụng văn hóa phẩm độc hại
trong sinh viên. Bằng cách tổ chức, cổ vũ sinh viên tham gia thực hiện cuộc vận động “tuổi trẻ
sống đẹp” hay “sống và làm việc theo pháp luật”; xây dựng chế độ tự quản trong sinh viên, đăng
ký thực hiện các quy tắc về nếp sống văn hóa trong nhà trường, ký túc xá, trong gia đình, trên địa
bàn mà sinh viên đang cư trú.
-
Bên cạnh đó chúng ta phải đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên
bằng cách tổ chức thường xuyên các buổi sinh hoạt, học tập ngoại khóa để phổ biến về pháp luật
cho sinh viên.
20
CHƯƠNG 4 : QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN
Bản thân em là một sinh viên năm thứ 3 , cuộc sống sinh viên không còn gì là mới lạ , trải
nghiệm được phần nào cuộc sống sinh viên khi xung quanh mình là những người cũng là sinh
viên , cùng mục đích . Lối sống sinh viên hiện nay không chỉ có những mặt tiêu cực , những lối
sống xấu xa , tha hóa ở 1 số bộ phận sinh viên , mà bên cạnh đó còn có những lối sống tích cực,
lành mạnh đáng được nêu cao
Sinh viên ngày nay có rất nhiều cơ hội để khẳng định mình trong một môi trường xã hội
mới. Cái mà nhiều năm trước đã không có, đó là sự phổ cập của Internet. Đáng lẽ ra, đó là công
cụ để phát triển tri thức, cập nhật những thành công, mở rộng hiểu biết và quan hệ,... nhưng bây
giờ lại có quá nhiều sinh viên và học sinh sử dụng Internet làm công cụ giải trí quá tốn thời gian,
sức lực và tiền bạc như game online , sinh viên chơi game đến suy nhược sức khỏe, kết quả học
tập yếu kém, lừa lọc và mua bán đồ đạc ảo bằng tiền thật… Từ những điều bức xúc đó, làm thế
nào để quản lý Internet tốt hơn? Câu hỏi có lẽ chỉ có thể giải quyết được khi chúng ta bắt đầu từ
các đối tượng là sinh viên, học sinh. Tại sao ở các giảng đường ĐH, Đoàn thanh niên, Hội Sinh
viên lại không tìm ra các giải pháp để giải quyết vấn đề này, ví dụ như tổ chức các buổi nói
chuyện về tác dụng, tác hại của Internet, "quy hoạch" những đối tượng chơi game quá lãng phí
thời gian... giúp đỡ họ tìm lại cuộc sống tươi đẹp của sinh viên, nâng cao thành tích trong học tập
Để sống đẹp không phải là điều đơn giản. Ai cũng biết sống đẹp là như thế nào, nhưng không
phải ai cũng biết sống thế nào cho đẹp. Bởi lẽ cuộc sống hiện tại quá hỗn tạp, có nhiều luồng tư
tưởng khác nhau, hoặc đồng điệu hoặc trái ngược nhau. Có những người sống thiên về vật chất
mà vô tình đánh mất đi vẻ đẹp của tâm hồn. Trong khi sống đẹp đòi hỏi chúng ta phải thực sự
tỉnh táo, biết nhận thức, biết yêu
thương,biết
giữ
mình
khỏi
những
cám
dỗ
của
xã
hội.
Sống đẹp không phải là chuyện một ngày, một bữa. Chúng ta không thể trở thành người sống
đẹp chỉ trong một ngày, một giờ. Cần phải nhận thức đúng và rèn luyện thường xuyên. Lâu ngày
sẽ trở thành thói quen, lối sống của ta sẽ dần được cải thiện. Sống đẹp không khó; chỉ khó khi ta
lười biếng, e ngại hoặc chưa đủ quyết tâm, dễ dàng bỏ cuộc, buông xuôi, mặc cho dòng đời xô
đẩy.Cuộc đời bạn phải do bạn quyết định. Có sống đẹp hay không cũng do bạn .
Em thấy rằng hiện nay các cái tôi của sinh viên quá lớn, lợi ích cá nhân lúc nào cũng được
đặt lên trên vì thế mà nhiều sinh viên đã cư xử thiếu ý thức nơi công cộng.
21
Có ý kiến cho sinh viên Việt Nam có thể gọi là lạc lối, vì không biết nên làm gì, làm như thế
nào và làm ở đâu , họ chỉ có thể đi theo con đường mà họ thấy trước mắt, được đúc kết từ những
kĩ năng sống và kiến thức xã hội mà họ có, thực sự là rất nghèo nàn. Em thấy điều này phần nào
đúng vì thực sự những kiến thức và kĩ năng sau này ra ngoài làm việc chúng em còn thiếu rất
nhiều
Nguyên nhân ở đây có thể là từ lối học tập và giảng dạy thiếu sáng tạo, làm mất đi khả năng
sáng tạo và năng động của sinh viên , và sau này là sinh viên & thiếu nơi sinh hoạt và hướng dẫn
các
hoạt
động
tập
thể
cùng
những
kĩ
năng
mềm
cần
thiết.
Việt Nam đang trên đường hội nhập kinh tế, trước sự du nhập của văn hoá nước ngoài, trong khi
văn hoá, bản sắc của nước mình không nắm rõ thì không lấy làm lạ khi tư tưởng của giới trẻ hiện
nay trở nên như thế. những người đã nhận thức được văn hoá quốc gia, nhận ra mình là ai trên
thế giới này thì phải góp phần giúp đỡ cho những người xung quanh mình chưa biết nên đi đâu,
và đi như thế nào.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguồn internet:
/> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> />Sách:
Giáo trình Xã hội học đại cương - TS. Tạ Minh – TP Hồ Chí Minh 2007.
23