Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Luận văn thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.8 KB, 71 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự đối với doanh

1
10
10

nghiệp
1.2

Nội dung cơ bản của pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp

23

Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1

Tình hình thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố

36

Hải Phòng
2.2

Đánh giá về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố


Hải Phòng

36

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU
QUẢ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
3.1

Định hướng tăng cường hiệu quả thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp

3.2

Một số giải pháp tăng cường hiệu quả thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp

43

50

KẾT LUẬN
50
53
64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

65


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


THA

Thi hành án THADS

Thi hành án dân sự UBND
nhân dân HĐND
dân TTTM
BCĐ
TAND

Ủy ban
Hội đồng nhân

Trọng tài thương mại
Ban chỉ đạo
Tòa án nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là một giai đoạn – giai đoạn cuối cùng của quá
trình tố tụng, là hoạt động đưa bản án, quyết định về dân sự của tòa án, trọng tài thương
mại, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành trên thực tế. THADS có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói riêng và hoạt động tư pháp nói chung,
bảo đảm cho bản án, quyết định của tòa án, trọng tài thương mại, hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh được chấp hành nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mọi cá
nhân, tổ chức, nhà nước, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Yêu cầu thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của tòa án, trọng tài thương
mại, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã trở thành nguyên tắc hiến định: từ Hiến

pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến Hiến
pháp năm 1992 (Điều 136) và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013 (Điều
106). Đồng thời thể chế hóa các đường lối, chính sách đó bằng việc ban hành nhiều văn
bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao để điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực
này như Pháp lệnh THADS năm 1989, Pháp lệnh THADS năm 1993, Pháp lệnh
THADS năm 2004, Luật THADS năm 2008 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật THADS năm 2014.
Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự cùng với
những chủ trương, chính sách sách của Đảng và Nhà nước, các văn bản pháp luật về thi
hành án dân sự đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng và hữu hiệu để các cơ quan THADS
cũng như các chấp hành viên, các cán bộ, công chức trong các cơ quan THADS thực hiện
tốt các chức năng, thẩm quyền của mình. Các văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý
cho việc đổi mới về tổ

1


chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; xác định rõ hơn địa vị pháp lý
của các chủ thể đối với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong các quyết định
THADS. Từ đó cơ cấu và hoạt động của các cơ quan THADS ngày càng được hoàn
thiện hơn, ý thức của các cá nhân, tổ chức về THADS ngày càng được nâng lên rõ rệt.
Nhiều bản án, quyết định của tòa án, trọng tài thương mại được thi hành theo đúng nội
dung của bản án, quyết định; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức và nhà nước; thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; củng cố niềm tin của nhân
dân; góp phần đảm bảo an ninh, trật tự xã hội; giữ gìn kỷ cương, phép nước, xây dựng
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dân chủ, công bằng, văn minh.
Hải Phòng là thành phố ven biển nằm ở phía Đông miền duyên hải Bắc Bộ, có dân
số đông. Là một trong 5 thành phố lớn trực thuộc trung ương và là một đô thị trung tâm
cấp quốc gia, là thành phố lớn thứ 3 của Việt Nam, có vị trí quan trọng về kinh tế xã hội và
an ninh, quốc phòng của vùng Bắc bộ và cả nước. Là thành phố cảng, của chính ra biển

quan trọng của nước ta, là đầu mối giao thông quan trọng vùng Kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ, trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam – Trung Quốc.
Hải Phòng là đầu mối giao thông đường biển phía Bắc. Với lợi thế cảng nước sâu nên
vận tải biển rất phát triển, đồng thời là một trong những động lực tăng trưởng của vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nền kinh tế của Hải Phòng nói riêng và của cả nước nói
chung đã và đang đạt được những kết quả nhất định, tạo được những bước đột phá về
kinh tế. Hàng năm hàng trăm doanh nghiệp mới được thành lập, nhiều công ty, tập đoàn
lớn không những được trong nước biết đến mà còn vươn ra thị trường quốc tế và khu
vực. Tuy nhiên, hiện tại và tương lai cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức, đặc biệt là sự kiện gia nhập TTP – Hiệp định Hợp tác kinh tế chiến lược
xuyên Thái Bình Dương.

2


Trong những năm qua, công tác THADS ở thành phố Hải Phòng đã đạt được những
kết quả đáng ghi nhận: tỷ lệ án thi hành xong tăng cao, cả về việc và về tiền; nhiều việc
tồn đọng, phức tạp kéo dài đã được thi hành dứt điểm. Kết quả này đã phần nào phản ánh
những nỗ lực, cố gắng của ngành tư pháp thành phố Hải Phòng nói chung và của lĩnh vực
THADS nói riêng; phản ánh sự quan tâm, phối kết hợp chặt chẽ của các cấp ủy đảng,
chính quyền địa phương, các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện pháp luật THADS.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác THADS, đặc biệt đối với
doanh nghiệp ở Hải Phòng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập; phần lớn chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lượng án tồn đọng còn lớn, án phức tạp, kéo dài
còn chưa giải quyết được, gây bức xúc, mất niềm tin trong nhân dân. Nguyên nhân chủ
yếu của thực trạng trên đó là: hệ thống pháp luật hiện hành THADS còn thiếu tính khả
thi, thiếu đồng bộ với các Bộ luật và Luật khác, nhiều điểm còn bất cập, lại hay sửa đổi;
một bộ phận không nhỏ các chấp hành viên, cán bộ THA còn thiếu tinh thần trách
nhiệm, sự tận tâm trong công việc và còn nhiều hạn chế về năng lực làm việc. Mặt khác,
hoạt động của Ban chỉ đạo (BCĐ) thi hành án nhìn chung chưa thật sự hiệu quả; sự nhận

thức của cấp ủy, chính quyền địa phương về trách nhiệm của mình trong tổ chức, chỉ
đạo hoạt động THADS còn nhiều hạn chế….Những nguyên nhân trên đã dẫn đến
thực trạng hoạt động THADS nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng còn nhiều bất
cập và chưa hiệu quả. Thực tế trên đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng thực hiện
pháp luật về THADS đối với doanh nghiệp đảm bảo cho các bản án, quyết định của tòa án
(TA), trọng tài thương mại (TTTM) đã có hiệu lực, đặc biệt đối với doanh nghiệp tại
Hải Phòng được thực hiện trên thực tế.
Xuất phát từ thực tiễn đó tác giả lựa chọn đề tài: “Thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” là đề tài luận văn

3


thạc sỹ của mình. Đây là vấn đề nổi cộm, phức tạp và liên quan đến rất nhiều lĩnh vực,
khoa học chuyên ngành khác nhau như: quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý hành
chính nhà nước…. Tuy nhiên, với phạm vi của luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ giới hạn nội
dung nghiên cứu về thực trạng THADS đối với doanh nghiệp với tư cách là người phải
thi hành án từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. Đồng thời kiến nghị những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói chung và thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện pháp luật luôn được coi là một vấn đề
quan trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và là nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Nhà
nước, các tổ chức xã hội và công dân. Nghiên cứu chuyên biệt về THADS đối với
doanh nghiệp là đề tài tương đối mới, cho đến khi tác giả tìm hiểu về đề tài này, chỉ có một
số ít công trình khoa học pháp lý đề cập đến vấn đề này như:
Đề tài khoa học cấp Nhà nước do Bộ Tư pháp chủ trì “Luận cứ khoa học của
việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới”. Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác Thi hành án” do
Cục quản lý THADS – Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp

Bộ: “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại” do Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện.
Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: “Thi hành án dân sự, thực trạng, hướng hoàn
thiện” của Dự án VIE/98/001 do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện.
Công trình nghiên cứu khoa học khác như: Luận án Tiến sĩ năm 2008 : “ Hoàn
thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh
Thủy, luận án tiến sỹ năm 2008: “Hiệu quả áp dụng pháp luật

4


Thi hành án dân sự ở Việt Nam” của tác giả Đặng Đình Quyền. Luận văn thạc sỹ năm
2015: “Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay” của tác giả Bùi
Ngọc Hiếu. Luận văn thạc sỹ năm 2015: “Kiểm sát thi hành án dân sự từ thực tiễn thành
phố Hải Phòng của tác giả Lê Thị Tuyết Thanh. Luận văn thạc sỹ năm 2005: “Cơ sở
lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự của Việt Nam
hiện nay” của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, luận văn thạc sỹ năm 2013: “Các biện pháp
cưỡng chế thi hành án nghĩa vụ trả tiền”; “Luật Thi hành án dân sự Việt Nam những
vấn đề lý luận và thực tiễn” xuất bản năm 2007 sách chuyên khảo do Nguyễn Công
Bình chủ biên.
Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề chung của
thực hiện pháp luật, những vấn đề mang tính tổng thể hoặc những khía cạnh khác nhau,
phạm vi cụ thể khác nhau của THADS. Một số đề tài cũng đã nghiên cứu chuyên sâu,
nhưng chỉ để cập đến nội dung các quy định về kiểm sát thi hành án dân sự, các biện
pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án hay những vấn đề lý luận
và thực hiện pháp luật thi hành án dân sự… Tuy nhiên, nghiên cứu một cách hệ thống
dưới góc độ khoa học pháp lý về mặt lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật THADS
đối với doanh nghiệp, tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động
THADS đối với doanh nghiệp và đưa ra các quan điểm, giải pháp cụ thể, đồng bộ
nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động THADS đối với doanh nghiệp. Lại càng chưa có

công trình nào tiến hành nghiên cứu các vấn đề nói trên trong không gian giới hạn là
thành phố Hải Phòng. Vì thế tác giả chọn đề tài. “Thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” là đề tài luận văn thạc sỹ của mình. Trong quá
trình thực hiện đề tài, luận văn này đã có sự kế thừa những vấn đề chung mang tính lý
luận,vận dụng sáng tạo, có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học trước

5


đó, từ đó đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề thực tiễn để đảm bảo hàm lượng khoa
học cũng như giá trị thực tiễn của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực hiện
pháp luật thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp; đánh giá thực trạng thực hiện pháp
luật THADS đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng; chỉ ra những
nguyên nhân của những kết quả cũng như hạn chế, bất cập. Trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS đối với doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện một số nhiệm vụ sau: Một là, phân
tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện
pháp luật THADS đối với doanh nghiệp.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về THADS đối với
doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng hiện nay. Đánh giá đúng nguyên nhân của
những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, bất cập.
Ba là, đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
THADS đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện pháp luật THADS là phạm trù rất rộng, bao gồm rất nhiều lĩnh vực,
nhiều vấn đề khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung vào
nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật THADS đối

6


với doanh nghiệp với tư cách là người phải thi hành án từ thực tiễn thành phố Hải Phòng
trong phạm vi sau:
Về không gian, việc áp dụng pháp luật THADS đối với các chi cục trên địa bàn
thành phố Hải Phòng.
Về thời gian, luận văn chỉ nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động thi hành án
dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng đối với doanh nghiệp từ
năm 2011 đến năm 2016.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là về thủ tục và trình tự thi hành án dân sự đối
với doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về THADS nói chung và pháp luật THADS đối với doanh nghiệp nói riêng. Những
giải pháp đưa ra bao gồm các giải pháp trước mắt để áp dụng ngay và các giải pháp định
hướng, lâu dài để áp dụng đồng thời với việc hoàn thiện các quy định pháp luật
THADS cũng như các quy định pháp luật có liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật
Đất đai…Tất cả nhằm góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động THADS nói chung và
hoạt động THADS đối với doanh nghiệp nói riêng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp luận mà tác giả sử dụng để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác Lê nin; tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật; đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác
THADS và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.


7


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mà tác giả sử dụng trong luận văn là các phương
pháp truyền thống như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để phân tích
đánh giá những quy định pháp luật, những sự kiện cũng như những số liệu thực tế từ đó
đưa ra những nhận xét, đánh giá nhằm củng cố cho những nhận định và đề xuất mà tác
giả đưa ra. Mặt khác, tác giả đặc biệt sử dụng phương pháp lo gic - lịch sử để nghiên
cứu, trên cơ sở kề thừa một số kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học, các
luận văn, bài nghiên khoa học có liên quan đến lĩnh vực THADS đối với doanh nghiệp
và để liên kết các phần trong tổng thể bố cục của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ thạc sỹ luật, nghiên cứu
về cơ sở lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Hải Phòng. Điểm mới của luận văn là luận văn tập trung nghiên cứu làm
sáng tỏ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn thực hiện pháp luật về THADS đối với doanh
nghiệp nói chung và ở Hải Phòng nói riêng. Từ đó nâng cao nhận thức của xã hội
đối với pháp luật, đặc biệt là pháp luật THADS, nâng cao hiệu quả của công tác
THADS cũng như công tác THADS đối với doanh nghiệp.
Những giải pháp đưa ra bao gồm cả giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm xác
định, củng cố về nhận thức về vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật
về THADS đối với doanh nghiệp trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
trong thực hiện pháp luật THADS của các cơ quan thi hành án, cấp ủy đảng và các cơ
quan hữu quan; nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức (đặc biệt là doanh nghiệp) đối với công tác thi hành án dân sự.

8



Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nội bộ ngành, cấp ủy và chính
quyền địa phương trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác THADS đối với doanh nghiệp.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố Hải Phòng
Chương 3: Định hướng, giải pháp tăng cường hiệu quả thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Để làm sáng tỏ khái niệm THADS đối với doanh nghiệp, ta cần làm sáng tỏ
các khái niệm: thi hành án, thi hành án dân sự, doanh nghiệp. Theo Đại từ điển Tiếng
việt, thi hành là “Thực hiện điều đã chính thức quyết định” [44 ,tr.1559]. Theo Từ điểm
Luật học thì Thi hành án là “Giai đoạn kết thúc quá trình tố tụng, là khâu cuối cùng kết
thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực
pháp luật” [13, tr. 464]. Như vậy, Thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án – văn bản pháp lý của tòa án nhân danh nhà nước tuyên tại phiên
tòa , giải quyết các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,

kinh tế, hành chính trên thực tế.
Việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu quả trên thực tế không những để
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và nhà nước; thể hiện tính
nghiêm minh, tính tối thượng của pháp luật mà còn là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các
quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức và nhà nước bị xâm hại.
Tại Khoản 1 Điều 2 Luật THADS quy định những bản án, quyết định được thi
hành bao gồm:
“1. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật gồm:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Tòa phúc thẩm;

10


c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài
nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà
sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành,
không khởi kiện tại Tòa án;
e) Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; g)
Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
2. Những Bản án, quyết định sau đây của Tòa án sơ cấp được thi hành ngay, mặc
dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi
việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp kịp thời.”
Tương tự như quy định của Bộ Luật Dân sự, Luật Thi hành án dân sự, khái niệm

“dân sự” được hiểu theo nghĩa rộng. Theo đó THADS được hiểu là hoạt động đưa bản
án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có
hiệu lực pháp luật thi hành trên thực tiễn.
Dựa trên khái niệm, phạm vi của THADS để xác định THADS là một giai đoạn
tố tụng hay là một hoạt động quản lý hành chính – tư pháp. Trước kia, cơ quan THA là
bộ phận của tòa án nhân dân, thuộc sự quản lý của TAND các cấp. Đến năm 1993,
cơ quan THA được chuyển giao từ TAND các cấp sang Bộ Tư pháp, khái niệm THADS
được các nhà khoa học pháp lý phân tích và nhìn nhận trên nhiều góc độ, phương diện
khác nhau.

11


Trước tiên, về quan điểm THADS là một giai đoạn tố tụng hay là hoạt động quản
lý hành chính – tư pháp?. Quan điểm của tác giả luận văn này là THADS là hoạt động
Hành chính - Tư pháp vì những lý do sau:
Thứ nhất, về sơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý của các quyết định THADS là bản án,
quyết định của tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. Do vậy, cơ
quan THADS phải thi hành theo đúng nội dung phán quyết của các bản án, quyết định
của tòa án chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính của các cơ quan hành chính cấp
trên. Cơ quan cấp trên (kể cả cơ quan quản lý toàn diện hệ thống tổ chức và hoạt động)
không có quyền yêu cầu cơ quan THADS cấp dưới phải tạm hoãn, đình chỉ hoặc tiếp
tục…. thi hành án nếu không có đủ căn cứ pháp lý. Cơ quan THADS chỉ thực hiện việc
tạm hoãn, đình chỉ hoặc tiếp tục thi hành án nếu có Quyết định THA của người có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về vai trò và trách nhiệm cá nhân. Mọi hoạt động của cơ quan THADS
đều thông qua vai trò hoạt động của những cá nhân những người được Nhà nước giao
trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác theo quy
định của pháp luật. Đồng thời, khi thực hiện phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Tại điều 20 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi,

bổ sung năm 2014 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên:
“1. Kịp thời tổ chức thi hành nhiệm vụ được phân công, ra các quyết định về thi
hành án theo thẩm quyền.
2. Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định pháp
luật về trình tự, thủ tục thi hành án, đảm bảo lợi ích của nhà nước, quyền, lọi ích hợp
pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên.
3. Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc
thi hành án.

12


4. Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của
người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và
những việc khác có liên quan đến thi hành án.
5. Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng
chế thi hành án, lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án.
6. Yêu cầu cơ quan công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy
định của pháp luật.
7. Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành
chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.
8. Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho
đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp
khác.
9. Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của
Chính phủ.
10. Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi

hành án dân sự.
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Chấp hành viên phải tuân theo pháp
luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm và uy tín.”
Những hoạt động trên đây mang đặc trưng của hoạt động tư pháp chứ không phải là đặc
trưng của hoạt động hành chính.
Thứ ba, về chức năng, nhiệm vụ chủ yếu. Cơ quan THADS có nhiệm vụ, chức
năng chủ yếu là đảm bảo cho các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác
đã có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế theo

13


quy định của pháp luật. Nói cách khác, chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan thi
hành án là đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả các chức năng tư pháp. Như vậy, hoạt
động chính của cơ quan thi hành án cũng giống như hoạt động chính của các cơ quan lập
pháp hay tư pháp khác như Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân.
Thứ tư, về chủ thể quản lý. Chủ thể quản lý trực tiếp cơ quan THADS là Bộ Tư
pháp - cơ quan hành chính. Tuy nhiên, về mặt bản chất, hoạt động của cơ quan bị quản lý
không hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan chủ quản trực tiếp mà phụ thuộc vào chức năng,
nhiệm vụ của chính cơ quan đó.
Thứ năm, về chức năng trong hoạt động tư pháp. Quyền lực của nhà nước về
mặt bản chất bao gồm ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba
nhánh quyền lực này được giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, hoạt động theo cơ
chế phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau. Đây là nguyên tắc Hiến định. Khoản 3
Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Ngoài các cơ quan đó còn có các cơ quan được lập ra để
hỗ trợ (cơ quan bổ trợ) nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan được giao chức năng chính có

thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong nhánh quyền lực tư pháp thì tòa án là
trung tâm của hoạt động tư pháp. Các cơ quan điều tra, truy tố, thi hành án đều là các cơ
quan bổ trợ cho hoạt động chính của ngành – cơ quan chính là Tòa án. Đó chỉ là các cơ
quan thực hiện, một quy trình để cơ quan xét xử hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ
của mình là chức năng xét xử, đảm bảo các quyết định, bản án được tuyên đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, có thể khẳng định rằng hoạt động THADS là hoạt động
tư pháp (cơ quan bổ trợ) nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định của tòa án, các quyết
định khác có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế.

14


Cuối cùng là về điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức, nhà nước. Thật sai lầm khi khẳng định rằng phán quyết của Tòa án là khâu cuối
cùng của hoạt động tư pháp. Một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật chỉ có thể thực
thi trên thực tế thông quan hoạt động của cơ quan THA. Hay nói cách khác, bản án và
quyết định có hiệu lực của Tòa án chỉ là điều kiện cần, quyền là lợi ích hợp pháp của các
cá nhân, tổ chức, nhà nước có được bảo đảm, bảo vệ hay không phải dựa trên điều kiện
đủ là bản án, quyết định đó phải được cơ quan THA tổ chức thi hành trên thực tế.
Từ những lý do trên đây, tác giả đưa đến khẳng định rằng: Hoạt động THADS là
hoạt động Hành chính - tư pháp.
Vấn đề thứ hai là vấn đề khái niệm dân sự trong khái niệm thi hành án dân sự.
Vấn đề này hiện đang có hai cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất dựa trên quan niệm
về dân sự theo nghĩa hẹp. Cơ sở pháp lý của quan điểm này dựa trên quy định của Bộ
luật Dân sự. Theo đó, quan hệ dân sự bao gồm quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, nhân
thân và tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động. Khái niệm dân sự trong THADS đương nhiên chỉ bao gồm những việc, vụ việc
liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân (phi tài sản). Cách hiểu thứ hai là quan niệm
về dân sự theo nghĩa rộng. Theo đó, việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định có nguồn
gốc pháp luật về nội dung là luật tư (luật dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động) được

thực hiện theo thủ tục chung chứ không có sự tách bạch căn bản việc thi hành án dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thưong mại, lao động. Quan điểm của tác giả là
khái niệm dân sự trong THADS được hiểu theo nghĩa rộng. Điều này phù hợp với pháp
luật của phần lớn các quốc gia trên thế giới.
Nói tóm lại, từ sự phân tích ở trên ta có thể đưa ra khái niệm THADS như sau:
THADS là hoạt động do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản án, quyết định

15


dân sự của tòa án, trọng tài hoặc quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của hội đồng xử lý
vụ việc cạnh tranh đã có hiệu lực pháp luật, hoặc chưa có hiệu lực pháp luật được đưa ra
thi hành ngay trên thực tế, nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm của thi hành án dân sự
Một là, quan hệ pháp luật thi hành án dân sự chỉ phát sinh trên cơ sở các bản
án, quyết định của tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật giải quyết
các tranh chấp về dân sự như hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, phá sản doanh
nghiệp, hành chính.
Hai là, chỉ có chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự mới có thẩm
quyền thi hành án dân sự. Đây là đặc trưng thể hiện tính chuyên trách của cơ quan thi
hành án dân sự nhân danh nhà nước, thực hiện trách nhiệm của nhà nước trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và chính nhà nước. Do đặc thù
của hoạt động thi hành án dân sự là lĩnh vực khó khăn, phức tạp, trực tiếp động chạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản, nhân thân của các bên đương sự và người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nên quá trình thi hành án dân sự phải được tiến hành theo
một trình tự, thủ tục chặt chẽ và chỉ có cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên
mới có thẩm quyền thực hiện điều này. Để thực hiện được các quyền này, pháp luật
đã quy định cho chấp hành viên những quyền hạn, trách nhiệm rất cụ thể và sử dụng tùy

từng trường hợp cụ thể. Cụ thể, trong trường hợp sau khi bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật, hai bên đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ theo bản án thì chấp hành viên đóng vai trò là người xác nhận tính hợp pháp
của thỏa thuận đó đồng thời tiến hành thực hiện các thủ tục khác theo luật định. Trong
trường hợp, một trong các bên hoặc cả hai bên cố tình chây ỳ, không thực hiện theo nội
dung phán quyết của tòa án sau khi được các chấp hành viên, cơ quan thi

16


hành án vận động, giáo dục thuyết phục thì chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng
chế thi hành án (có tổ chức huy động lực lượng hoặc không tổ chức huy động lực
lượng) buộc bên có nghĩa vụ thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng
quyết định bản án.
Ba là, thi hành án dân sự tôn trọng sự thỏa thuận và quyền tự định đoạt của đương
sự. Do đặc trưng của thi hành án dân sự chủ yếu là thi hành các bản án, quyết định liên
quan đến tài sản – đặc trưng của quan hệ dân sự. Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực,
các bên vẫn có quyền tiếp tục thể hiện ý chí của mình về việc thi hành án. Vì vậy,
nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các đương sự và quyền tự định đoạt của đương
sự luôn được tôn trọng trong quá trình thi hành án. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa
thi hành án dân sự với thi hành án hình sự. Trong hoạt động thi hành án hình sự, khi bản
án hình sự có hiệu lực, cơ quan thi hành án hình sự tổ chức thi hành theo nguyên tắc
mệnh lệnh, phục tùng bắt buộc người phải thi hành án thực hiện, không phụ thuộc vào ý
chí của người phải thi hành án và cũng không có sự thỏa thuận giữa các bên về việc thi
hành án.
Xuất phát từ nguyên tắc này trong thi hành án dân sự mà các bên có quyền
thỏa thuận về thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án nếu thỏa thuận đó không
trái pháp luật và trái đạo đức xã hội và cơ quan thi hành án dân sự có thể lựa chọn
phương thức phù hợp để tổ chức thi hành án một cách nhanh chóng, hiệu quả trên cơ sở
sự thỏa thuận của các đương sự mà không nhất thiết phải đúng như nội dung phán quyết

của tòa án.
Thứ tư, hoạt động thi hành án dân sự có sự tham gia của nhiều chủ thể như: người
phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ủy
ban nhân dân các cấp, công an nhân dân các cấp, thừa phát lại, các cơ quan, tổ chức có
liên quan khác nhưng nhân tố quan trọng vẫn là chấp hành viên và thủ tưởng cơ quan thi
hành án. Mặt khác, những quyết

17


định của cơ quan thi hành án, chấp hành viên đều mang tính bắt buộc thi hành đối với các
cá nhân, tổ chức có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Từ sự phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm về THADS như sau: THADS là
hoạt động hành chính – tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản án, quyết định dân sự của Tòa án,
trọng tài hoặc quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được ngay trên
thực tế, nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của các công dân,
tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Đặc điểm thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Trên cơ sở khái niệm về thi hành án dân sự, thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp được hiểu là hoạt động thi hành án nhằm mục đích buộc doanh nghiệp phải thực
hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của trọng tài hoặc quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu
lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
Xuất phát từ khái niệm về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là người
phải thi hành án nhận thấy rằng thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là người
phải thi hành án vừa có những đặc điểm chung của thi hoạt động thi hành án dân sự vừa
có đặc điểm riêng, cụ thể như sau:
Một là về đối tượng phải thi hành án. Đối tượng phải thi hành án trong Thi hành

án dân sự đối với doanh nghiệp là doanh nghiệp- một pháp nhân được tổ chức hòa
hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp có tên riêng, có trụ sở riêng, con dấu
riêng, tài sản riêng. Theo quy định Luật Doanh nghiệp năm 2014, hiện tại ở nước ta có 5
loại hình doanh nghiệp là công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành
viên trở nên, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.

18


Vì doanh nghiệp là một pháp nhân nên tại Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2014
quy định rất cụ thể chi tiết về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Theo
đó, đại diện cho doanh nghiệp có thể là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
(Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc) hoặc đại diện theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp
luật hoặc đại diện theo ủy quyền khi đại diện cho doanh nghiệp đều phải tuân theo
những tiêu chuẩn và trách nhiệm được quy định cụ thể từ Điều 13 đến Điều 16 của Luật
này.
Hai là về cơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý cho hoạt động thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp là một bản án, quyết định của tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền theo luật
định có hiệu lực pháp luật đã tuyên buộc doanh nghiệp phải thực hiện một số nghĩa vụ
nhất định (chủ yếu là về nghĩa vụ tài sản) hoặc nghĩa vụ thực hiện một số hành vi nhất
định như buộc doanh nghiệp phải trả lương và trợ cấp thôi việc, buộc doanh nghiệp nhận
người lao động trở lại làm việc hoặc quyết định về việc áp dụng một số biện pháp khẩn cấp
kịp thời như: cấm chuyển quyền sở hữu tài sản, cấm dịch chuyển tài sản, cấm xuất
nhập cảnh…
Ba là về quá trình tổ chức thực hiện hoạt động thi hành án. Doanh nghiệp là
một pháp nhân có nhiều loại hình tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến
rất nhiều các lĩnh vực khác nhau do vậy chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật khác
nhau như luật Dân sự, luật Tố tụng dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật
Thuế…. Vì thế quá trình tổ chức thực hiện hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp luôn mang tính phức tạp và có ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống xã hội. Từ đó

đòi hỏi thủ trưởng các cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên thi hành án dân sự,
thừa phát lại, các cán bộ công chức ngành thi hành án ngoài việc am hiểu tường tận
pháp luật thi hành án còn phải tìm hiểu chuyên sâu các lĩnh vực liên quan đến doanh
nghiệp như: Bộ Luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản, Luật Thương mại, Luật
Thuế…. Sự hiểu biết của các chủ thể càng tường

19


tận, càng sâu rộng bao nhiêu thì kết quả thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
càng cao, năng lực và uy tín của ngành thi hành án dân sự càng được khẳng định bấy
nhiêu.
Bốn là về giá trị thi hành án. Do đặc điểm của doanh nghiệp là có vốn lớn, lợi
nhuận cao luôn đi với rủi ro lớn nên hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
luôn khó khăn và phức tạp hơn cả. Thực tế cho số lượng không cao (chỉ khoảng từ 2
đến 10%) nhưng số lượng về tiền đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án luôn lại
rất lớn (có thể lên đến 95% tỷ lệ về số tiền phải thi hành án). Do vậy hoạt động thi hành
án dân sự đối với doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hoàn thành các
chỉ tiêu công tác năm (đặc biệt về số lượng tiền) của cơ quan thi hành án cả nước nói chung
và các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng nói riêng.
1.1.3. Ý nghĩa của việc thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Qua sự phân tích trên có thể thấy rằng, hoạt động thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp là người phải thi hành án có ý nghĩa, vai trò vô cùng quan trọng, thể hiện
như sau:
Thứ nhất, hoạt động THADS đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án
góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức và cá nhân. Hoạt
động thi hành án dân sự là một quá trình có mục đích nhằm làm cho các bản án, quyết
định của TAND và các quyết định khác theo quy định của pháp luật đã có hiệu lực pháp
luật được thực thi trên thực tế. Do đó, mọi hành vi dẫn đến việc doanh nghiệp có nghĩa vụ
thi hành án mà không thi hành hoặc thi hành án chậm hoặc thi hành không đúng với nội

dung của bản án, quyết định hay thỏa thuận khác của các bên, về thực chất đều đã và
đang xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân. Vì thế, việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật THADS đối với
doanh nghiệp là người phải thi hành án không chỉ đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa mà còn đảm bảo

20


lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Điều này
chỉ có thể đạt được khi toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án
dân sự từ trung ương xuống địa phương phải hoạt động nhịp nhàng, thống nhất, linh hoạt
và đúng pháp luật.
Mặt khác, hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp không chỉ bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp với tư cách là người phải thi hành án mà còn
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp với tư cách là người được thi hành án,
doanh nghiệp với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành
án. Do vậy, khi tiến hành hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, thủ
trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên, người được thi hành án, người phải thi
hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật nói
chung và pháp luật thi hành án dân sự nói riêng để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của bản thân cũng như mọi chủ thể khác trong xã hội. Có như vậy pháp luật mới thật sự
nghiêm minh, công bằng và đi vào đời sống bởi suy cho cùng pháp luật chính là tự do
của người này nằm trong khuôn khổ tự do của người khác.
Thứ hai, hoạt động THADS đối với doanh nghiệp sẽ góp phần đảm bảo cho các bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành
ngay một phần được thi hành trên thực tế, đảm bảo lập lại trật tự pháp luật, khôi phục các
mối quan hệ xã hội bị xâm hại. Một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nếu không
được thi hành trên thực tế thì toàn bộ kết quả của quá trình tố tụng trước đó trở thành vô
nghĩa; kỷ cương, phép nước bị xâm hại, trật tự xã hội bị đảo lộn. Ngược lại, nếu bản

án và quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành hiệu quả, kịp thời và đúng pháp
luật trên thực tế sẽ góp phần khẳng định kết quả của hoạt động tư pháp, lập lại trật tự pháp
luật, từ đó góp phần nâng cao ý thức thực hiện và tuân thủ

21


pháp luật của người dân, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội và ổn định nền kinh tế
đất nước.
Thứ ba hoạt động THADS đối với doanh nghiệp sẽ góp phần đẩy mạnh hội
nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế
và việc Việt Nam gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN, WTO, TTP…
sẽ dẫn đến việc ngày càng nhiều các doanh nghiệp nước ngoài, các tổ chức kinh tế
(cả tổ chức của chính phủ lẫn phi chính phủ) vào đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với nhà nước, các tổ chức (đặc biệt là doanh
nghiệp) và mọi cá nhân. Việc hoạt động THADS đối với doanh nghiệp hiệu quả, kịp thời,
đúng pháp luật sẽ góp phần tạo dựng một môi trường kinh doanh thật sự bình đẳng, lành
mạnh; bảo vệ các quan hệ kinh tế, dân sự, thương mại bị xâm hại, tạo niềm tin và thúc
đẩy hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Đây là yêu cầu, là mục tiêu quan trọng
của hoạt động thi hành án dân sự nói riêng và hoạt động tư pháp nói chung. Mỗi cán bộ,
công chức ngành thi hành án cũng như cán bộ công chức nhà nước phải luôn trau dồi
đạo đức, nâng cao năng lực chuyên môn, chất lượng phục vụ để góp phần tạo nên một
“sân chơi” bình đẳng, lành mạnh cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đã và đang
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Thứ tư, hoạt động THADS đối với doanh nghiệp góp phần thể hiện bản chất nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Trong điều kiện quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật như hiện nay, hoạt
động thực hiện pháp luật nói chung và hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo đó, các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá

nhân phải có nghĩa vụ và trách nhiệm thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật
cũng như các quy định của pháp luật

22


thi hành án dân sự góp phần đảm bảo bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hoạt động thi hành án dân
sự đối với doanh nghiệp không chỉ là hoạt động riêng của cơ quan thi hành án mà còn
là sự phối kết hợp của nhiều cơ quan, ban ngành có liên quan, sự tuân thủ pháp luật
của các tổ chức, cá nhân. Do vậy hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp có
hiệu quả sẽ góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân; xây dựng một môi
trường kinh doanh thật sự bình đẳng để mọi tổ chức, cá nhân phát huy sở trường,
tăng thêm thu nhập hợp pháp và nâng cao chất lượng hội nhập kinh tế thế giới.
Mặt khác, hiệu quả hoạt động THADS còn góp phần tằng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa – một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Tại Điều 106 Hiến pháp 2013 quy định: “Bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [30, tr.135].
Tại Điều 4 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng quy định: “ Bản
án, quyết định quy định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan, tổ chức và mọi
công dân tôn trọng” [42, tr 5]. Qua đó có thể thấy hoạt động THADS nói chung và
THADS đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án nói riêng một cách hiệu quả
không những đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà còn tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp
1.2.1. Thẩm quyền và nội dung thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp Về
thẩm quyền thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Tại Điều 35 của Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định:

1. Chi cục THADS có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định đối với doanh
nghiệp là người phải thi hành án sau đây:

23


×