TÓM TẮT LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của mỗi
gia đình. Bởi lẽ, trong cuộc sống chung, vợ và chồng phải thực hiện những
quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình.
Những quan hệ này được pháp luật HN&GĐ của mỗi nước điều chỉnh phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống, đạo đức, tập quán của quốc
gia đó.
Mặt khác, tài sản không chỉ gắn liền với những lợi ích thiết thực của hai
bên vợ, chồng, mà còn liên quan đến người thứ ba, đặc biệt là khi vợ chồng
tham gia vào hoạt động giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại. Chính vì
thế mà vấn đề này lúc nào cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, phổ biến nhất là
sau khi vợ chồng ly hôn. Thực tiễn xét xử cho thấy, phần lớn các tranh chấp
của vợ chồng có liên quan đến tài sản.
Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng đã trở thành một trong những nội
dung quan trọng mà Luật HN&GĐ cần xây dựng, hoàn thiện. Chế độ tài sản
của vợ chồng bao gồm tổng hợp các quy định của pháp luật về căn cứ xác lập
tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng,
nguyên tắc phân chia tài sản vợ chồng. Giữa các nước khác nhau thường có
những quy định khác biệt về tài sản của vợ chồng, tuy nhiên, về cơ bản chế độ
tài sản của vợ chồng được xác định dựa trên hai căn cứ: Sự thoả thuận bằng
văn bản của vợ chồng (chế độ tài sản ước định) và theo các quy định của pháp
luật (chế độ tài sản pháp định).
1
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể về chế độ tài sản của vợ
chồng. Đặc biệt, Luật sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế độ tài sản vợ
chồng pháp định trên cơ sở Luật HN&GĐ năm 2000.
Việc phân tích những vấn đề lý luận và nội dung của chế độ tài sản vợ
chồng pháp định trong Luật HN&GĐ năm 2014 là một vấn đề mang tính
khách quan và cấp thiết hiện nay nhằm hiểu rõ hơn quy định pháp luật về chế
độ tài sản vợ chồng pháp định, không ngừng hoàn thiện pháp luật về chế độ
tài sản của vợ chồng nói riêng và hoàn thiện pháp luật HN&GĐ Việt Nam nói
chung. Qua đó góp phần xây dựng và phát triển gia đình hạnh phúc, bền
vững.
Do vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chế độ tài sản vợ chồng pháp định
theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014” làm đề tài cho luận văn Thạc sỹ của
mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của Luận văn là nghiên cứu khái niệm, đặc điểm
của chế độ tài sản vợ chồng pháp định; chế độ tài sản vợ chồng pháp định
trong pháp luật Việt Nam và trong pháp luật ở một số nước; phân tích những
quy định cụ thể chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong pháp luật hiện hành,
nhận thức rõ nội dung, ý nghĩa của những quy định đó; tìm hiểu thực tiễn xét
xử liên quan đến chế độ tài sản vợ chồng để thấy được những tồn tại, hạn chế,
vướng mắc trong quá trình áp dụng, qua đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng, góp phần xây dựng hành lang pháp
lý để phát triển gia đình hạnh phúc, ổn định, bền vững.
2.2. Mục tiêu cụ thể
2
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát nêu trên, Luận văn thực hiện những mục
tiêu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu những vẫn đề lý luận về chế độ tài sản vợ chồng pháp
định. Cụ thể là đưa ra một số khái niệm khoa học trong nội hàm chế độ tài sản
vợ chồng pháp định; các đặc điểm của chế độ tài sản vợ chồng pháp định đối
với sự tồn tại và phát triển của gia đình và xã hội.
- Tìm hiểu một cách có hệ thống về lịch sử phát triển của chế độ tài sản
vợ chồng pháp định trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và trong pháp
luật ở một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản vợ
chồng pháp định. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Luận văn đi sâu vào phân
tích nội dung các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng pháp định theo
Luật HN&GĐ năm 2014; tìm hiểu mục đích, cơ sở của việc quy định các điều
luật này; đồng thời, phân tích tính kế thừa, phát triển và những điểm mới của
chế độ tài sản của vợ chồng pháp định trong Luật HN&GĐ năm 2014.
- Tìm hiểu thực tiễn xét xử liên quan đến chế độ tài sản vợ chồng pháp
định, chỉ ra những điểm tồn tại, hạn chế của những quy định này. Qua đó, đề
xuất những kiến nghị hoàn thiện chế độ tài sản vợ chồng pháp định.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
3.1. Tính mới của đề tài
Trong khoa học pháp lý ở nước ta, từ trước đến nay, ngoài những văn
bản hướng dẫn áp dụng Luật HN&GĐ, đã có những công trình, bài viết
nghiên cứu, đề xuất kiến nghị một số vấn đề liên quan đến chế độ tài sản của
vợ chồng. Trước hết là các giáo trình giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo
luật học, như giáo trình Luật dân sự Việt Nam, giáo trình Luật HN&GĐ Việt
3
Nam… đã đề cập đến chế độ tài sản vợ chồng một cách cơ bản, phổ thông và
khái quát nhất.
Việc nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng cũng đã được nhiều tác
giả đề cập đến trong một số cuốn sách hoặc luận văn cao học luật. Ví dụ: Sách
chuyên khảo của tác giả Nguyễn Văn Cừ về “Chế độ tài sản của vợ chồng
theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam” được Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm
2008; Luận văn thạc sỹ năm 2002 của tác giả Nguyễn Hồng Hải về “Xác định
tài sản của vợ chồng, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; Bài viết của tác giả
Bùi Minh Hồng về “Chế độ tài sản theo thoả thuận của vợ chồng trong pháp
luật cộng hoà Pháp và pháp luật Việt Nam” đăng trên Tạp chí Luật học số 11
năm 2009; Bài viết của tác giả Đoàn Thị Phương Diệp về “Chế độ tài sản
giữa vợ chồng trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia
đình” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 08 năm 2014; Hoặc một số
bài viết về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt nam khác trên các
Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Các cuốn sách, luận văn, bài viết nêu trên đều nghiên cứu chế độ tài sản của
vợ chồng dựa trên Luật HN&GĐ Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi
hành, cho đến trước ngày Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thi hành
(01/01/2015).
Vừa qua, có một số luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu chế độ tài sản vợ
chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014 như: Luận văn thạc sỹ năm 2014 của tác
giả Nguyễn Thị Kim Dung về "Chế độ tài sản vợ chồng theo thoả thuận trong
pháp luật Việt Nam"; Luận văn thạc sỹ năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Thu
Thủy về “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2014”... Song các luận văn này chỉ nghiên cứu
chuyên sâu về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.
4
Theo đó, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về chế độ tài sản
vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014. Luận văn là
công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu riêng và chuyên sâu về chế độ tài sản
vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 một cách toàn
diện, đầy đủ trong hệ thống khoa học pháp lý Việt Nam.
3.2. Những đóng góp của đề tài
Với tư cách là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu riêng và chuyên
sâu về Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm
2014, luận văn có những đóng góp quan trọng đối với khoa học pháp lý của
nước ta, cụ thể như sau:
- Luận văn phân tích khái niệm và đặc điểm của chế độ tài sản vợ
chồng pháp định, đồng thời, đánh giá sự cần thiết của việc quy định chế độ tài
sản vợ chồng đối với sự ổn định, phát triển của gia đình và xã hội.
- Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển chế độ tài sản vợ chồng pháp
định trong pháp luật của Việt Nam và của một số nước trên thế giới, so sánh
chế độ tài sản vợ chồng pháp định giữa các nước để thấy được sự tương đồng
và sự khác biệt mang tính dân tộc.
- Phân tích nội dung Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2014 để hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của chế độ tài sản
vợ chồng pháp định; đồng thời, phân tích tính kế thừa, phát triển và những
điểm mới quy định về chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ
Việt Nam năm 2014.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử liên quan đến chế độ tài sản vợ
chồng pháp định, Luận văn chỉ ra những điểm tồn tại, hạn chế của những quy
định này, đồng thời, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện chế độ tài sản vợ
chồng pháp định, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật HN&GĐ.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, tác giả sẽ phân tích, đánh giá
những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng chế
độ tài sản vợ chồng pháp định với ý nghĩa là quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ
chồng.
Luận văn không nghiên cứu về quan hệ cấp dưỡng và quyền thừa kế tài
sản của nhau giữa vợ chồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi những quy định của pháp luật
Việt Nam về chế độ tài sản vợ chồng; một số nội dung cơ bản của chế độ tài
sản vợ chồng trong BLDS Pháp, Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan, Luật
hôn nhân của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; thực tiễn áp dụng các quy định
pháp luật hiện hành về chế độ tài sản vợ chồng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn đã vận dụng một số phương pháp
như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử để thấy
được sự phù hợp của các quy định pháp luật đối với xã hội, giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng lẫn nhau, hay nói cách khác pháp luật là tấm gương
phản chiếu xã hội, còn xã hội là cơ sở thực tiễn của pháp luật.
Đồng thời, luận văn cũng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam về xây dựng và phát
triển gia đình.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp thu thập tài liệu,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp và
một số phương pháp khác. Trong đó, phương pháp chính là tổng hợp và phân
6
tích. Cụ thể là tổng hợp và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật,
những thông tin thu được trong quá trình nghiên cứu đề tài. Sau đó, phân tích
và đưa ra đánh giá về từng vấn đề. Cuối cùng rút ra kết luận chung về vấn đề
đã nghiên cứu.
6. Kết cấu Luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về chế độ tài sản vợ chồng pháp định
Chương 2: Nội dung quy định chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong
Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014.
Chương 3: Thực tiễn xét xử liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng
và một số kiến nghị.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG PHÁP
ĐỊNH
1.1. KHÁI NIỆM CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG
Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật hoặc
thỏa thuận của vợ chồng về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, gồm: căn cứ
xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung, tài sản
riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG
PHÁP ĐỊNH
1.2.1 Khái niệm
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định là chế độ tài sản vợ chồng do pháp
luật đã dự liệu từ trước về căn cứ xác định các loại tài sản chung và tài sản
riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng
loại tài sản đó trong mối quan hệ giữa hai vợ, chồng và trong quan hệ với
7
người thứ ba; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ
chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng
của vợ chồng.
1.2.2. Đặc điểm
Xuất phát từ tính chất được pháp luật dự liệu từ trước, chế độ tài sản vợ
chồng pháp định có những đặc điểm riêng biệt so với chế độ tài sản ước định,
như sau:
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý, chế độ tài sản pháp định được quy định
trong pháp luật hôn nhân và gia đình, trong đó, quy định cụ thể căn cứ xác
lập, chấm dứt, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản, nguyên tắc
phân chia tài sản.
Thứ hai, hình thức sở hữu trong chế độ tài sản của vợ chồng, trong chế
độ tài sản của vợ chồng pháp định chỉ có duy nhất một hình thức sở hữu đối
với tài sản chung là sở hữu chung hợp nhất.
Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trong chế độ tài sản của
vợ chồng pháp định. Theo pháp luật hôn nhân và gia đình, vợ, chồng có
quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) đối với sản
riêng (nếu có); nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Tuy
nhiên, quyền sở hữu đối với tài sản riêng bị hạn chế trong một số trường hợp
cụ thể. Trong khi đó, chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, quyền sở hữu
đối với tài sản riêng của vợ, chồng không bị hạn chế trong những trường hợp
nêu trên, vợ chồng có thể tự do thỏa thuận về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng
đối với từng loại tài sản.
1.2.3. Ý nghĩa
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định phản ánh trung thực và chính xác
trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí của Nhà nước.
8
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định quy định cụ thể căn cứ xác định tài
sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Pháp luật hôn nhân và gia đình đã dự
liệu trước các căn cứ xác lập, nguồn gốc, thành phần tài sản chung, tài sản
riêng của vợ, chồng.
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định có ý nghĩa xác định quyền, nghĩa vụ
của vợ, chồng với nhau và với người thứ ba.
Chế độ tài sản vợ chồng pháp định còn là cơ sở pháp lý để giải quyết
tranh chấp trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng hoặc với người thứ ba tham
gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng, nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của vợ, chồng hoặc người thứ ba.
Ngoài ra, chế độ tài sản vợ chồng pháp định còn là những quy định
mang tính định hướng cho các cặp vợ chồng lựa chọn thỏa thuận chế độ tài
sản phù hợp quy định của pháp luật, đảm bảo thỏa thuận chế độ tài sản vợ
chồng không bị vô hiệu do vi phạm quy định pháp luật.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG PHÁP ĐỊNH TRONG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.3.1. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong cổ luật Việt Nam
Vấn đề tài sản của vợ chồng mặc dù đã được quy định, nhưng không rõ
ràng, hệ thống cổ luật không có chế định riêng rẽ và cụ thể về chế độ tài sản
vợ chồng. Điều này được thể hiện trong hai Bộ luật lớn nhất của hệ thống cổ
luật Việt Nam (Quốc triều hình luật được ban hành dưới triều Lê trong
khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1479), Hoàng Việt luật lệ được ban hành
dưới triều Nguyễn vào năm 1812) và những tục lệ cổ.
1.3.2. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời kỳ Pháp thuộc, thực dân Pháp áp dụng chính sách “chia để
trị” chia nước ta thành ba miền (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Vì thế, đối với
9
mỗi miền, thực dân Pháp ban hành và áp dụng các bộ luật riêng để điều chỉnh
các quan hệ trong xã hội, trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình: Ở Bắc
Kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 (Dân luật Bắc Kỳ); ở Trung Kỳ áp
dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 (Dân luật Trung Kỳ); ở Nam Kỳ áp dụng tập
Dân luật giản yếu năm 1883 (Dân luật giản yếu).
1.4.3. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định ở miền Nam giai đoạn
1954-1975 (chế độ ngụy quyền Sài Gòn)
Hoàn cảnh lịch sử trong giai đoạn này là thời kỳ quá độ xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và chế độ ngụy quyền Sài Gòn ở miền Nam. Theo
đó, quan hệ hôn nhân và gia đình ở miền Nam nước ta được điều chỉnh bởi ba
văn bản pháp luật, gồm: Luật gia đình ngày 02/01/1959 được ban hành dưới
chế độ Ngô Đình Diệm; Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 được ban hành
dưới chế độ Nguyễn Khánh; Bộ luật Dân sự ngày 20/12/1972 được ban hành
dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
1.4.4. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong pháp luật hôn nhân
và gia đình giai đoạn từ năm 1945 đến nay
Trong hệ thống pháp luật của nước ta từ năm 1945 đến nay, những văn
bản đầu tiên điều chỉnh về quan hệ hôn nhân và gia đình là Sắc lệnh số 97/SL
ngày 22/5/1950 và Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950, sau đó đến Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1959. Những văn bản này quy định về chế độ tài sản vợ
chồng pháp định còn quá cô đọng, khái quát, chưa dự liệu được hết các
trường hợp, nguyên tắc. Ngày 29/12/1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm
1986 ra đời, gồm 10 chương, 57 điều. Bên cạnh Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986, chế độ tài sản vợ chồng pháp định còn được hướng dẫn bởi Nghị
quyết số 01-NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng một số quy định của Hôn
nhân và gia đình năm 1986. Chế động cộng đồng toàn sản ở Luật Hôn nhân
10
và gia đình năm 1959 được thay thế bằng chế độ cộng đồng tạo sản và chế độ
tài sản của vợ chồng pháp định đã được quy định rõ nét hơn, cụ thể hơn,
nhưng vẫn mang tính khái quát, định khung, khi áp dụng vào thực tế còn nảy
sinh nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa dự liệu được hết các trường hợp để
giải quyết tranh chấp phát sinh giữa vợ, chồng. Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 ra đời vào ngày 08/6/2000, gồm 13 chương 110 điều, là hệ thống
các quy định về chế độ hôn nhân và gia đình trên cơ sở pháp lý là Hiến pháp
năm 1992. Nhìn chung, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 kế thừa toàn bộ
nội dung chế độ tài sản vợ chồng pháp định của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986, đồng thời bổ sung những quy định mới nhằm giải quyết những khó
khăn vướng mắc còn tồn tại mà Luật Hôn nhân và gia đình chưa giải quyết
được. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày
19/6/2014, gồm 9 chương, 133 điều. Trong đó, chế độ tài sản vợ chồng pháp
định được quy định tại các điều từ Điều 29 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến
Điều 64. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chế độ tài sản vợ chồng
pháp định có những điểm mới nổi bật trong quy định thành phần khối tài sản
chung của vợ chồng; quy định về đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung;
quy định về việc định đoạt tài sản chung; quy định về nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng; quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; quy
định về tài sản riêng và nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng, cũng như
nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung…
1.5. CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG PHÁP ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA MỘT SỐ NƯỚC.
Trên cơ sở điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán,
truyền thống văn hóa, các quốc gia quy định chế độ tài sản vợ chồng phù hợp.
Sau đây, xin được điểm qua một số nội dung cơ bản của chế độ tài sản vợ
chồng pháp định trong pháp luật HN&GĐ của một số nước:
11
* Cộng hòa Pháp
* Thái Lan
* Trung Quốc
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
1. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật như là
một tất yếu khách quan và là một chế định cơ bản, có vai trò quan trọng trong
pháp luật HN&GĐ của tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia điều
chỉnh chế độ tài sản phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống, đạo
đức, tập quán của mình.
2. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định là chế độ tài sản của vợ chồng do
pháp luật dự liệu trước về căn cứ xác định các loại tài sản chung và tài sản
riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng
loại tài sản đó trong mối quan hệ giữa hai vợ, chồng và trong quan hệ với
người thứ ba; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ
chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng
của vợ chồng.
3. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định phản ánh trung thực và chính xác
trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí của Nhà nước;
quy định cụ thể căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
xác định quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng với nhau và với người thứ ba; tạo cơ
sở pháp lý để giải quyết tranh chấp trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
hoặc với người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng;
là những quy định mang tính định hướng cho các cặp vợ chồng lựa chọn thỏa
thuận chế độ tài sản phù hợp quy định của pháp luật.
4. Hệ thống pháp luật HN&GĐ nói chung và chế độ tài sản vợ chồng
nói riêng ở nước ta đã trải qua nhiều thời kỳ, chế độ tài sản pháp định được
12
quy định ngay cả trong cổ Luật, từ những quy định mang tính khái quát, cô
đọng, đã ngày càng được hoàn thiện, cụ thể qua các văn bản Luật HN&GĐ.
Về nội dung, chế độ tài sản vợ chồng pháp định đi từ chế độ cộng đồng toàn
sản, đến chế độ cộng đồng tạo sản với những quy định tiến bộ, phù hợp với sự
phát triển điều kiện kinh tế - xã hội.
5. Trên cơ sở điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán,
truyền thống văn hóa, các quốc gia lựa chọn chế độ tài sản vợ chồng pháp
định theo hình thức nhất định, trong đó có các loại chế độ tài sản cơ bản như:
chế độ cộng đồng toàn sản; chế độ cộng đồng động sản và tạo sản; chế độ
cộng đồng tạo sản.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG PHÁP ĐỊNH
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG
Những quy định chung của vợ chồng được quy định tại các Điều từ
Điều 29 đến Điều 32. Các quy định này được thực hiện sẽ đảm bảo các chế độ
tài sản của vợ chồng, bao gồm cả chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản
theo thỏa thuận được thực hiện theo một trật tự phù hợp, hài hòa giữa lợi ích
của gia đình và lợi ích của cá nhân, mở rộng quyền tự do định đoạt tài sản của
vợ chồng phải luôn đi cùng lợi ích của gia đình, quyền lợi của các con và các
thành viên khác trong gia đình.
Nội dung của những quy định chung bao gồm: nguyên tắc chung về chế
độ tài sản của vợ chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của gia đình; giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất
của vợ chồng; giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản
ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của
pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng.
2.2. TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
13
2.2.1. Thành phần khối tài sản chung của vợ chồng
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã kế thừa Điều 27 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 trong việc áp dụng nguyên tắc xác định tài sản
chung của vợ chồng căn cứ vào thời kỳ hôn nhân (tài sản được tạo ra trong
thời kỳ hôn nhân); nguồn gốc tài sản; thoản thuận của vợ chồng; và nguyên
tắc suy đoán. Trong đó, khái niệm “thời kỳ hôn nhân” được định nghĩa tại
khoản 13 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “thời kỳ hôn nhân là
khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến
ngày chấm dứt hôn nhân”.
Thành phần khối tài sản chung bao gồm:
2.2.1.1. Tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân;
2.2.1.2. Thu nhập của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
2.2.1.3. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn
nhân;
2.2.1.4. Tài sản vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung;
2.2.1.5. Quyền sử dụng đất vợ chồng có được sau khi kết hôn;
2.2.1.6. Tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung;
2.2.1.7. Tài sản không có căn cứ chứng minh là tài sản riêng.
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung
2.2.2.1. Quyền của vợ chồng đối với tài sản chung
- Vợ, chồng bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung
- Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung
2.2.2.2. Nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng
14
- Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của gia đình.
- Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thoả thuận xác lập.
- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ
chồng cùng phải chịu trách nhiệm.
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển
khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình.
- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ
luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường.
2.2.3. Chia tài sản chung của vợ chồng
2.2.3.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Luật Hôn nhân và gia đình đã dự liệu các quy định nhằm giải quyết
việc phân chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau:
Thứ nhất, điều kiện phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân: Vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản
chung của vợ chồng, trừ các trường hợp được quy định tại Điều 42 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014.
Thứ hai, hình thức và nội dung phân chia tài sản trong thời kỳ hôn
nhân: Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải
do vợ chồng thỏa thuận và được lập thành văn bản.
Thứ ba, thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân: Thời điểm có hiệu lực được xác định tùy theo các trường hợp cụ
thể.
15
Thứ 4, hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân: Sau
khi thực hiện việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, chế độ tài sản vợ
chồng pháp định vẫn tồn tại.
Thứ năm, chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân: Điều 41 Luật Hôn nhân và gia đình quy định vợ chồng có quyền
thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung
2.1.5.1. Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết
trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
Khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết,
quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng
chết hoặc kể từ ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án trong
trường hợp vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Việc giải quyết tài sản
trong trường hợp một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã
chết được thực hiện theo quy định tại Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014.
2.1.5.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn, Tòa án dự trên những căn
cứ pháp lý để xác định tài sản nào là tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng vẫn thuộc quyền sở hữu của vợ, chồng. Đối với
tài sản chung được phân chia theo quy định của pháp luật. Việc phân chia tài
sản chung được thực hiện theo những nguyên tắc sau đây:
Trước hết, trên cơ sở tôn trọng quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài
sản chung, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Trong trường hợp
chế độ tài sản của vợ chồng pháp định thì việc phân chia tài sản do vợ, chồng
thỏa thuận; nếu vợ, chồng không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ,
16
chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết việc phân chia tài sản theo
quy định của pháp luật.
Thứ hai, phân chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định của pháp
luật dựa trên nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có
tính đến các yếu tố được quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014.
Thứ ba, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia bằng hiện vật, trong
trường hợp không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nhận phần
tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì có nghĩa vụ
thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Thứ tư, trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn tài sản riêng vào khối
tài sản chung, khi vợ, chồng yêu cầu chia tài sản thì người có tài sản riêng đã
sáp nhập, trộn lẫn vào tài sản chung sẽ được thanh toán phần giá trị tài sản đã
đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Thứ năm, việc phân chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình.
- Chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp vợ chồng sống
chung với gia đình
- Chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
2. 2. TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG
2.2.1. Tài sản riêng của vợ, chồng
Quy định về tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật hôn nhân và
gia đình là điều tất yếu khách quan. Tài sản riêng của vợ, chồng bắt đầu được
ghi nhận từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, đến Luật Hôn nhân và gia
17
đình năm 2000, quyền có tài sản riêng của vợ, chồng được quy định cụ thể
hơn.
Tuy nhiên, quy định về tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1986 và năm 2000 còn có những điểm hạn chế, bất cập,
vướng mắc trong quá trình áp dụng. Để giải quyết những vướng mắc này Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định về tài sản riêng của vợ, chồng
với những điểm mới tiến bộ hơn trên cơ sở kế thừa và phát triển những ưu
điểm và loại bỏ, thay đổi những điểm không phù hợp của pháp luật hôn nhân
và gia đình trước.
2.2.2. Thành phần khối tài sản riêng của vợ, chồng
2.2.2.1. Tài sản của vợ, chồng trước khi kết hôn
2.2.2.2. Tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
trong thời kỳ hôn nhân.
2.2.2.3. Tài sản được chia riêng của vợ, chồng sau khi việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực
2.2.2.4. Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng
2.2.2.5. Tài sản khác mà theo quy định của pháp luật là tài sản riêng
của vợ, chồng
2.2.2.6. Các tài sản được hình thành từ tài sản riêng trừ trường hợp hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân
2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng
2.2.3.1. Quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng
2.2.3.1.1. Quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
2.2.3.1.2. Quyền nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung.
2.2.3.2. Nghĩa vụ tài sản riêng của vợ, chồng
18
Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ riêng
về tài sản của vợ, chồng như sau:
Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;
2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản,
duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4
Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực
hiện không vì nhu cầu của gia đình;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ,
chồng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
1. Trên cơ sở kế thừa, phát triển hệ thống pháp luật HN&GĐ trước đây
và đảm bảo sự phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, Luật
HN&GĐ năm 2014 dự liệu chế độ tài sản vợ chồng pháp định là chế độ cộng
đồng tạo sản. Theo chế độ cộng đồng tạo sản, trong quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng tồn tài ba khối tài sản: tài sản chung của vợ chồng; tài sản riêng của
chồng; tài sản riêng của vợ.
2. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định việc xác định tài sản chung căn cứ
vào thời kỳ hôn nhân (tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân); nguồn gốc
tài sản; thoản thuận của vợ chồng; và nguyên tắc suy đoán. Vợ, chồng bình
đẳng với nhau về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung mà
không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập. Luật
19
cũng quy định tài sản chung của vợ chồng phải được đảm bảo thực hiện các
nghĩa vụ chung của vợ chồng, đồng thời xác định cụ thể nghĩa vụ chung của
vợ chồng tại Điều 37. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định việc chia tài sản
chung của vợ chồng được thực hiện khi vợ chồng thỏa thuận chia tài sản trong
thời kỳ hôn nhân; vợ chồng ly hôn; một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa
án tuyên bố là đã chết.
3. Luật HN&GĐ năm 2014 ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ,
chồng và xác định cụ thể thành phần khối tài sản riêng của vợ, chồng. Vợ,
chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập
hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Đồng thời, pháp luật
HN&GĐ quy định tài sản riêng của vợ, chồng được dùng để đảm bảo nghĩa
vụ riêng về tài sản của người đó. Những nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ,
chồng được xác định rõ tại Điều 45.
4. Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam
năm 2014 có những điểm mới, tiến bộ so với pháp luật HN&GĐ trước đây
như sau: Quy định quy định hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ,
chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng; hướng dẫn cụ
thể về thu nhập khác trong thời kỳ hôn nhân; quy định chia tài sản chung của
vợ chồng có tính đến lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ
chồng; xác định cụ thể khối tài sản hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng
là tài sản riêng của vợ, chồng; hướng dẫn về tài sản riêng khác của vợ chồng;
quy định tài sản riêng còn là các “tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia
đình”; quy định cụ thể nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng…
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ ĐỘ TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG PHÁP ĐỊNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. THỰC TIỄN XÉT XỬ LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG PHÁP ĐỊNH
20
Các vụ việc về HN&GĐ có số lượng nhiều nhất, chiếm tỷ lệ lớn trong
tổng số vụ việc mà Tòa án đã thụ lý, giải quyết. Hơn nữa, các vụ việc về
HN&GĐ có xu hướng ngày càng tăng, đồng thời cũng rất phức tạp. Đặc biệt
là các vụ án tranh chấp tài sản giữa vợ chồng khi vợ chồng ly hôn, có trường
hợp vụ án tranh chấp với giá trị tài sản lên đến tiền tỷ.
Thực tiễn xét xử các vụ việc HN&GĐ trong những năm qua nảy sinh
khá nhiều vấn đề vướng mắc, gây khó khăn cho Tòa án trong quá trình áp
dụng pháp luật hoặc áp dụng theo đúng pháp luật nhưng không phù hợp với
tình hình thực tế, không đảm bảo sự công bằng cho các bên vợ, chồng.
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Từ những số liệu thống kê và những vụ án cụ thể nêu trên, có thể thấy,
tranh chấp tài sản giữa vợ chồng ngày càng gia tăng và phức tạp, nhưng
những quy định của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn tồn tại những
vướng mắc, bất cập, làm cho hoạt động xét xử chưa được hiệu quả, vẫn còn
tình trạng xử sai, áp dụng luật không thống nhất, xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của vợ, chồng và người thứ ba. Thực tiễn xét xử có những
vướng mắc, bất cập như sau:
3.2.1. Căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng
Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về các căn cứ xác định tài
sản chung của vợ chồng tương đối cụ thể. Tuy nhiên, khi áp dụng trong thực
tế lại nảy sinh những quan điểm khác nhau, cụ thể:
- Về tài sản riêng đã được đưa vào sử dụng chung, theo chúng tôi, Luật
HN&GĐ cần thiết quy định thời hạn để tài sản riêng của vợ chồng đã được
đưa vào sử dụng, quản lý chung trong thời gian dài sẽ trở thành tài sản chung
của vợ chồng, để đảm bảo quyền và lợi ích của cả gia đình và đánh giá đúng
thực trạng quan hệ tài sản của vợ chồng.
21
- Cần thiết bổ sung chế định ly thân vào Luật và quy định cụ thể chế độ
tài sản của vợ chồng trong trường hợp vợ chồng ly thân theo hướng ly thân là
tình trạng vợ chồng không có nghĩa vụ sống chung với nhau được cơ quan có
thẩm quyền công nhận theo yêu cầu của hai vợ chồng hoặc của vợ, chồng; ly
thân góp phần công khai, minh bạch về tình trạng hôn nhân của vợ chồng; bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, con, các thành viên khác trong gia
đình và những người thứ ba. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, quy định về ly
thân không có nghĩa là bắt buộc các cặp vợ chồng muốn ly thân thì phải giải
quyết theo quy định của Luật, mà chỉ áp dụng khi vợ, chồng yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền công nhận ly thân. Về chế độ tài sản của vợ chồng,
kể từ ngày việc ly thân có hiệu lực, vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với
những tài sản mà mỗi bên có được và tự chịu trách nhiệm về những nghĩa vụ
mà mình xác lập, thực hiện. Đối với việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
trước việc vợ chồng ly thân và thanh toán tài sản, cần quy định các quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ khi các bên
có thỏa thuận khác. Đồng thời, để khuyến khích vợ chồng quay trở về chung
sống với nhau, cần thiết quy định về chấm dứt ly thân và giải quyết chấm dứt
ly thân theo hướng đơn giản như vợ chồng có thỏa thuận chấm dứt ly thân và
yêu cầu cơ quan đã giải quyết ly thân công nhận. Khi chấm dứt ly thân, chế
độ tài sản mà vợ chồng áp dụng trước khi ly thân sẽ đương nhiên có hiệu lực.
- Về nguyên tắc suy đoán tài sản chung, Luật HN&GĐ năm 2014
không quy định cụ thể về các loại bằng chứng được sử dụng để chứng minh
trong tranh chấp. Với việc bỏ ngỏ nghĩa vụ chứng minh ở đó, sẽ được hiểu tất
cả các loại bằng chứng đều có thể được chấp nhận, bao gồm bằng chứng viết,
lời khai của nhân chứng, hóa đơn, chứng từ và thậm chí cả sự thừa nhận của
bên còn lại trong tranh chấp (nếu có). Mặc dù trong thực tiễn, Tòa án thường
vận dụng nguyên tắc ưu tiên chứng cứ bằng văn bản, sau đó mới đến chứng
cứ khác. Tuy nhiên, việc không quy định cụ thể trong luật về nguyên tắc áp
22
dụng có thể sẽ gây ra sự tùy tiện trong việc sử dụng chứng cứ; khó khăn cho
trong việc xác định bằng chứng có tính chính xác và thuyết phục cao, có thể
dẫn đến phán quyết không công bằng. Hoặc có trường hợp, Tòa án không
chấp nhận chứng cứ khác ngoài chứng cứ bằng văn bản. Do đó, chúng tôi cho
rằng nên quy định cụ thể về việc chứng minh tài sản riêng trong Luật
HN&GĐ.
3.2.2. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm cần thiết phải có hướng dẫn
chi tiết về “tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu” để việc áp dụng pháp luật được
thống nhất. Có thể hướng dẫn theo hướng định lượng rõ giá trị của tài sản
phục vụ nhu cầu thiết yếu, trừ trường hợp tài sản phụ vụ nhu cầu khám, chữa
bệnh. Cụ thể: “Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu là những tài sản phục vụ
nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập và nhu cầu sinh hoạt
thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống có giá trị dưới 05 triệu
đồng và tài sản để phục vụ nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh của mỗi người,
mỗi gia đình”
3.2.3. Quy định hạn chế quyền tài sản riêng của vợ, chồng
Theo chúng tôi, trong quy định "vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi,
lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định
đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ" (20, khoản 4 Điều 4 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014) sử dụng khái niệm “nguồn sống duy nhất”
là chưa hợp lý, vì kể cả khi hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng chiếm tới
99% nguồn sống của gia đình, thì cũng không phải là nguồn sống duy nhất.
Do đó, đề nghị xem xét, chỉnh sửa cụm từ “nguồn sống duy nhất” thành
“nguồn sống chủ yếu” của gia đình.
3.2.4. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
23
Pháp luật cần bổ sung quy định nếu người thứ ba có căn cứ cho rằng,
vợ chồng không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người thứ ba có
thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Đồng thời, pháp luật cũng cần quy định rõ các trường hợp hạn chế quyền yêu
cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, như: yêu cầu của
người thứ ba không được công nhận trong trường hợp việc chia tài sản
chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình hoặc bản thân vợ, chồng
có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ.
Bên cạnh đó, Luật cũng không quy định về người có quyền yêu cầu
Tòa án tuyên bố việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu
theo quy định tại Điều 42 và hậu quả pháp lý của việc Tòa án tuyên bố vô
hiệu đó. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần xem xét bổ sung những quy định này.
3.2.5. Nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Về quy định tính đến yếu tố công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc
tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung, thực tiễn xét xử phân chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn có nhiều vướng mắc. Thực tế, Tòa án đều
phân chia theo phương án định tính, không có căn cứ chính xác, dẫn đến việc
xử thế nào cũng đúng. Do đó, cần thiết ban hành quy định hướng dẫn chi tiết
về việc xác định công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và
phát triển khối tài sản chung thực hiện như thế nào, căn cứ xác định như thế
nào.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
1. Thực tiễn xét xử của Tòa án về HN&GĐ ngày càng gia tăng về số
lượng vụ việc, bình quân hàng năm, các vụ việc hôn nhân gia đình chiếm
khoảng trên 30% trong tổng số vụ việc Tòa án đã thụ lý, giải quyết. Hơn nữa,
các vụ việc về HN&GĐ ngày càng phức tạp, đặc biệt là các tranh chấp về tài
24
sản giữa vợ chồng. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật khi áp dụng vào
thực tiễn vẫn còn tồn tại những vướng mắc, bất cập, làm cho hoạt động xét xử
chưa được hiệu quả, vẫn còn tình trạng áp dụng luật không thống nhất, hoặc
áp dụng đúng pháp luật nhưng không phù hợp với tình hình thực tế, không
phản ánh đúng bản chất của quan hệ hôn nhân.
2. Bên cạnh những điểm mới, tiến bộ, Luật HN&GĐ cũng còn một số
điểm cần nghiên cứu, xem xét, chỉnh sửa như quy định về căn cứ xác định tài
sản chung của vợ chồng, quy định đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản; quy định hướng dẫn chi tiết về việc xác định công sức đóng góp của vợ,
chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; quy định hạn
chế quyền định đoạt tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là
nguồn sống duy nhất của gia đình; quy định về nghĩa vụ về tài sản gắn liền
với nhân thân của vợ, chồng; quy định phân chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân, phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn…
KẾT LUẬN
Chế độ tài sản của vợ chồng đã trở thành một trong những nội dung
quan trọng mà Luật HN&GĐ cần xây dựng, hoàn thiện. Do đó, việc phân tích
những vấn đề lý luận và nội dung của chế độ tài sản vợ chồng pháp định
trong Luật HN&GĐ năm 2014 là một vấn đề mang tính khách quan và cấp
thiết hiện nay nhằm hiểu rõ hơn quy định pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng
pháp định, không ngừng hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng
nói riêng và hoàn thiện pháp luật HN&GĐ Việt Nam nói chung. Qua đó, góp
phần xây dựng và phát triển gia đình hạnh phúc, bền vững
Với đề tài “Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt
Nam năm 2014”, luận văn được hoàn thành với những nội dung chủ yếu như
sau:
25