CÂU HỎI ÔN TẬP THI HỌC KỲ CÓ ĐÁP ÁN P1
MÔN KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG VÀ NUÔI TÔM HE
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ SẢN 2017
Câu 1: Trình bày đặc điểm sinh học của tôm He?
-Khái niệm:
Tôm he là họ tôm lớn trong nhóm tôm sống trong nước lợ - mặn, có
khoảng 110 loài, ở nước ta tôm sú có kích thước lớn nhất trong họ nên
được nuôi rộng rãi.
-Hình thái:
Toàn thân được chia làm 2 phần: đầu ngực và thân nối nhau qua lớp màng
mỏng ở mặt lưng.
+Phần đầu ngực: Tám đốt đầu và 5 lớp ngực; chuỷ; đôi râu A1, A2; mắt
(cuống mắt có cơ quan X và tuyến nút); phụ bộ miệng gồm 1 đôi hàm lớn,
2 đôi hàm nhỏ, 5 đôi chân ngực trong đó gốc chân ngực thứ 5 của tôm đực
có lỗ thoát tinh, ở tôm cái lỗ thoát trứng nằm ở chân ngực thứ 3, túi chứa
tinh nằm giữa đôi chân ngực thứ 4 và 5. Các cơ quan nội tạng đều nằm ở
phần đầu.
+Phần thân: Bao phủ bởi lớp vỏ chitin gồm 7 đốt, 5 đốt trước mang 5 đôi
chân bụng để bơi, đốt thứ 6 có đôi chân bơi, đốt 7 là đốt đuôi. Nhánh trong
của đôi chân bụng tạo thành petasma ở tôm đực. Một đôi thuỳ của buồng
trứng ở dưới lớp vỏ và động mạch chủ chạy dọc thân. Dưới buồng trứng là
ruột, tận cùng ruột là hậu môn mở ra ngoài ở cuối đốt thứ 6.
-Đặc điểm dinh dưỡng:
+Ấu trùng tôm:
*Giai đoạn ấu trùng Nauplius: dinh dưỡng noãn hoàn nên chưa phải cung
cấp thức ăn.
*Gđ Ấu trùng Zoea: Có tính ăn lọc liên tục vì vậy, mật độ tảo trong bể
nuôi phải được duy trì thường xuyên, mỗi ngày cho ăn 4 – 5 lần tảo tươi.
Tảo được cho ăn từ giai đoạn Zoea 1 tăng dần dần ở cuối Zoea 1 đến Zoea
2, tăng tối đa ở giai đoạn Zoea 3 và giảm dần ở giai đoạn Mysis.
*Gđ Ấu trùng Mysis: Có tập tính bắt mồi chủ động, thức ăn là động vật
phù du.
*Gđ Postlarvae: thường bám vào thành, đáy bể và có khả năng bơi lội chủ
động ngược dòng sục khí để bắt mồi, chúng có thể ăn thịt lẫn nhau khi đói.
Vì vậy trong giai đoạn này phải cho tôm ăn thật đầy đủ, thức ăn chủ yếu là
Artemia và thức ăn tổng hợp.
+Tôm trưởng thành:
Giai đoạn tôm trưởng thành: Sống tầng đáy và thức ăn chủ yếu là động vật
đáy, lớp hai mảnh vỏ, xác động vật thối rữa,… Men tiêu hóa trong dạ dày
của tôm chủ yếu là Peptilaza, điều đó chứng tỏ tôm là loài ăn nghiêng về
động vật là chủ yếu. Tôm có cơ quan tiêu hoá ngắn, hấp thu thức ăn nhanh
nên chúng ăn thường xuyên, chúng dùng râu làm khứu giác để dò mồi và
cường độ bắt mồi lớn nhất vào sáng sớm và chiều tối. Tôm thẻ chân trắng
có phổ thức ăn rộng hơn và có thể ăn liên tục trong ngày thậm chí có thể
ăn lại phân của chính mình.
-Đặc điểm sinh lý:
+Khả năng thích ứng với nhiệt độ
Tôm có biên độ giao động nhiệt cao từ 14 – 35 độ C tôm có thể sống được.
Nhiệt độ thích hợp từ 28 – 30 độ C.
+Độ muối:
Tôm sú thích ứng rộng với độ muối từ 0.2 – 40‰, thích hợp là 15 – 32 ‰
nồng độ muối thích ứng nhất cho các mô hình nuôi bán thâm canh và thâm
canh là ở 10 – 1‰. Đối với ấu trùng ương nuôi trong bể thích hợp nhất từ
28 – 30‰.
+Độ pH
Phạm vi pH thích ứng của tôm là 7,5 – 9. Khi môi trường sống của tôm có
pH = 5 tôm chết sau 45 giờ, pH = 5,5 tôm chết sau 24 giờ. Nếu pH xuống
thấp thì tôm mất khả năng vùi mình xuống bùn, dạt vào bờ, tôm yếu ớt,
màu sắc thay đổi đột ngột (tôm nhợt nhạt), đôi khi tôm nhảy cả lên bờ. pH
trong bể ương ấu trùng luôn nằm trong khoảng từ 7,5 – 8,5.
+Các chất khí hòa tan
– Oxy: Tôm rất nhạy cảm với hàm lượng oxy hòa tan trong nước, phạm vi
giới hạn từ 3 – 11mg/lít.
– CO2: Hàm lượng CO2 thích hợp là 10mg/lít.
– H2S: Hàm lượng H2S cho phép trong các ao nuôi thâm canh và bán thâm
canh là 0,03mg/lít và tối ưu là bằng 0. Trong bể ương ấu trùng thì hàm
lượng H2S luôn bằng 0.
+Tính thích ánh sáng và hướng quang của tôm
Đặc tính của tôm là thích ánh sang yếu, mọi hoạt động như: Giao vĩ, sinh
sản, bắt mồi… đều diễn ra vào ban đêm nhất là lúc chập choạng tối và gần
sáng. Tôm trưởng thành có thể nhận biết được tầng ánh sáng 1 lux cách xa
từ 20-30 m. Nhưng nếu nguồn sáng không ổn định tôm có thể bỏ ăn. Ánh
sáng trong bể ương ấu trùng không cần thiết, chủ yếu là ánh sáng nhân tạo.
+Cơ chế lột xác của tôm
Mỗi lần lột xác tôm tăng trưởng về chiều dài và trọng lượng trung bình từ
10-15% so với trước khi lột xác. Sự lột xác của tôm do một loại hooc môn
ở cuống mắt quy định. Cuống mắt còn lại chứa các tế bào kết tủa ion
Canxi và ion Photpho làm cho vỏ tôm cứng lại sau khi lột xác được 0,5-1
giờ. Các tế bào này hoạt động được dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời.
-Đặc điểm sinh trưởng:
Các giai đoạn biến thái và tốc độ sinh trưởng:
– Thời kì biến thái của ấu thể sau khi nở”:
+ Nauplius: Giai đoạn ấu trùng nauplius trãi qua 6 lần lột xác, sau 30 – 35
giờ thì chuyển thành Zoea kích thước cơ thể đạt 0,34mm.
+ Zoea: Qua 3 lần lột xác thời kì biến thái từ giai đoạn zoea 1 đến zoea 3
mất khoảng 4 ngày và kích thước cơ thể đạt khoảng 2,5mm.
+ Mysis: Giai đoạn mysis qua 3 lần lột xác, thời gian biến thái từ mysis 1
đến mysis 3 hết 3 ngày. Đầu giai đoạn này kích thước cơ thể trung bình đạt
2,83mm, cuối giai đoạn kích thước cơ thể đạt 3,79mm.
+ Postlarvae: Đầu giai đoạn postlarvae cứ một ngày lột xác một lần, từ
postlarvae 5 trở đi thì sau 1 – 2 ngày tôm lột xác một lần (phụ thuộc vào
nhiệt độ và nồng độ muối). Ở giai đoạn này cơ thể gần giống tôm trưởng
thành, kích thước cơ thể đầu giai đoạn postlarvae đạt 4,9 – 5mm. Đến cuối
giai đoạn kích thước cơ thể đạt 2 – 3cm.
– Thời kì tôm con: Tôm lớn lên phải trải qua quá trình lột xác, mỗi lần lột
xác tôm tăng trưởng về trọng lượng từ 10 – 15% so với lúc ban đầu. Ở thời
kì tôm con cứ sau 2 – 3 ngày tôm lột xác một lần.
– Thời kì tôm trưởng thành: Tôm trưởng thành lột xác ít hơn, thời gian
giữa hai lần lột xác phụ thuộc rất lớn vào nồng độ muối. Nồng độ muối
thích hợp cho tôm sú là 15-20‰. Ở Đài loan nuôi tôm sú ở nồng độ muối
là 10-15‰. thực tế cho thấy nếu nồng độ muối lớn hơn 25‰ tốc độ lột xác
của tôm chậm, dẫn tới chậm lớn.
-Thời kỳ lột xác:
Trong quá trình tăng trưởng, khi trọng lượng và kích thước tăng lên mức
độ nhất định, tôm phải lột bỏ lớp vỏ cũ để lớn lên. Sự lột xác thường xảy
ra vào ban đêm. Sự lột xác đi đôi với việc tăng thể trọng, cũng có trường
hợp lột xác nhưng không tăng thể trọng.
– Khi quan sát tôm nuôi trong bể, hiện tượng lột xác xảy ra như sau: Lớp
biểu bì giữa khớp đầu ngực và phần bụng nứt ra, các phần phụ của đầu
ngực rút ra trước, theo sau là phần bụng và các phần phụ phía sau, rút ra
khỏi lớp vỏ cứng, với động tác uốn cong mình toàn cơ thể. Lớp vỏ mới
mềm sẽ cứng lại sau 1-2 giờ với tôm nhỏ, 1-2 ngày đối với tôm lớn. Tôm
sau khi mới lột xác, vỏ còn mềm nên rất nhạy cảm với môi trường sống
thay đổi đột ngột. Trong quá trình nuôi tôm, thông qua hiện tượng này, có
thể điều chỉnh môi trường nuôi kịp thời.
– Hormone hạn chế sự lột xác lột xác (MIH, molt – inhibiting hormone)
được tiết ra do các tế bào trong cơ quan của cuống mắt, truyền theo sợi
trục tuyến xoang, chúng tích luỹ lại và chuyển vào trong máu, nhằm kiểm
tra chặt chẽ sự lột xác. Các yếu tố bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ
mặn, điều này có ảnh hưởng tới tôm đang lột xác.
-Đặc điểm sinh sản:
Cơ quan sinh dục cái: Cơ quan sinh dục cái được nhận biết nhờ một cơ
quan giao cấu gọi là Thelycum nằm giữa đôi chân bò thứ 5.
Cơ quan sinh dục đực: Cơ quan sinh dục đực được nhận biết dễ dàng bằng
mắt thường qua cơ quan giao cấu gọi là Petasma nằm giữa đôi chân bò thứ
nhất.
Đặc điểm các giai đoạn phát triển buồng trứng của tôm
+Giai đoạn 1: Buồng trứng dạng sợi mảnh nằm trên ruột, dưới động mạch
bụng kéo dài từ tâm dạ dày đến hết đốt bụng thứ 6.
+Giai đoạn 2: Do buồng trứng phát triển tăng về thể tích và trọng lượng
nên dễ dàng phân biệt với ống tiêu hóa và động mạch bụng, kích thước
trứng đạt từ 174 - 177 n. Nếu nhìn tôm mẹ dưới ánh sáng qua lớp vỏ hoặc
lưng ta thấy một đường đậm chạy dọc theo chiều dài thân tôm.
+Giai đoạn 3: Buồng trứng trương phồng, đường kính trứng đạt kích
thước trung bình 208 - 215 n. Thể tích tăng nhiều lần so với giai đoạn 2 do
đó cần lắp đặt cánh quạt nuôi tôm để cung cấp oxy cho tôm.
+Giai đoạn 4: Là giai đoạn chín mùi sinh dục, trứng đã chuẩn bị cho quá
trình chuyển hóa vật chất sau này, đường kính trứng đạt kích thước tối đa
235 - 239 n. Nếu đặt tôm mẹ dưới nguồn sáng quan sát, ta thấy có dãy
trứng rộng nhất kéo dài từ tâm dạ dày đến giữa đốt bụng thứ 6 và phình to
hình tam giác ở đốt thứ nhất và thứ hai, hạt trứng có màu xanh nhọc và
phân biệt rõ ràng.
+Giai đoạn 5: Gọi là giai đoạn sau khi đẻ buồng trứng đã thải hết trứng ra
ngoài nên khó phân biệt với ống mật. Khả năng đẻ trứng của tôm sú: tôm
sú tự nhiên (ở vùng biển Khánh Hòa, Cà Mau) có thể đẻ từ 300.000 –
1.000.000 trứng. Tôm thường đẻ trứng ở các bãi xa bờ, nước sâu, trong
sạch và có độ mặn cao trên 30%.
Câu 2: Trình bày các giai đoạn phát triển phôi và hậu ấu trùng của tôm sú?
-Trứng: Có hình cầu, màu lục đậm. Trứng chìm chậm trong nước. Khi
trứng rơi vào trong môi trường nước, kích thước trứng tăng chút ít. Ở nhiệt
độ 28 – 30oC sau 14 – 16 giờ trứng nở thành ấu trùng Nauplli.
-Giai đoạn ấu trùng:
+Nauplli: Đặc tính chủ yếu của Nauplli tôm sú là chúng bơi lội bằng râu
và hàm. Giai đoạn Nauplius trải qua 6 lần lột xác và chúng dinh dưỡng chủ
yếu bằng noãn hoàn.
+Zoea: Giai đoạn Zoea qua 3 lần lột xác. Ở giai đoạn này đặc trưng trước
hết bởi những chân hàm như là những bộ phụ bơi lội chủ yếu, ấu trùng bơi
nhanh và bắt đầu dinh dưỡng ngoài. Thức ăn bao gồm một số loài trong
ngành tảo khuê, tảo lục. Ở nhiệt độ 28 – 30 oC, mỗi giai đoạn Zoea cần 30
– 35 giờ để lột xác. Thông thường ở giai đoạn này tỷ lệ tử vong lớn nhất.
+Mysis: Giai đoạn này ấu trùng cũng trải qua 3 lần lột xác. Đặc trưng của
giai đoạn này là ấu trùng bơi ngược về phía sau. Thời gian cần thiết cho sự
biến thái trong giai đoạn phụ thuộc vào nhiệt độ và cần từ 24 – 48 giờ cho
mỗi giai đoạn Mysis. Thức ăn của tôm trong giai đoạn này tương tự như ấu
trùng Zoea, ngoài ra chúng bắt đầu ăn ấu trùng của Artemia.
-Giai đoạn hậu ấu trùng:
Sau giai đoạn Mysis, ấu trùng biến thành hậu ấu trùng và sử dụng chân bơi
là những bộ phụ bơi lội chủ yếu. Có thể phân biệt giữa hậu ấu trùng Mysis
ở chỗ, chân bơi của hậu ấu trùng dài và có nhiều lông cứng, lưng thẳng.
-Thời kỳ lột xác của tôm sú:
Trong quá trình tăng trưởng, khi trọng lượng và kích thước tăng lên mức
độ nhất định, tôm phải lột vỏ bỏ lớp vỏ cũ để lớn lên. Sự lột xác thường,
xảy ra vào ban đêm. Sự lột xác đi đôi với việc tăng thể trọng, cũng có
trường hợp lột xác nhưng không tăng thể trọng. Khi quan sát tôm nuôi
trong bể, hiện tượng lột xác xảy ra như sau: Lớp biểu bì giữa khớp đầu
ngực và phần bụng nứt ra, các phần phụ của đầu ngực rút ra trước, theo
sau là phần bụng và các phần phụ phía sau, rút ra khỏi lớp vỏ cứng, với
động tác uống cong mình trong cơ thể.
Lớp vỏ mới mềm sẽ cứng lại sau 1 – 2 giờ với tôm nhỏ, 1 – 2 ngày đối với
tôm lớn. Tôm sau khi mới lột xác, vỏ còn mềm nên rất nhạy cảm với môi
trường sống thay đổi đột ngột. Trong quá trình nuôi tôm, thông qua hiện
tượng này, có thể điều chỉnh môi trường nuôi kịp thời.
Hormon hạn chế sự lột xác (MIH, molt – inhibiting hormon) được tiết ra
do các tế bào trong cơ quan của cuống mắt, truyền theo sợi trục tuyến
xoang, chúng tích lũy lại và chuyển vào trong máu, nhằm kiểm tra chặt
chẽ sự lột xác. Các yếu tố bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn, điều
này có thể ảnh hưởng tới tôm đang lột xác.
Câu 3: Phân biệt giới tính ở tôm sú?
Tôm sú thuộc loại dị hình phái tính, con cái có kích thước to hơn con đực.
Khi trưởng thành có thể phân biệt rõ đực, cái thông qua cơ quan sinh dục
phụ bên ngoài.
+Tôm sú đực: Cơ quan sinh dục chính nằm ở phía trong phần đầu ngực,
bên ngoài có cơ quan giao phối phụ nằm ở nhánh ngoài đôi chân ngực thứ
2, lỗ sinh dục đực mở ra hốc háng đôi chân ngực thứ 5 (Petasma). Tinh
trùng thuộc dạng chứa trong túi.
+Tôm sú cái: Buồng trứng nằm dọc theo mặt lưng phía trên, hai ống dẫn
trứng mở ra ở khớp háng đôi chân ngực thứ 3. Bộ phận chứa túi tinh gồm
2 tấm phồng lên ở đôi chân ngực thứ 4 và thứ 5 dưới bụng tôm
(Thelycum)
Câu 4: Trình bày chu kỳ sống của tôm sú (vòng đời của tôm)?
*Phôi: Bắt đầu khi trứng thụ tinh, phân chia tế bào, phôi dâu, phôi
nauplius đến khi nở, thời gian phát triển phôi tuỳ từng loài và phụ thuộc
vào nhiệt độ nước.
*Các giai đoạn phát triển ấu trùng tôm sú :
– Nauplli: 6 giai đoạn: 36 – 51 giờ, các Nauplli bơi từng đoạn ngắn rồi
nghỉ, lột vỏ 4 lần, mỗi lần khoảng 7 giờ, tự sống bằng noãn hoàng, không
cần cho ăn
+ N1: dài khoảng 0,4 mm, dày 0,2 mm
+ N2: dài khoảng 0,45 mm, dày 0,2 mm
+ N3: dài khoảng 0,49 mm, dày 0,2 mm
+ N4: dài khoảng 0,55 mm, dày 0,2 mm
+ N5: dài khoảng 0,61 mm, dày 0,2 mm
– Zoea: 3 giai đoạn: 105 – 120 giờ, các Zoea bơi liên tục gần mặt nước, lột
vỏ 2 lần, mỗi lần khoảng 36 giờ, ăn thực vất phiêu sinh.
+ Z1: dài khoảng 1 mm, dày 0,45 mm, xuất hiện hai phần dầu và bụng rõ
rệt.
+ Z2: dài khoảng 1,9 mm, xuất hiện mặt và chủy.
+ Z3: dài khoảng 2,7 mm, xuất hiện gai trên bụng.
– Mysis: 3 giai đoạn: 72 giờ, các Mysis bơi hướng xuống sâu, đuôi đi
trước, đầu đi sau.
+ M1: dài khoảng 3.4mm, có hình dạng của tôm trưởng thành, xuất hiện
các cặp chân bụng, đuôi và quạt đuôi, các gai bụng thu nhỏ lại.
+ M2: dài khoảng 4 mm.
+ M3: dài khoảng 4,4 mm, chân bụng dài hơn, phân thành đốt nhỏ, xuất
hiện răng trên chủy.
-Postlarvae: Có 3 – 4 giai đoạn phụ trong 6 đến 15 ngày, hậu ấu trùng 1
ngày tuổi gọi là Post 1(tôm bột) cho đến khi được 5 ngày tuổi.
*Giai đoạn ấu niên: Cuối tôm bột và gọi là tôm giống, P15 – P20 tôm với
công thức gai chuỷ đầy đủ, hệ thống râu, mang hoàn chỉnh, sắc tố phát
triển, tôm bắt đầu bò bằng chân ngực và bơi bằng chân bụng và chuyển
sang sống đáy.
*Thiếu niên: Tỷ lệ thân gần ổn định, bắt đầu có Thelycum và petasma
nhưng chưa dính lại, GĐ này tương đương nuôi tôm giống và nuôi thịt
trong sản xuất. Cuối thời niên thiếu con cái tăng trưởng về kích thước
nhanh hơn con đực.
*Giai đoạn gần trưởng thành: với sự chín sinh dục hoàn toàn, tôm tiến
hành giao vĩ lần đầu, tôm đực có tinh trùng trong tinh nang, con cái có tinh
nang trong thelycum, chúng bắt đầu rời cửa sông ra biển để thực sự trưởng
thành.
*Juvenile: Giai đoạn trưởng thành – Tuổi thành thục: tuổi thành thục sinh
dục của tôm đực và tôm cái từ tháng thứ 8 trở đi. Xác định sự thành thục
của tôm cái dễ hơn, chỉ cần quan sát có túi tinh ở cơ quan sinh dục phụ.
Phương pháp xác định thành thục ở con đực khó hơn, chỉ khi nào tìm thấy
được tinh trùng ở cuối ống dẫn tinh. Thường dựa vào trọng lượng để xác
định khi con đực nặng từ 50g trở lên.
+ Hormone điều khiển sự thành thục sinh dục (GIH, gonal inhibiting
hormone) được sản xuất bởi tế bào thần kinh trong cơ quan X của cuống
mắt, vận chuyển tới tuyến giáp sinap đưa vào kho dự trữ và khi cần thì tiết
ra. Sự thành thục sinh dục của tôm sú thông qua tác động của tuyến nội
tiết, khi cắt mắt tức là thúc đẩy chu kỳ lộ xác, đem lại sự thành thục mau
chóng hơn.
+ Số lượng trứng đẻ của tôm cái: nhiều hay ít là phụ thuộc vào chất lượng
buồng trứng và trọng lượng cá thể: trọng lượng lớn cho trứng nhiều hơn.
Khi con cái thành thục ngoài tự nhiên có trọng lượng từ 100-300g cho
300.000 -1.200.000 trứng. Nếu cắt mắt nuôi vỗ trong bể xi măng, thành
thục và đẻ, cho số lượng trứng từ 200.000- 600.000 trứng.
+ Tôm cái đẻ trứng vào ban đêm (thường từ 22 giờ đến 2 giờ) trứng sau
khi đẻ được 14-15 giờ, ở nhiệt độ 27-28 độ C sẽ nở thành ấu trùng
(Nauplii). Tôm sú đẻ quanh năm, nhưng tập trung vào hai thời kỳ chính:
tháng 3-4 và tháng 7-10.
– Tuổi thọ tôm sú con đực khoảng 1,5 năm, con cái chừng 2 năm.
– Có hai đặc điểm cần chú ý trong vòng đời Tôm sú.
+ Tăng trưởng từ hậu ấu trùng đến lúc trưởng thành xảy ra vùng cửa sông
(đặc trưng bởi vùng nước lợ).
+ Sự chín sinh dục, kết cặp, đẻ trứng và sự phát triển ấu trùng đều xảy ra ở
ngoài khơi nơi có nồng độ muối giao động từ 28 – 32‰ và ổn định.
Câu 4 : Đặc điểm của tôm thẻ chân trắng?
*Lột vỏ và sinh trưởng
Sự sinh trưởng và lột vỏ của tôm thẻ chân trắng có quan hệ chặt chẽ với
nhau.. Tốc độ tăng trưởng của tôm có liên quan đến 2 yếu tố lớn sau :
① Tần số lột xác, tức là khoảng thời gian của mỗi lần lột vỏ.
② Mức độ tăng trưởng sinh sản, tức là mức tăng thể trọng sau mỗi lần lột
vỏ tính đến trước khi lột vỏ đợt sau.
1) Lột vỏ
Mỗi khi sinh trưởng đến một GĐ nhất định, vỏ của tôm thẻ chân trắng bị
lão hóa, vỏ mới được hình thành từ bên trong, và xuất hiện vết nứt giữa vỏ
mới và vỏ cũ. Khi đến thời gian lột vỏ, các cơ thịt của tôm bật mạnh, lớp
vỏ giáp đầu ngực và các vết nứt trên cơ thể bật tách ra sau, lần lượt bong
hết ra. Những con tôm khỏe mạnh, chỉ cần 3~5 phút là có thể lột xác xong.
Cơ thể tôm khi mới lột xác có màu trong, yếu, bơi lờ đờ trên mặt nước,
hoặc vùi dưới đáy ao. Tôm non khoảng 1~3gram, vài tiếng sau vỏ mới mới
có thể cứng trở lại, còn tôm lớn thì 1-2 ngày sau vỏ mới cứng lại được.
Giai đoạn ấu trùng tôm thẻ chân trắng: khi nhiệt độ nước khoảng 28℃,
khoảng 30 ~ 40 tiếng sẽ lột vỏ một lần.
Tôm lớn khoảng 15 ngày mới lột vỏ một lần. Lột vỏ của tôm thẻ chân
trắng có liên quan đến hiện tượng trăng tròn trăng khuyết, vào ngày mùng
một trăng khuyết âm lịch hoặc 15 trăng tròn tôm sẽ lột vỏ rất nhiều.
Độ mặn thấp hoặc nhiệt độ cao sẽ tăng số lần lột vỏ của tôm. Môi trường
nuôi thay đổi, hoặc sử dụng các chất hóa học cũng ép buộc kích thích tôm
lột vỏ.
Mỗi lần lột vỏ của tôm đề là một thử nghiệm quan trọng cho sự sinh
trưởng. Có hai vấn đề thường xuất hiện nhất:
① Khi cơ thể tôm còn yếu dễ bị các con tôm khác ăn thịt;
② Khi lột vỏ, tỉ lệ hô hấp khíôxy tương đối thấp, nếu như lột vỏ không
thuận lợi thì có sẽ thể gây ra hiện tượng thiếu ôxy, dẫn đến phát bệnh mà
chết.
2)Sinh trưởng phát triển
Tốc độ sinh trưởng của tôm thẻ chân trắng tương đối nhanh. Trong trường
hợp không cho tôm ăn ở độ mặn khoảng từ 20~40‰, nhiệt độ khoảng từ
30)32℃, tính từ lúc thả tôm cho đến khi thu hoạch, trong vòng 180 ngày,
thể trọng trung bình của mỗi con tôm có thể đạt tới 40gram, chiều dài tăng
từ 1cm đến 14cm trở lên.
*Tập tính bắt mồi
1)Tập tính ăn
Tôm chân trắng là loài ăn tạp, nhu cầu đối với thức ăn mang tính động vật
cũng khá nghiêm ngặt. Chỉ cần tỉ lệ protein trong thành phần thức ăn
chiếm 20% trở lên, tôm thẻ chân trắng sau khi ăn sẽ có thể phát triển bình
thường. Nuôi tôm thẻ chân trắng có thể sử dụng nguồn thức ăn thực vật để
thay thế thức ăn chăn nuôi cao cấp giá thành cao, từ đó có thể tiết kiệm
đáng kể chi phí nuôi tôm.
2) Tập tính bắt mồi
Tôm thẻ chân trắng là loài ưa hoạt động mạnh về đêm, ban ngày thường
vùi mình dưới đáy, không chủ động ra ngoài kiếm ăn, nhưng trong môi
trường nuôi trồng nhân tạo, nếu ban ngày ta cho ăn tôm sẽ vẫn bắt mồi
bình thường, nguyên nhân là do bị kích thích bởi thức ăn ở cự li gần. Khi
cho ăn, hợp lý nhất là ban ngày cho ăn khoảng 25 )35) và ban đêm cho
ăn khoảng 65)75).
Trong ao nuôi, tốc độ sinh trưởng và phát triển của tôm thẻ chân
trắng có quan hệ mật thiết với số lần cho ăn, số lần cho ăn tỷ lệ thuận
với sự sinh trưởng và phát triển của tôm, cho ăn nhiều thì tôm sẽ phát
triển nhanh.
Câu 5: Trình bày quy trình xây dựng trại sản xuất giống tôm he?
Trại sản xuất giống được xây dựng phải có sự cho phép của các cơ quan
chủ quản.Vị trí xây dựng trại có thể nằm ở ven biển, sông, kênh rạch… ,
sao cho đảm bảo được nguồn nước mặn có thể cung cấp trong suốt quá
trình sản xuất. Trại được xây dựng một cách bán cơ bản hoặc cơ bản cần
phải xây dựng đầy đủ các hệ thống trang thiết bị cần thiết như sau:
Công trình xây dựng cần thiết:
- Bể ương nuôi tôm bố mẹ.
- Bể cho tôm sinh sản.
- Bể ương nuôi ấu trùng ( từ giai đoạn nauplius đến post larvae).
- Hệ thống cấp nước đầu vào
- Bể lắng lọc nước.
- Hồ chứa và xử lý nước thải.
- Nhà làm việc, Phòng kỹ thuật, Phòng máy...
- Nhà bao che khu sản xuất, tường rào bảo vệ.
- Nhà ở và khu vệ sinh cho công nhân.
Trang thiết bị chính:
- Máy bơm nước mặn,Ống dẫn nước, val các loại...
- Hệ thống khí: Máy thổi khí hoặc nén, ống dẫn khí, val đá bọt các loại...
- Hệ thống điện hoàn chỉnh, có máy phát điện dự phòng.
- Lưới các loại đủ kích cỡ mắt lưới.
- Dụng cụ đo độ mặn, pH, nhiệt kế, cân, bình Oxy, thau, xô, ca, ly thủy
tinh, đèn pha, lọc tinh ...
Lưu ý:
- Trang thiết bị, dụng cụ sử dụng cho cơ sở sản xuất phải được làm bằng
vật liệu không gỉ; không độc, tiện lợi, bảo đảm vệ sinh và chuyên dụng.
-Khi kết thúc đợt sản xuất thì hệ thống nhà xưởng, các loại bể, trang thiết
bị và dụng cụ trực tiếp phục vụ sản xuất phải được vệ sinh, khử trùng định
kỳ hoặc sau mỗi lần sử dụng để bảo đảm vệ sinh thú y thủy sản. Dụng cụ
sản xuất sau khi được vệ sinh khử trùng phải được phơi khô và để nơi khô
ráo.
Câu 6: Trình bày các loại thức ăn cho ấu trùng tôm?
Loại thức ăn cho ấu trùng tôm phụ thuộc vào khả năng sẵn có ở từng địa
phương. Thông thường, người ta chọn loại thức ăn rẻ nhất có kết quả tốt
nhất mà lại sẵn có quanh năm. Có nhiều loại thức ăn được sử dụng ở trại
giống như :
- Thức ăn sống
+Thực vật phù du (Skeletonema sp, Chaetoceros sp và Tetraselmis sp).
Thực vật phù du được sử dụng ở giai đoạn ấu trùng zoea. Ðối với việc
nuôi tảo silic, có hai bước :
. Nuôi thuần trong phòng thí nghiệm
. Nuôi sinh khối: Sử dụng nguồn tảo giống từ nuôi thuần hay các bể nuôi
sinh khối khác. Quá trình nuôi tảo phát triển theo 4 pha: Pha bắt đầu, pha
tăng trưởng, pha dừng và pha chết. Tảo phát triển nhanh nhất vào pha tăng
trưởng, thông thường tảo được thu hoạch khi ở cuối kỳ tăng trưởng bằng
cách lọc qua lưới 40 m. Do tảo có vòng đời ngắn nên việc theo dõi màu
nước để xác định thời điểm thu hoạch rất quan trọng.
- Ðộng vật phù du (Artemia và trùng bánh xe)
Ðộng vật phù du được sử dụng ở giai đoạn ấu trùng mysis và hậu ấu trùng.
+Artemia : Artemia là thức ăn bổ dưỡng và thích hợp với ấu trùng, nhưng
rất đắt và phải nhập khẩu dưới dạng bào xác dựng trong hộp chân không.
Bào xác phải cho nở trong nước biển với hệ thống sục khí mạnh.
Lượng Artemia được sử dụng ở mức 2 gm/l nước biển. Trứng sẽ nở trong
vòng 24 - 48 giờ và sau đó vỏ trứng phải được vớt ra bằng cách ngừng sục
khí để vỏ trứng nổi lên trên bề mặt. ấu trùng Artemia được lấy ra khỏi bình
bằng cách dùng xiphông. Artemia cần được xử lý bằng formalin ở nồng độ
100 mg/l trong vòng 1 giờ trước khi cho ấu trùng tôm ăn.
ở một số trại giống, Artemia bào xác được lột vỏ bằng vôi clorua
Ca(OCl)2 và CaO hoặc Na2CO3 trước khi cho nở. Việc lột vỏ Artemia bào
xác được Sorgeloos và CTV mô tả lần đầu tiên năm 1977, với cách làm
sau đây :
Chuẩn bị dung dịch lột vỏ bằng vôi clorua Ca(OCl)2 như chất hoạt tính
được hoà tan trong nước và sục khí trong 10 phút. Sau đó bổ sung CaO kỹ
thuật hoặc Na2CO3 để ổn định độ pH của dung dịch lột vỏ và lúc đó toàn
bộ dung dịch này được sục khí 10 phút nữa. Hỗn hợp dung dịch này được
giữ qua đêm để làm mát và cho lắng đọng. Chất nổi tầng mặt được lấy ra
bằng xiphông vào sáng hôm sau và được dùng cho việc lột vỏ.
Tỷ lệ giữa bào xác và vôi clorua được dùng là 5g vôi clorua cho 10g bào
xác và tỷ lệ giữa bào xác và cacbonat natri hoặc canxi ôxit là 7g
Na2CO3 kỹ thuật hoặc 3g CaO kỹ thuật cho 10g bào xác.
Trong thời gian xử lý lột vỏ, bào xác được giữ trong dụng cụ chứa hình
trụ-chóp nón được làm hoàn toàn bằng lưới thép không gỉ (kích thước mắt
lưới 150 mm), có sục khí để đạt được sự tuần hoàn tối ưu trong dụng cụ
chứa.
Công việc làm bằng tay duy nhất trong quá trình lột vỏ là việc liên tục
chuyển dụng cụ chứa dùng cho việc lột vỏ sang bồn tắm theo trình tự nước
biển, hipoclorit, nước máy, axit cloric và cuối cùng là nước máy. Các
bước này được mô tả như sau : Ðầu tiên, thuỷ hợp Artemia bào xác trong
bồn tắm nước biển trong thời gian 1 giờ và chuyển bào xác sang bồn lột
xác, giữ bào xác ở đây 5 đến 10 phút để phản ứng xảy ra trọn vẹn. ở bước
này hipoclorit được giữ ở nhiệt độ dưới 35oC bằng cách cho tuần hoàn
liên tục qua bộ phận làm mát là một cuộn dây đồng để ngập trong bồn
chứa muối và nước đá.
+ Chuyển bào xác đã được lột vỏ sang bồn rửa và rửa kỹ bằng nước máy
+ Tiếp tục để bào xác đã lột vỏ ở trạng thái lơ lửng trong bồn khử hoạt
tính (dung dịch 0,1 HCl hoặc dung dịch Hac) trong vài phút để khử hoạt
tính của dư lượng clo trong bào xác đã lột vỏ ngay cả sau khi đã rửa kỹ
bằng nước máy
+ Cuối cùng, dùng nước máy rửa kỹ, lúc này đã có thể cho bào xác đã lột
vỏ vào ấp ở điều kiện cho nở tối ưu.
+Trùng bánh xe(Luân trùng) : Trùng bánh xe nhỏ hơn Artemia và thích
hợp cho ấu trùng giai đoạn mysis. Thông thường, thức ăn của trùng bánh
xe là rong tiểu cầu Chlorella sp lục. Cách sản xuất Chlorella rất giống với
cách sản xuất tảo silic nhưng dùng loại phân bón khác. Loại phân bón này
bao gồm:
Ca3(POe)2
15 g/m3 nước biển
NH4S2O4
100g
Urê
5g
Có hai phương pháp chủ yếu trong nuôi sinh khối trùng bánh xe tuỳ theo
kích cỡ bể nuôi và qui trình thu hoạch :
+Một là phương pháp thay đổi bể
+Hai là phương pháp thu hoạch từng phần: Phương pháp thay đổi bể sử
dụng các bể có sức chứa 0,5 - 3m3. Lúc đầu cấy Chlorella vào một bể (bể
A). Sau khi mật độ Chlorella đạt mức 1 x 107 tế bào/ml. Khi nước từ màu
lục trở nên trong thì cho men bánh mỳ vào, hai lần trong một ngày với tỷ
lệ 1g men cho 106 trùng bánh xe. Khi mật độ trùng bánh xe vượt quá 100
cá thể/ml (khoảng 5 - 7 ngày sau khi cấy); tiến hành thu hoạch phần lớn
và dùng cho ấu trùng tôm ăn. Phần còn lại hơn được giữ để làm nguyên
liệu cấy cho bể Chlorella khác (bể B). Như vậy qui trình này là sự chuyển
từ bể A sang bể B, B sang C, C sang D và tiếp tục như vậy.
Trong phương pháp thu hoạch từng phần, cần có một số bể riêng biệt loại
to để sản xuất sinh khối Chlorella và trùng bánh xe, chẳng hạn hai bể loại
50m3 để nuôi Chlorella sp cùng với một số bể loại 10m3 để nuôi trùng
bánh xe. Lúc đầu, cấy Chlorella sp vào bể nuôi trùng bánh xe và đưa mật
độ lên mức 1 - 2 x 107 tế bào/ml. Trùng bánh xe được cấy ở mật độ 10 - 20
cá thể/ml. Khi mật độ trùng bánh xe vượt quá 100 cá thể/ml thì tiến hành
thu hoạch 1/5 đến 1/3 khối lượng tuỳ thuộc vào mật độ của trùng bánh xe.
Lúc này, bổ sung một số lượng nuôi Chlorella sp ngang bằng (1-2x107 tế
bào/ml). Có thể thu hoạch trùng bánh xe hằng ngày bằng lưới phù du
No.200 (75 mm). Một ấu trùng giai đoạn mysis ăn hết khoảng 100 - 300
trùng bánh xe trong 1 ngày.
-Thức ăn bổ sung
a) Sữa, lòng đỏ trứng luộc và sữa trứng, dùng cho giai đoạn zoea và mysis.
b) Sữa trứng, bột tôm, vẹm, bột sò, cá tươi đã sàng lọc, mực, hàu được
dùng cho giai đoạn hậu ấu trùng.
c) Thức ăn vi bao nang được dùng cho giai đoạn từ zoea đến hậu ấu trùng.
d) Thức ăn viên (30 - 40% prôtêin) cỡ 100 mdùng cho giai đoạn hậu ấu
trùng.
Câu 7: Quy trình xử lý nước trong trại tôm giống?
Gồm 7 bước thực hiện
B1: Kiểm tra nguồn nước cấp: Độ mặn cao hơn 25%o (tốt nhất 28 –
32%o) và ổn định trong mùa sản xuất. PH = 7,5 – 8,5. DO > 5mg/l. Độ
trong >30cm.
B2: Cấp nước vào bể chứa: Lúc thuỷ triều đứng lớn, thời tiết ổn định,
không mưa bão, thuỷ triều đỏ, sứa.., kiểm tra các nguồn nước gần khu vực.
B3: Sát trùng nước:
*Xử lý bằng thuốc tím
Cơ chế sát trùng:
Thuốc tím có khả năng tiêu diệt vi khuẩn, nấm, tảo và cả vi rút thông qua
việc oxy hóa trực tiếp màng tế bào của vi sinh vật, phá hủy các enzyme
đặc biệt điều khiển quá trình trao đổi chất của tế bào. Đối với nhóm
protozoa, hiệu quả của thuốc tím kém hơn.
Cơ chế tủa sắt (Fe) và manganese (Mn) trong nước:
Thuốc tím thường được sử dụng để oxy hóa Fe, Mn, các hợp chất gây ra
mùi và vị của nước. Để oxy hóa 1mg Fe và 1mg Mn, cần 0,94 và 1,92mg
thuốc tím tương ứng trong vòng 5-10 phút.
3Fe2+
+ KMnO4
+ هH2O ⇒ 3Fe(OH)3 + MnO2 + K+ + 5H+
3Mn2+ + 2KMnO4 + 2H2O ⇒ 5MnO2 2K+ + 4H+
Cơ chế làm trong nước:
Thứ nhất, thuốc tím oxy hóa từ đó làm giảm lượng vật chất hữu cơ trong
môi trường. Thứ hai, đối với nước có độ đục do phù sa, các hạt keo
khoáng (tích điện âm) gây ra, Mn2+ sẽ tác dụng lên bề mặt của keo khoáng,
làm cho keo khoáng trở nên trung tính và lắng tụ.
Trong thủy sản, việc sử dụng thuốc tím sẽ làm giảm lượng oxy hòa tan
trong ao, vì thuốc tím sẽ diệt một lượng lớn tảo trong môi trường ao nuôi.
Độ độc của thuốc tím sẽ gia tăng ở môi trường có pH cao, và trong nước
cứng (độ cứng lớn hơn 150mg CaCO3/L). Nếu sử dụng để diệt tảo thì
thuốc tím có lợi thế hơn sulfate đồng (CuSO4) vì trong môi trường có độ
kiềm thấp, thuốc tím sử dụng an toàn hơn.
Thuốc tím được sử dụng trong việc làm giảm lượng hữu trong nước, oxy
hóa chất hữu cơ lắng tụ ở nền đáy, giảm mật độ tảo, xử lý một số bệnh liên
quan đến vi khuẩn, kí sinh trùng ở mang và nấm trên tôm cá. Ngoài ra,
thuốc tím cũng có khả năng oxy hóa các chất diệt cá như rotenone và
antimycin và có thể ngăn chặn quá trình nitrite hóa.
Liều lượng thuốc tím sử dụng phụ thuộc vào lượng vật chất hữu cơ trong
môi trường nước. Vì vậy, việc ước lượng hàm lượng thuốc tím sử dụng là
cực kỳ quan trọng. Nếu không, lượng thuốc tím sẽ phản ứng với vật chất
hữu cơ, trở nên trung tính và không đủ độc lực để tiêu diệt mầm bệnh.
Một phương pháp thông thường khi sử dụng thuốc tím là bắt đầu với liều 2
mg/L. Nếu sau khi xử lý thuốc tím, quá trình chuyển màu của nước từ tím
sang hồng diễn ra trong vòng 8-12 giờ, nghĩa là lượng thuốc tím sử dụng
đã đủ không cần tăng thêm. Tuy nhiên, nếu trong vòng 12 giờ xử lý, màu
nước chuyển sang màu nâu, điều này được xác định là chưa đủ liều, do đó
có thể thêm 1-2 mg/L nữa. Thời gian xử lý thuốc tím thường được bắt đầu
vào sáng sớm để có thể quan sát sự chuyển màu của thuốc tím trong 8-12
giờ. Bơm nước sang bể khác và tiến hành xử lý Clorin
B4 Sát trùng nước:
*Xử lý Clorin:Clorin là một lọai hóa chất sát khuẩn mạnh và được sử
dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản để xử lý nước tại ao lắng, sát
khuẩn bể nuôi tôm giống, khử trùng ao nuôi, sát khuẩn dụng cụ...
Công thức hóa học: Có 2 dạng clorin phổ biến: Ca(OCl)2 (Calci
hypochloride) và NaOCl (Natri hypochloride).
Chlorine tự do (Cl2, HOCl và OCl-) tồn lưu trong nước sẽ gây độc đối với
tôm cá và các loài thủy sinh vật. Nồng độ chlorine tự do tối đa cho phép
đối với thủy sinh vật là 0,01 mg/L. Ở nồng độ 0,1 mg/L, chlorine tự do có
thể gây chết hầu hết phiêu sinh vật biển và nồng độ chlorine tự do 0,37
mg/L có thể gây chết cá. Do đó, sau khi khử trùng nên khử chlorine hoặc
sục khí mạnh trong 3-5 ngày trước khi thả cá. Có thể khử chlorine sau khi
khử trùng bằng Na2S2O3, để loại bỏ 1 mg/L Cl cần dùng 6,99 mg/L
Na2S2O3.
Nồng độ 25 – 30ppm. Sau 24 – 48h sục khí mạnh
Ưuđiểm:
-Clorin có khả năng diệt khuẩn mạnh, diệt trừ một số loại virus, các ký chủ
mang virus (tôm nhỏ, ruốc...), vi khuẩn, tảo, động vật phù du...
Nhược điểm:
- Dư lượng clo tích tụ lâu ngày có thể làm thoái hóa môi trường.
- Khó gây màu nước sau khi sử dụng.
Cách sử dụng:
Trong môi trường nước mặn, lợ clorin hiện diện dưới hai dạng HOCl và
OCl- ; HOCl có độc tính cao hơn OCl- 100 lần.
Khi pH môi trường thấp, dạng HOCl tồn tại nhiều trong nước, ngược lại
khi pH môi trường cao OCl- tồn tại nhiều hơn. Do đó clorin có hiệu quả
cao trong môi trường có pH thấp.
Dư lượng Clorin trong nước được khử bằng Na 2S2O3 (Thiosulphat Natri)
với tỷ lệ tối đa 1/7 (Boyd, 1992) mang lại hiệu quả cao nhất. Có thể khử
lượng clo dư bằng thiosulfat natri với tỷ lệ 1:1 tuy cách này đơn giản
nhưng lượng S dư có thể là môi trường dinh dưỡng cho nhóm vi khuẩn
Vibrio trong nước phát triển làm tôm bị bệnh phát sáng.
B5: Lọc nước trong bể cơ học: Bằng bể xuôi hay ngược nhằm giữ lại các
vật chất lơ lửng trong nước.
B6: Cấp nước vào bể ương nuôi
B7: Xử lý EDTA
EDTA được sử dụng ở dạng muối dinatri của axit Etylen Diamin Tetra
Axeyic còn có tên gọi khác là complexon III hoặc Trilon B. Thông thường
trong nước biển người ta dùng với liều lượng 1g/100 lít nước biển. Trong
phân tử complexon có một số nhóm chức có khả năng đồng thời liên kết
nguyên tử trung tâm phức bằng một số liên kết phối trí. Complexon III tạo
với các cation Ca2+ và Mg2+ thành các muối nội phức bền vững và tan trong
nước.
Tương tác của complexon II với cation Ca2+ và Mg2+ có thể trình bày dưới
dạng sơ đồ:
- Phương pháp oxy hóa-khử: dùng các loại hóa chất có tính khử mạnh để diệt
các vi sinh vật trong nước, có 2 phương thức để thực hiện:
Loại bỏ vi sinh ra khỏi môi trường nước
Giết chết hoặc vô hiệu hóa các chủng loại vi sinh gây bệnh.
Xử lý EDTA để kết tủa, khử tính độc của các ion kim loại nặng hoà tan trong
nước giúp ấu trùng tôm chịu đựng tốt hơn môi trường nước trong bể, nồng
độ 5ppm hoặc 5 – 10ppm nếu nguồn nước bị nhiễm bẩn hoặc phèn và mạch
nước ngầm