VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ THẢO
ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
(QUA TRUYỆN NGẮN VÀ KÝ)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Đỗ Hải Ninh
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tôi
xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.
TÊN TÁC GIẢ
PHẠM THỊ THẢO
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC VÀ VỊ TRÍ CỦA VĂN XUÔI
NGUYỄN QUANG THIỀU TRONG DÒNG MẠCH VĂN XUÔI TRỮ TÌNH
THỜI KỲ ĐỔI MỚI .................................................................................................9
1.1. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Thiều.......................................9
1.2. Văn xuôi Nguyễn Quang Thiều trong dòng mạch văn xuôi trữ tình thời kỳ đổi
mới.............................................................................................................................17
CHƯƠNG 2: CẢM QUAN VỀ ĐỜI SỐNG TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN
QUANG THIỀU ......................................................................................................24
2.1. Hình ảnh làng quê và nông thôn trong văn xuôi Nguyễn Quang Thiều ............24
2.2. Cảm thức về đô thị trong văn xuôi Nguyễn Quang Thiều .................................39
2.3. Vấn đề hậu chiến trong văn xuôi Nguyễn Quang Thiều ....................................44
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU CỦA
VĂN XUÔI NGUYỄN QUANG THIỀU ..............................................................56
3.1. Ngôn ngữ văn xuôi Nguyễn Quang Thiều .........................................................56
3.2. Giọng điệu văn xuôi Nguyễn Quang Thiều .......................................................63
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ...........................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................79
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn học Việt Nam sau 1975 có sự nở rộ và phát triển mạnh mẽ ở loại hình văn
xuôi nghệ thuật. Có thể nói, đây là “thời kì vàng” của văn xuôi Việt Nam. Xu hướng
dân chủ hóa trong văn học đã mở ra cho các nhà văn những chân trời khám phá và
những thể nghiệm mới về hiện thực cuộc sống. Hàng loạt các tác phẩm văn xuôi với
những cách tân vượt trội cùng với sự xuất hiện của một lực lượng đông đảo các nhà
văn trẻ đã làm nên diện mạo đặc biệt cho văn học giai đoạn này.
Thực tế đời sống văn học cho thấy, văn học Việt Nam từ 1975 đến nay,
nhất là sau 1986 được nghiên cứu khá nhiều với ý nghĩa là văn học thời
k ỳ đổi mới . Người ta gọi văn học Việt Nam sau 1986 là giai đoạn “văn học
trong thời kì đổi mới”, “văn học đổi mới”. Và để làm nổi bật sự đổi mới đó, bên
cạnh việc nghiên cứu tổng quát về những đặc điểm văn học, thành tựu văn học,
thì việc tìm hiểu phong cách của từng nhà văn sẽ góp phàn nhận diện bức tranh
trong thể đa sắc của văn học thời kỳ đổi mới.
Nguyễn Quang Thiều không chỉ là một trong những nhà thơ cách tân hàng
đầu trong đổi mới mà còn là cây bút văn xuôi giàu cảm xúc. Ông là một gương mặt
nổi bật trong nền văn học Việt Nam đương đại, thành công ở nhiều loại hình nghệ
thuật như: Thơ, truyện ngắn, kí, tiểu thuyết, truyện thiếu nhi, dịch thuật, tiểu luận và
tản văn. Hiện nay, ông đã xuất bản 10 tập thơ, 16 tập văn xuôi, 3 tập sách dịch. Nói
đến Nguyễn Quang Thiều người ta vẫn thường nói nhiều đến thơ của ông mà chưa
chú ý đúng mức đến các sáng tác văn xuôi. Không được chú ý nhiều như thơ nhưng
văn xuôi Nguyễn Quang Thiều có nhiều nét đặc sắc và có phong cách riêng, tiêu
biểu cho lối viết văn đậm chất trữ tình, tạo được những dấu ấn sâu sắc trong lòng
bạn đọc và giành được nhiều giải thưởng có uy tín. Một số truyện ngắn của Nguyễn
Quang Thiều đã được chuyển thể thành phim và gây được hiệu ứng rộng rãi đối với
công chúng như: Người đàn bà tóc trắng, Mùa hoa cải ven sông, Hai người đàn bà
xóm Trại. Và không chỉ tạo được sự chú ý của độc giả ở Việt Nam, một số truyện
của ông còn được dịch và xuất bản ở nhiều nước trên thế giới như: Hoa Kỳ, Pháp,
Nauy,Nhật, Thụy Điển, Australia, Thái Lan, Inđônêxia... Hai tập truyện ngắn của
1
nhà văn đã được dịch và xuất bản tại Pháp: La Fille Du Fleuve (1997), La Petite
Marchande De Vermaicelles (1998).
Có thể thấy văn xuôi Nguyễn Quang Thiều thể hiện rất rõ ý thức tìm tòi, đổi
mới về mặt thể loại với một phong cách riêng đậm chất trữ tình. Chọn đề tài Đặc
điểm văn xuôi Nguyễn Quang Thiều qua truyện ngắn và ký, luận văn muốn tìm
hiểu một cách hệ thống những sáng tác thuộc thể loại văn xuôi, khái quát những
đặc điểm cơ bản văn xuôi của nhà văn này cả về phương diện nội dung lẫn hình
thức nghệ thuật. Qua đó, góp phần khẳng định sự đa dạng, phong phú của văn học
Việt Nam đương đại và ít nhiều đóng góp cho công tác giảng dạy, học tập văn xuôi
Việt Nam hiện đại thêm hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều từ khi ra đời đã tạo được
nhiều ấn tượng, dư vang trong lòng bạn đọc nói chung và nhận được nhiều sự
quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình nói riêng. Tuy nhiên, phần lớn là các bài
viết ngắn, thiên về cảm nhận, nhận xét và đánh giá. Những bài viết có tính chất
nghiên cứu vẫn còn rất hạn chế và thường chỉ quan tâm đến một tác phẩm nào đó
hoặc một khía cạnh nào đó mà chưa có những bài nghiên cứu mang tính khái quát,
tổng hợp. Hầu hết các bài viết được đăng rải rác trên các trang báo, tạp chí, từ
nguồn internet, hoặc từ trang cá nhân của một số bạn bè văn chương của nhà văn.
2.1. Những nhận xét, đánh giá về văn xuôi Nguyễn Quang Thiều nói chung
Trong bài Ra mắt tuyển thơ Nguyễn Quang Thiều in trong Tác phẩm
và dư luận ngày 26 - 1 - 2011, tác giả Hoài Khánh đã khẳng định: “Nguyễn
Quang Thiều không chỉ là nhà thơ tiên phong với trào lưu hiện đại mà còn là
cây viết văn xuôi giàu cảm xúc. Trong anh không chỉ có con người bay bổng,
ưu tư với những phiền muộn thi ca, mà còn có một nhà báo linh hoạt và nhạy
bén”.
Trong bài Mạch trữ tình trong truyện ngắn thế hệ nhà văn sau 1975,
PGS.TS. Đinh Trí Dũng đã chú ý đến truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều như là
một trong những cây bút văn xuôi trữ tình tiêu biểu: “Nguyễn Quang Thiều cùng
với các nhà văn khác như Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh, Nguyên Hương,
Quế Hương,... đã tiếp nối và làm phong phú thêm mạch ngầm trữ tình trong văn
2
xuôi hiện đại, làm cho bức tranh truyện ngắn thêm khởi sắc”...
Tác giả Trần Thị Trường trong bài Nguyễn Quang Thiều: Kẻ đa tài in trên
báo Vietnamnet.vn (26 - 12 - 2015) cũng nhận định: “ Văn xuôi của Thiều kích
thích các nhà sản xuất điện ảnh”.
Trên báo Văn nghệ số 17 +18 (24 - 8 - 2012), trong bài: Hộp đen Nguyễn Quang Thiều tác giả Thiên Sơn cũng nhấn mạnh đến những đặc sắc
nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều: “Truyện ngắn của Nguyễn
Quang Thiều hấp dẫn bởi chất thơ, bởi những chi tiết độc đáo và cả sắc màu
kỳ ảo, chiều sâu nhân văn và triết lý. Anh thường tạo ra những chi tiết đầy bất
ngờ cuối mỗi truyện, gây được ấn tượng sau mỗi cái kết”.
N hà nghiên cứu Nguyễn Bích Thu trong bài Những thành tựu của truyện
ngắn sau 1975 (TCVH số 9, 1996), cũng khẳng định “Nguyễn Quang Thiều
cùng với nhiều nhà văn khác như Tạ Duy Anh, Y Ban, Nguyễn Quang Thân,
Nguyễn Thị Thu Huệ… đã tạo nên một diện mạo mới cho truyện ngắn thời kì
đổi mới”
Đặc biệt, trong lời giới thiệu Cùng bạn đọc đầu tuyển tập Truyện ngắn
Nguyễn Quang Thiều - Người nhìn thấy trăng thật, tác giả Nguyễn Chí Hoan
khẳng định: “Truyện của anh giàu chất thơ, hơi thở huyền tích, thấm đẫm nhân
văn, lại không lạm dụng kỹ thuật nên đi vào tâm hồn thật tự nhiên, thật đầy đặn”
[56,6].
Trong những năm gần đây, một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu và tìm
hiểu những khía cạnh khác nhau trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều như:
Trương Thị Thường (2006) với đề tài Chất thơ trong truyện ngắn của Nguyễn
Quang Thiều, Nguyễn Thị Liên (2007) với đề tài Nhân vật nữ trong truyện ngắn
Nguyễn Quang Thiều, Trịnh Thị Thảo (2010) với đề tài Cấu trúc truyện ngắn của
Nguyễn Quang Thiều, Tăng Thị Hoàn (2012) với đề tài Truyện ngắn Nguyễn
Quang Thiều nhìn từ góc độ thể loại...
Nhìn chung, các ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu đều cho thấy vị trí
của văn xuôi Nguyễn Quang Thiều trong văn học đương đại, đồng thời chú ý
nhiều đến những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn và ký của ông.
2.2. Các bài phê bình về các tập truyện, ký của Nguyễn Quang Thiều
3
Bên cạnh những đánh giá nhận xét chung về Nguyễn Quang Thiều trong
văn xuôi Việt Nam đổi mới, nhiều nhà nghiên cứu cũng đưa ra ý kiến đánh giá của
mình với một số tác phẩm trên những phương diện cụ thể.
Bùi Việt Thắng trong bài Một số gương mặt truyện ngắn 1993 viết:
“Nguyễn Quang Thiều là cây bút có hạng hiện nay. Mùa hoa cải bên sông, Cái
chết của bầy mối, Bầu trời của người cha là những truyện ngắn đẫm chất thơ. Bút
pháp truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều từ thơ mà ra...tinh tế, bay bổng, giàu chất
liên tưởng”. Còn trong bài bình luận tập truyện Người đàn bà tóc trắng ông cũng
cho rằng: “Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều kén chọn bạn đọc - dường như họ
phải sành điệu... Tuy vào nghề chưa lâu nhưng Nguyễn Quang Thiều là cây bút có
nghề. Anh có một lối văn tự nhiên, linh động nên người đọc ít có cảm giác dùng
kỹ xảo” [49, 306 - 310].
Khi nghiên cứu Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay (TCVH số 4 1995), Lê Thị Hường cũng đã khảo sát và đánh giá kết thúc của truyện ngắn
Mùa hoa cải bên sông của Nguyễn Quang Thiều: “cách kết thúc của Nguyễn
Quang Thiều tiêu biểu cho kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay và là mô hình
kết thúc phổ biến”.
Nguyễn Khắc Viện cũng đã đọc và phân tích rất kỹ truyện ngắn Gió dại
trong tập truyện Người đàn bà tóc trắng của Nguyễn Quang Thiều và ông
đưa ra kết luận: “Chỉ qua một truyện ngắn mà tác giả đã nêu lên bao nhiêu vấn
đề tâm lý đi sâu vào những manh mối thầm kín nhất của tâm tư con người.
Nguyễn Quang Thiều quả là nhà tâm lý học xuất sắc” (Báo Văn nghệ, số 19, ra
ngày 12.5.2007).
Đặc biệt, các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều khi được dịch
và xuất bản ở nước ngoài cũng tạo được sự chú ý và nhận được những đánh giá
cao. “Những truyện ngắn bình dị nhưng đẹp và xót xa. Mỗi trang viết ngừng lại
trước một hình ảnh, hiện ra giữa vùng sáng một Việt Nam của hôm nay, một
mảng ghép hài hòa một cách lạ lùng giữa truyền thống và hiện đại…” (Alexia
Lorca - Lire) [32]. Hay: “Thế mạnh của nhà văn trẻ Việt Nam này (Nguyễn
Quang Thiều) tập trung trong sự giản dị nhưng đẹp ngời ngợi của câu chữ và vấn
đề được đặt ra! Đẹp và thống thiết!” (Jean-Luc Douin - Le Monde) [32]. Và:
4
“Với phong cách viết nhẹ nhàng, trong sáng chảy xuyên yên ả như sông Đáy chở
ta đi giữa dòng yêu thương, tươi mát và tràn đầy xúc cảm, tác giả tìm kiếm một
nơi ẩn ngụ thanh bình. Nhưng tôi không thể cưỡng lại được ý nghĩ rằng sự yên
tĩnh này chỉ là mặt sau của một cuộc sống đầy chấn động mà tác giả đã thấm
trải suốt một thời thơ ấu trong cuộc chiến tranh thảm khốc của Việt Nam giành tự
do và độc lập. Vẻ thanh bình, giản dị và tươi mát kia chỉ là một phần hiển hiện từ
một tảng băng giấu che những vết thương chưa lành hẳn, những kỷ niệm nặng
nề, những nỗi đau còn sót lại của một cuộc chiến. Nhưng, như con phượng
hoàng, dân tộc Việt Nam hôm nay đang gắng làm sống lại từ tro bụi một kỷ
nguyên mới thanh bình”. (Denis Billaboz) [32]. Điều này cho thấy tác phẩm của
Nguyễn Quang Thiều không chỉ tạo được ấn tượng với độc giả trong nước mà còn
tạo được dấu ấn với độc giả nước ngoài.
Với thể loại tiểu luận và ký của Nguyễn Quang Thiều, hiện chưa có nhiều
công trình nghiên cứu, bài viết quan tâm, đề cập đến. Về tập Có một kẻ rời bỏ
thành phố, trong bài: Vấn đề sinh thái - đô thị trong văn xuôi Việt Nam thời đổi
mới, tác giả Đặng Thái Hà đã nhận định: “ Tập truyện là cách nhà văn trực tiếp
nêu lên một tư thế, một thái độ sống, hay, có thể nói, một phản ứng khá quyết liệt
trước cuộc sống nhiễu nhương xô bồ tù ngục nơi đô thị phồn hoa”.
Nhân dịp ra mắt tập ký Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng
cũng có một số ý kiến đánh giá về tập ký này. PGS TS, Nhà phê bình văn học
Nguyễn Đăng Điệp khi đọc “Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng”
đã đúc kết ra rằng: “Khi đọc sách, tôi nghĩ về giấc mộng, không nghĩ về Nguyên
Quang Thiều mà nghĩ về sách, Nguyễn Quang Thiều đã đi giữa hoang tưởng và
phân liệt, trang viết của anh xuống tận đáy, nó là điểm khởi đầu và điểm đến, neo
giữ Nguyễn Quang Thiều. Tôi nghĩ những giấc mộng này là như thế nào đối với
Nguyễn Quang Thiều. Nguyễn Quang Thiều không hẳn viết cho vợ và con, viết
cho người thân thuộc mà viết cho cả người ở bên kia chiến tuyến. Tất cả nằm trong
điểm quy tụ là nhân tính, tôi tin đây là khởi đầu của những thành công”. TS. Đỗ
Hải Ninh cho rằng: “Tiểu luận có chất thơ trong văn xuôi bởi cuối mỗi bài tiểu
luận là có một bài thơ. Đây là một sự hô ứng thơ và văn xuôi và chính những bài
tiểu luận trong cuốn sách này cũng như một bài thơ”( T.Lê, Người kể chuyện lúc
5
nửa đêm: Ám ảnh số phận con người!, />Họa sĩ Lê Thiết Cương lại cho rằng “vì là nhà thơ viết văn xuôi nên văn xuôi
Nguyễn Quang Thiều càng độc đáo. 25 bài thơ như văn bản thứ hai của 25 câu
chuyện. Ở đây có sự tương tác, xâm nhập, giao thoa, mở rộng đường biên thể loại”.
PGS, TS Lưu Khánh Thơ phát biểu: “những văn bản thơ đính kèm văn bản văn xuôi
trong cuốn sách của Nguyễn Quang Thiều tạo ra hiện tượng đọc liên văn bản rất thú
vị” (Hoàng Hoàng Phố, Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng,
/>Như vậy có thể thấy những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều
mà đặc biệt là truyện ngắn từ khi ra đời đã tạo được nhiều ấn tượng, dư vang trong
lòng bạn đọc nói chung và nhận được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu,
phê bình nói riêng. Những công trình, bài viết trên, những ý kiến đánh giá về
truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều đã nói lên phần nào phong cách của nhà văn
nhưng chỉ thể hiện ở một phương diện nào đó và do dung lượng của các bài viết
ngắn nên chưa thực sự đi sâu vào nội dung cũng như nghệ thuật trong văn xuôi
của ông. Đồng thời, những bài nghiên cứu, phê bình, những ý kiến đánh giá về
văn xuôi Nguyễn Quang Thiều còn chưa mang tính hệ thống. Đó là những gợi
dẫn cho chúng tôi lựa chọn văn xuôi Nguyễn Quang Thiều làm đối tượng
nghiên cứu. Trên tinh thần tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà phê
bình đi trước, với đề tài này, chúng tôi sẽ cố gắng làm rõ những đặc điểm nổi bật
trong phong cách văn xuôi Nguyễn Quang Thiều qua truyện ngắn và ký.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ tình hình nghiên cứu đã nêu trên, trong điều kiện tư liệu và khả năng
cho phép, chúng tôi xác định mục đích của đề tài là: Tìm hiểu những đặc điểm cụ
thể về nội dung và nghệ thuật ở những tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn và ký
của Nguyễn Quang Thiều. Từ đó thấy được ý thức cách tân thể loại và những
thành công của cây bút này trong lĩnh vực văn xuôi, qua đó góp một tiếng nói
khách quan trong việc đánh giá vai trò, vị trí của Nguyễn Quang Thiều trong nền
6
văn chương đương đại.
Đạt được những mục đích trên, luận văn sẽ có ý nghĩa như một tư liệu
tham khảo để những độc giả quan tâm đến sự nghiệp văn học của Nguyễn Quang
Thiều có thể sử dụng để hiểu rõ hơn những nét đặc sắc trong mảng sáng tác văn
xuôi của Nguyễn Quang Thiều.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý thuyết và lịch sử văn học thời kỳ đổi mới, luận
văn đặt ra mục tiêu: Nghiên cứu các phương diện nội dung và nghệ thuật trong
các sáng tác văn xuôi của nhà văn Nguyễn Quang Thiều qua truyện ngắn và ký.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tiến hành nghiên cứu đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Thiều qua
truyện ngắn và ký cụ thể trên các phương diện nội dung và nghệ thuật. Sự nghiệp văn
xuôi của Nguyễn Quang Thiều khá phong phú nhưng trong phạm vi đề tài này chúng
tôi chỉ chọn khảo sát truyện ngắn và ký là hai mảng văn xuôi ấn tượng hơn của
Nguyễn Quang Thiều và mang nhiều dấu ấn với tư duy nghệ thuật thơ của tác giả.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để nghiên cứu về đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Thiều, người viết tìm
hiểu và khảo sát các thể loại truyện ngắn và ký với: 30 truyện ngắn trong tập
Nguyễn Quang Thiều tác phẩm chọn lọc (Nxb Phụ nữ, 2011), Có một kẻ rời bỏ
thành phố (Nxb Hội nhà văn, 2012), Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giác
mộng (Nxb Trẻ, 2016), và một số tác phẩm được tham khảo từ trang cá nhân của
nhà văn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống giúp xác định vị trí văn xuôi Nguyễn Quang
Thiều trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn nói chung.
- Phương pháp loại hình được sử dụng nhằm khảo sát, phân loại và xác
định đặc điểm thể loại văn xuôi trong sáng tác của Nguyễn Quang Thiều.
- Phương pháp lịch sử được vận dụng để miêu tả, phân tích những đặc điểm
văn xuôi của một nhà văn được đặt trong sự vận động chung của một giai đoạn văn
học (cụ thể là giai đoạn văn học hiện đại Việt Nam sau 1975).
7
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các thao tác nghiên cứu hỗ trợ như thống
kê, phân tích, tổng hợp, giảng bình, đánh giá… để lý giải một số vấn đề, hiện
tượng được đặt ra trong tác phẩm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Trước hết, đây là đề tài nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về đặc
điểm văn xuôi Nguyễn Quang Thiều trên cả hai phương diện nội dung và hình thức
nghệ thuật. Qua đó, đề tài có ý nghĩa tích cực trong việc khẳng định vị trí của văn
xuôi Nguyễn Quang Thiều nói riêng và vị trí của nhà văn nói chung, góp phần
làm nên diện mạo đa dạng về tác giả, tác phẩm cũng như phong cách nhà văn ở
thời kì văn học hiện đại giai đoạn sau 1975.
- Bên cạnh những nghiên cứu đánh giá về vai trò và tầm vóc của Nguyễn
Quang Thiều với tư cách là nhà thơ cách tân hàng đầu của văn học Đổi mới, với
việc tìm hiểu văn xuôi của nhà văn, đề tài sẽ góp phần nhận diện tác giả Nguyễn
Quan Thiều trong toàn bộ hành trình sáng tạo và phong phú của ông.
- Từ việc tìm hiểu nhận diện đặc điểm văn xuôi của trường hợp là Nguyễn
Quang Thiều sẽ góp phần lý giải những xu hướng của văn xuôi đương đại nói
chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Cơ cấu luận văn: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ lục,
phần trọng tâm là Nội dung chính gồm ba chương.
Chương 1. Quá trình sáng tác và vị trí của văn xuôi Nguyễn Quang Thiều trong
dòng mạch văn xuôi trữ tình thời kỳ đổi mới
Chương 2. Cảm quan về đời sống trong văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều
Chương 3. Một số phương diện nghệ thuật tiêu biểu của văn xuôi Nguyễn
Quang Thiều
8
CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC VÀ VỊ TRÍ CỦA VĂN XUÔI NGUYỄN QUANG
THIỀU TRONG DÒNG MẠCH VĂN XUÔI TRỮ TÌNH THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Thiều
1.1.1. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều và quá trình sáng tác
Nguyễn Quang Thiều sinh ngày 13 tháng 02 năm 1957 tại làng Chùa ven
sông bờ Đáy thuộc xã Sơn Công – Huyện Ứng Hòa – Tỉnh Hà Tây cũ (Nay thuộc
Hà Nội). Hiện giờ ông sống ở Hà Đông – Hà Nội. Nguyễn Quang Thiều xuất thân
trong một gia đình viên chức, thủa nhỏ sống ở quê. Chính những ký ức về làng quê
nghèo, nơi có dòng sông Đáy hiền hòa thơ mộng gắn liền với những huyền thoại, lễ
nghi, với những hủ tục, lề thói của người làng quê và cả nhữn con người nồng hậu,
chân chất... đã trở thành ngồn cảm hứng sáng tạo vô tận, là điểm tựa tinh thần để
nhà văn tìm về sau bao bươn trải gian nan.
Sau khi tốt nghiệp đại học ở Cu Ba, ông về nước công tác ở ngành an ninh
một thời gian. Ông công tác tại Bộ công an và bắt đầu với sự nghiệp báo chí. Khi
thì ông phụ trách báo Văn nghệ, khi thì ở An ninh thế giới do chính ông sáng
lập, đặc biệt việc ông thực hiện tờ báo Cảnh sát toàn cầu đã được đông đảo bạn
đọc quan tâm. Tiếp sau đó, Nguyễn Quang Thiều còn tham gia sáng lập tờ
Nghệ thuật mới, một tờ báo ngay từ buổi đầu đã có lượng ấn bản ấn tượng hơn
bất kỳ một tờ báo văn học nào khác.
Nguyễn Quang Thiều bắt đầu làm thơ vào những năm đầu thập kỷ 80 của
thế kỷ trước, khi mới ngoài 20 tuổi. Bằng tình yêu đối với thơ, ông đã sớm
thành công và cho ra đời những bài thơ với những cảm xúc đẹp đẽ, trong sáng.
Năm 1983 - 1984, ông đạt giải ba cuộc thi thơ của tạp chí Văn nghệ quân đội,
năm 1989, đạt giải thưởng thơ hay. Tập thơ Ngôi nhà 17 tuổi xuất bản năm
1990, sau đó một năm được bình chọn là tác phẩm hay nhất của năm.
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Quang Thiều luôn trăn trở ngày đêm
trên từng trang viết của mình, từ thẳm sâu réo gọi đã thôi thúc ông cầm bút và
tập thơ Sự mất ngủ của lửa ra đời năm 1992. Năm 1993 tập thơ này đã được trao
giải thưởng Hội nhà văn. Với tập thơ này, Nguyễn Quang Thiều lần đầu tiên
9
mang đến một thứ thơ khác, một thứ thơ khởi phát từ nội lực mạnh mẽ chất
chứa những trầm tích bí mật, những huyền thoại, những gấp khúc của tư
duy... Tựa như một cảnh giới kỳ dị, vừa ảo huyền, sương khói, vừa mộng
mị lại vừa trần trụi, bộn bừa, không màu mè; vừa đơn sơ, vừa quen thuộc lại
vừa ẩn chứa vẻ xa lạ… Với ông, làm thơ lúc ấy thật hồn nhiên và nó như
một nhu cầu tự thân nhằm giải thoát chính mình. Đây là một dấu mốc quan
trọng trong sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Quang Thiều, đánh dấu bước ngoặt đổi
mới trong tư duy thơ của ông.
Bên cạnh đó, Nguyễn Quang Thiều còn là người nghệ sĩ có tâm hồn Á
Đông đa cảm, mơ mộng, nhân hậu và đẹp đẽ kết hợp với óc phân tích sắc sảo
của phương Tây. Có được điều đó là do ông đã từng có thời gian học tập ở nước
ngoài, vốn ngôn ngữ thông thạo giúp ông có cơ hội tiếp xúc với văn hóa, văn
học nhiều nước trên thế giới. Vốn sống phong phú, học vấn uyên thâm, giao lưu
văn hóa rộng, bản lĩnh sáng tạo của người nghệ sĩ giúp Nguyễn Quang Thiều tìm
đến một hướng cách tân truyện ngắn đáng chú ý.
Có thể nói, Nguyễn Quang Thiều là một người nghệ sĩ đa tài, ở ông có sự
tổng hòa các lĩnh vực nghệ thuật: thơ ca, kịch, họa. Những năm qua trên báo chí
đã xuất hiện khoảng trên 300 bài ký, phóng sự, nghị luận, tản văn của Nguyễn
Quang Thiều. Ngoài ra ông còn viết nhiều kịch bản phim, vẽ tranh và tiểu
thuyết, truyện ngắn… Cho đến nay, ông đã xuất bản 10 tập thơ, 16 tập tiểu
thuyết và truyện ngắn, 10 cuốn sách dịch, sách thiếu nhi và hơn 300 bút ký,
tiểu luận, phê bình, tản văn. Ngoài giải thưởng hội nhà văn Việt Nam 1993 cho
tập thơ Sự mất ngủ của lửa, Nguyễn Quang Thiều còn dành được rất nhiều giải
thưởng văn học trong nước ở mọi thể loại: thơ, kịch bản phim, truyện ngắn,
sách thiếu nhi. Truyện ngắn Mùa hoa cải ven sông đã được dựng thành phim Lời
nguyền của dòng sông do Khái Hưng làm đạo diễn, từng đạt giải Vàng Liên hoan
phim truyền hình quốc tế tại Bỉ năm 1993. Truyện ngắn Hai người đàn bà xóm
Trại được giải tạp chí Văn nghệ quân đội năm (1993 - 1994) sau được chuyển
thể thành phim truyền hình Thời gian của dòng sông. Lúc đương thời cả hai bộ
phim được chuyển thể từ hai truyện ngắn này đều gây được tiếng vang trong
10
dư luận và công chúng. Ngoài ra có thể kể đến những tập truyện ngắn khác của
Nguyễn Quang Thiều như: Người đàn bà tóc trắng (1996), Đứa con của hai dòng
họ (1997), Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều (1998), Người cha (truyện thiếu
nhi) (1998), Người nhìn thấy trăng thật (2003). Năm 2012, ông xuất bản một
cuốn tiểu luận, tản văn mang tên Có một kẻ rời bỏ thành phố. Gần đây nhất, năm
2016, ông xuất bản tập tiểu luận, ghi chép mang tên Người kể chuyện lúc nửa
đêm và những giấc mộng.
Những tác phẩm thơ và truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều đã được xuất
bản ở Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Na -Uy, Thụy Điển, Nhật... Tác phẩm của Nguyễn
Quang Thiều được các nhà xuất bản ở Mỹ chọn dịch cả thơ và văn xuôi và
đã được đăng tải hầu hết các báo, tạp chí uy tín ở nước Mỹ. Truyện ngắn
được dịch nhiều thứ tiếng, đặc biệt tác phẩm Bầy chim chìa vôi được chọn làm
một chuyên đề trong một trường đại học ở Nhật. Ở Pháp, hai tập truyện ngắn
được dịch, xuất bản: La Fille Du Fleuve (1997), và La Petite Marchande De
Vermaicelles (1998).
Có thể thấy, Nguyễn Quang Thiều là một cây bút sung sức, đa tài. Và ở
bất cứ một lĩnh vực nghệ thuật nào ông cũng gặt hái được những thành công nhất
định và tạo được những dấu ấn sâu đậm đối với bạn đọc. Có sức viết dồi dào ở nhiều
loại hình nghệ thuật nhưng Nguyễn Quang Thiều chủ yếu được biết đến là nhà thơ
cách tân gây nhiều tranh luận đa chiều. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận vị trí
đáng kể của văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của ông với 16 tập tiểu thuyết và
truyện ngắn, 10 cuốn sách dịch, sách thiếu nhi và hơn 300 bút ký, tiểu luận,
phê bình, tản văn. Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều và văn xuôi của ông nói
chung không thuộc dòng cách tân mà tiếp nối dòng mạch văn xuôi truyền thống.
Các tác phẩm của ông quan tâm đến bi kịch hậu chiến, quan tâm đến nông thôn và
đô thị hóa, quan tâm đến số phận, những cung bậc khác nhau của đời sống tinh
thần con người.
Viết về chiến tranh, nhà văn đã không nhìn lên những ánh hào quang của
chiến công và sự chiến thắng mà ông cúi xuống để thấy, để cảm nhận và phản
11
ánh những sự thật đau lòng mà chiến tranh gây ra cho con người, đó là những
bi kịch thời hậu chiến, bi kịch của những người lính sau chiến tranh, bi kịch của
những người phụ nữ... Viết về con người, nhà văn quan tâm đến số phận của cá
nhân. Nổi bật lên trong đó là những chuyện đời tư, những số phận riêng, những
bi kịch của con người, những mâu thuẫn trong đời sống tình cảm con người. Nhà
văn xoáy sâu vào những sự thật nghiệt ngã, những tình cảnh trớ trêu, phũ phàng
của cuộc đời, dù là trong chiến tranh hay trong cuộc sống thường nhật, để từ đó
khắc họa nên những số phận khác nhau của con người.
Truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều thường không có độ dày về sự
kiện, nhân vật, mà chỉ là một lát cắt, có khi rất nhỏ về cuộc đời. Trong các sáng
tác của mình, Nguyễn Quang Thiều có khả năng trong việc tạo nên độ sâu của
suy nghĩ, sự lắng đọng của cảm xúc. Các tác phẩm truyện ngắn của ông thường
không có những kịch tính, những cao trào do cốt truyện thường giản dị, được xây
dựng từ những chất liệu đời thường nhưng luôn được điểm vào đó những mạch
cảm xúc, suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật làm cho câu chuyện trở nên sâu
lắng. Với thể loại truyện ngắn, cách viết của nhà văn không quá cách tân (như
trong thơ) mà thiên về cốt truyện tâm lý, đậm chất chữ tình. Yếu tố trữ tình trong
văn xuôi của ông đã góp phần tạo nên những trang văn giàu chất thơ đan xen với
nội dung phản ánh hiện thực, tạo được ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc. Đúng
như nhận định của PGS.TS. Đinh Trí Dũng trong bài Mạch trữ tình trong truyện
ngắn thế hệ nhà văn sau 1975: “ Người đọc cũng khó quên một mùa hoa cải bên
sông, một làng Chùa với những bến sông, cổng làng, bờ đê, ruộng lúa... trong
truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều”.
Đối với thể loại tản văn, Nguyễn Quang Thiều cũng chọn cho mình một lối
viết riêng. Đề tài trong tản văn của ông là những câu chuyện đời thường, chuyện
hàng ngày được viết lại từ những điều tai nghe mắt thấy và từ kí ức của chính
nhà văn. Đó là những chuyện kí ức về tuổi thơ, về quê hương và những người
bạn của nhà văn. Có chuyện có thật, nhưng cũng có chuyện được bịa như thật.
Nội dung trong tản văn được truyền tải bằng giọng văn triết lý, chiêm nghiệm.
12
Qua tản văn, nhà văn trực tiếp nêu lên thái độ sống, một phản ứng quyết liệt trước
sự đổi thay của hiện thực cuộc sống.
Tóm lại, Nguyễn Quang Thiều là nhà văn trưởng thành ở chặng đường sau
của văn học hiện đại sau 1975. Ông có sức viết dồi dào ở nhiều loại hình nghệ
thuật và chủ yếu được biết đến là nhà thơ cách tân gây nhiều tranh luận. Tuy
nhiên cũng không thể phủ nhận vị trí đáng kể của văn xuôi trong sự nghiệp sáng
tác của ông. Với các tác phẩm văn xuôi của mình, nhà văn Nguyễn Quang Thiều
đã góp phần tiếp nối dòng mạch trữ tình trong văn xuôi thời kỳ đổi mới và mang
đến cho văn xuôi đương đại một chất giọng văn xuôi giàu chất thơ.
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều
Nguyễn Quang Thiều là một trong những cây bút cách tân táo bạo của
thơ Việt Nam đương đại. Với thể loại văn xuôi, ông cũng được nhiều nhà phê bình
đánh giá là cây bút “có nghề”. Mặc dù hành trình sáng tác truyện ngắn không dài
nhưng những tác phẩm của ông đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc
như nhận định của nhà biên tập trong cuốn Mùa hoa cải bên sông Nguyễn Quang
Thiều, H. Kim Đồng, 2003: “Nguyễn Quang Thiều là một cây bút truyện ngắn tài
hoa. Anh có lối kể chuyện hư hư thực thực, ẩn hiện, mê hoặc…văn chương
và con người anh như một thứ rượu để lâu, uống vào rất dễ say” [55, tr. 4]. Ở mỗi
một loại hình nghệ thuật mà ông tham gia, ông đều tạo được những dấu ấn và thành
công nhất định. Để tạo được những thành công đó, ngoài sự nỗ lực và quá trình làm
việc nghiêm túc, sự say mê và tài năng của bản thân còn bởi nhà văn có quan niệm
nghệ thuật đề cao sự sáng tạo trong cách viết. Quan niệm nghệ thuật đó không chỉ
được nhà văn phát biểu trực tiếp trong những bài trả lời phỏng vấn mà còn được thể
hiện qua chính những sáng tác của ông.
Trả lời phỏng vấn trên internet, nhà văn nói: “ Tôi yêu tất cả những gì thuộc
về vẻ đẹp sáng tạo. Tôi quan niệm sự sáng tạo là “chất xúc tác” giải phóng mình
bởi ở đó những ý tưởng riêng, cá tính được chắp cánh bay cao” [46].
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Quang Thiều đã bộc lộ khá
rõ nét quan niệm của ông về nghệ thuật, về văn chương, cái đẹp, tình yêu, nỗi
tuyệt vọng, niềm hy vọng, sự sống, cái chết, nỗi ám ảnh, sự hối hận…tất cả trở
13
thành khát vọng sáng tạo in dấu trong các sáng tác của ông. Trong đó, vấn đề
có tính khái quát trong văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều chính là nỗi yêu
thương thống thiết đối với cái đẹp bị lâm nguy. Bởi lẽ, trong cuộc sống đô thị
hóa, đồng hành với cuộc sống hiện đại cũng là sự suy tàn của môi trường thiên
nhiên, bên cạnh đó là nỗi lo âu về sự xuống cấp đạo đức, sự đánh mất những giá
trị tinh thần cao quý của con người.
Nói về quan niệm thi ca Nguyễn Quang Thiều nhấn mạnh: “Quan
điểm thơ ca của tôi là làm sống lại những cái đã chết và làm mới lại những
cái đã cũ. Tôi không xây dựng lên một thế giới mới mà tôi chỉ làm sống lại tất cả
những vẻ đẹp của đời sống này” [60, tr. 31]. Với ông, sứ mệnh của nhà thơ là:
“Phải mang đến những tiếng khèn mới, những giai điệu mới đầy sức sống” và
“ Khai mở - là sứ mệnh lớn nhất của nhà thơ”. Đây có thể được coi là tuyên
ngôn nghệ thuật của nhà thơ, nó cho người đọc thấy được vai trò cũng như
nhiệm vụ quan trọng của người nghệ sĩ đó là phải mang đến cái mới cho thi ca
nói riêng và cho nghệ thuật nói chung. Điều này còn được Nguyễn Quang
Thiều phát biểu trực tiếp trong tản văn Những con chim đập cánh vào ô cửa:
“Trong cuộc đời, mỗi chúng ta ít nhất có một lần sững sờ trước một khung cảnh,
một đồ vật hay một con người mà chúng ta từng gặp trước đó nhưng chúng ta lại
không hề để ý. Nhưng đến một ngày, một nhà văn hay một họa sỹ cho chúng ta
đọc hay nhìn những tác phẩm của họ viết và vẽ những cảnh vật hay những con
người mà chúng ta từng biết đến, chúng ta bỗng rung động lạ kỳ (…). Sự sáng
tạo của nhà văn hay họa sỹ đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn mới với
những gì đã quá quen thuộc và trở thành sáo mòn trong cảm xúc chúng ta”[62,
tr. 161]. Như vậy, theo ông, thế giới này vốn đã tồn tại như vậy, không có
điều gì là mới, chỉ có cách nhìn mới về con người, về thế giới này mà thôi. Và
sứ mệnh của nhà thơ là phải kết nối tất cả vật thể trên thế giới này: Cỏ cây,
mây trời, thú vật, côn trùng... Với ông, vẻ đẹp, sự kỳ diệu nằm ở những điều
bình dị nhất. Nhà thơ phải bằng sự nhạy cảm và tinh tế của người nghệ sĩ để
phát hiện và làm sống dậy vẻ đẹp ấy. Đó cũng có thể được xem chính là sứ
mệnh lớn nhất của nhà thơ.
14
Cuộc sống thực tại với những nỗi nhọc nhằn, với những lo toan của
cơm áo gạo tiền đôi khi đã làm con người mất đi sự nhạy cảm với cái đẹp.
Thực chất, cái đẹp không xa lạ, không bí ẩn với chúng ta, nó ở ngay cạnh chúng
ta nhưng chúng ta lại không cảm nhận nó. Khát vọng khám phá cái đẹp là cảm
hứng bao trùm không chỉ xuất hiện trong thơ Nguyễn Quang Thiều mà còn cả
trong văn xuôi của ông. Người nghệ sĩ luôn khát khao khám phá cái đẹp, cái
kỳ vĩ trong một khoảnh khắc đặc biệt. Chính khoảnh khắc ấy làm đời sống
thăng hoa. Cái đẹp được khám phá từ một khoảnh khắc kì diệu của đời sống.
Nếu như trong thơ cái đẹp hiện lên qua sự chuyển động của ốc sên (Như đêm
vũ hội) thì trong truyện ngắn có thể là khoảnh khắc trong một đêm trăng, hoạt
động bay lên của bầy chim, hay khoảnh khắc hạnh phúc khi được nhìn thấy
mái tóc như từ vầng trăng chảy xuống... Trong Chạy trốn khỏi vầng trăng nhà
văn bày tỏ quan niệm về cái đẹp trực tiếp qua đoạn trữ tình ngoại đề: “Bạn ơi!
Bạn hãy thử một đêm nào đó khuya khoắt đứng dưới trăng mười sáu một
mình. Bạn hãy ngửa mặt hứng lấy từng dòng trăng chảy xuống… chỉ một lát
sau thôi bạn không thể bình tĩnh được. Bạn sẽ hoảng hốt, rồi lăn lộn, rồi như mê
sảng. Và đâu đấy trong không gian mênh mang kỳ ảo ánh trăng có ai đó dịu
dàng gọi bạn. Bạn sẽ thấy hai cánh tay mình biến thành hai vây cá mỏng. Bạn
khẽ khàng khỏa đôi vây. Bạn sẽ bồng bềnh trôi đi, trôi mãi theo tiếng gọi dịu
dàng như tiếng nước kia” [61, tr. 362]. Cái đẹp ở đây là cái đẹp không lời. Cái
đẹp của sự tưởng tượng, thức nhận về cuộc sống.
Với Nguyễn Quang Thiều, vẻ đẹp, sự kỳ diệu nằm ở những điều bình dị
nhất. Khát khao đi tìm cái đẹp, bám lấy cuộc sống, tìm kiếm vẻ đẹp diệu kỳ
trong những gì thân thuộc nhất. Cái đẹp có khi nằm ở một trạng thái giản dị
nhất hay ở một chuyển động thô sơ nhất. Với ông thiên đường không phải là
cái gì cao siêu, huyền bí mà là một đời sống tinh thần kỳ diệu ở ngay thế gian
này... Đó có thể chỉ là một chiều chân trần trên cánh đồng rực vàng của lúa chín
với cõi lòng thanh sạch vô cùng, được đắm chìm trong hương lúa. Từ những
con đường đất đỏ với bước chân trần mẹ đi về sau mỗi chiều vất vả đến
những mái ngói, bờ tre của những thôn quê nghèo khó... Có thể là một đêm
15
khuya tĩnh lặng được ngồi ngắm trăng hay một buổi chiều ngồi trên triền đê
ngắm hoa tầm xuân. Khi chúng ta nhận biết được vẻ đẹp của thiên nhiên và
sự sống thì nghĩa là chúng ta biết được thiên đường.
Với người nghệ sĩ, để tạo ra được một tác phẩm lớn thì cần phải có sự sáng
tạo, có tình yêu đối với cuộc sống, có trách nhiệm với bản thân và đồng loại. Vì
vậy, Nguyễn Quang Thiều cũng từng nói: Chính đời sống không trung thực, một
đời sống thiếu sự sáng tạo, thiếu cảm hứng, thiếu trách nhiệm với bản thân và
đồng loại sẽ vô cùng khó khăn để sinh ra những tác phẩm lớn. “Không thể nào
trên một mảnh đất hoang hóa, khô cằn lại có thể sinh ra những mùa màng trù
phú” (Trần Thị Trường: Nguyễn Quang Thiều: Kẻ đa tài). Tranh bàn thế nào là
tác phẩm lớn, nhà văn cho rằng: “Đó là một tác phẩm khi người ta đọc xong,
người đọc thay đổi. Tác phẩm mang đến cho người đọc một thế giới mới hơn,
rộng lớn và sâu sắc hơn. Trong một khía cạnh nào đó, con người đó đã được khai
sáng, và họ thầm cúi đầu tôn kính cuốn sách ấy”.
Không chỉ nêu ra quan niệm của mình về thơ ca, về văn chương, nhà văn
cũng đã bày tỏ rõ quan niệm của mình về vẻ đẹp của con người mà đặc biệt là
người phụ nữ. Ông đã từng nói trong nhiều cuộc phỏng vấn rằng: “điều thu hút
tạo cảm hứng cho tôi là tâm hồn và số phận của người phụ nữ chứ không
phải nhan sắc của họ. Trong đời thường, một phụ nữ không nhan sắc thì tôi
không có cách nào làm cho người phụ nữ đó có nhan sắc. Nhưng trong tác
phẩm, tôi có quyền tạo ra một phụ nữ nhan sắc” [4, tr.22]. Như vậy có thể thấy
nhà văn luôn luôn trân trọng và đề cao vẻ đẹp phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn của
người phụ nữ. Có lẽ cái nhan sắc mà nhà văn muốn nói ở đây chính là vẻ đẹp
của sự thành thực, hồn nhiên, mộc mạc, vẻ đẹp tâm hồn tự nó toát ra một
cách tự nhiên nhất. Chính vì vậy, trong các sáng tác của mình khi viết về những
người phụ nữ nhà văn không chú trong đến việc miêu tả ngoại hình của nhân vật
mà ông tập trung làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là vẻ đẹp của sự tần
tảo, lam lũ, vẻ đẹp của sự thủy chung, và của đức hi sinh cao cả.
Khát vọng kiếm tìm trong Nguyễn Quang Thiều là những ý nghĩ bay
lên để cứu rỗi sự nghèo nàn tâm hồn nhất là trong cái xã hội con người dần
16
cô đơn không tìm thấy tri ân. Cái xã hội nghèo nàn đang dần mất đi sự thơ mộng.
Sự lo âu của Nguyễn Quang Thiều là sự lo âu xuống cấp đạo đức, đánh mất giá
trị tinh thần của con người trong xã hội hiện đại.
Nguyễn Quang Thiều cũng luôn suy nghĩ về lẽ sinh tử trong cõi đời. Trong
một bài trả lời phỏng vấn nhà văn có nói rằng: “Để cái chết trở nên giản dị và
mang những bí ẩn khám phá đối với tôi thì chỉ có đời sống của chúng ta đang
sống và suy nghĩ về đời sống ấy. Khi ấy, cái chết không phải là chết nữa mà nó là
một đời sống với hình thức mới. Tôi quan niệm đời sống là hiện tại (hôm nay) và
cái chết là tương lai (ngày mai). Và chúng ta nhìn nhận cái chết như là một ban
mai đến với thế gian này”. Thực chất Nguyễn Quang Thiều không chịu ảnh
hưởng cụ thể của một tôn giáo nào. Với nhà thơ, khi đức tin đã được thiêng
liêng hóa nó sẽ mang lại sự bí ẩn của những điều thiêng. Cụ thể đức tin của
nhà thơ là: Sự sống bất diệt, sự sống mang vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp hoàn hảo của
thế gian. Đó cũng là cảm hứng thống nhất làm nổi bật khát vọng sáng tạo
không chỉ trong thơ mà còn xuyên suốt trong các sáng tác văn xuôi của
Nguyễn Quang Thiều.
Với một quá trình sáng tác không ngừng nghỉ, từ thơ ca, báo chí, kịch
bản, hội họa đến văn xuôi, với khao khát sáng tạo, chủ động đổi mới Nguyễn
Quang Thiều đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Xuất phát từ quan
niệm như một tuyên ngôn trong văn chương: “làm mới lại những gì đã cũ,
làm sống lại những gì đã chết”, Nguyễn Quang Thiều đã đem đến những
cách tân nghệ thuật đáng chú ý cho văn học nước nhà. Có thể khẳng định
rằng cùng với một đội ngũ nhà văn hùng hậu thời kì đổi mới, Nguyễn Quang
Thiều với những truyện ngắn và ký của mình đã góp phần làm mới thể loại văn
xuôi đương đại đồng thời đáp ứng thị hiếu thẩm mỹ của thời đại và công chúng.
1.2. Văn xuôi Nguyễn Quang Thiều trong dòng mạch văn xuôi trữ tình thời kỳ
đổi mới
1.2.1. Văn xuôi Nguyễn Quang Thiều trong dòng mạch văn xuôi trữ tình
Trong đời sống phức tạp, sôi động và sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi
Việt Nam đương đại có một dòng chảy lặng thầm, nhỏ nhẹ. Dòng chảy này đã
17
nhanh chóng trở thành một xu hướng sáng tạo mang vẻ đẹp riêng với tính chất độc
đáo, đặc sắc của văn xuôi đổi mới đó chính là văn xuôi trữ tình. Văn xuôi trữ tình
sau đổi mới đã góp một tiếng nói riêng để tạo nên những thành tựu chung của văn
học thời kỳ này trong đó phải kể đến đóng góp của nhà văn Nguyễn Quang Thiều.
Nói tới yếu tố trữ tình là nói tới tính thơ, chất thơ trong thi ca. Theo Giáo
trình lý luận văn học tập 2 (Tác phẩm và thể loại văn học) của Trần Đình Sử chủ
biên thì trữ tình được xác định là một trong những phương thức nhằm tạo dựng hình
tượng trong văn bản văn học cùng với các phương thức khác như: Trần thuật, miêu
tả, nghị luận. Trữ tình là biện pháp cơ bản nhất nhằm bộc lộ tư tưởng, tình cảm của
tác giả.
Từ văn học giai đoạn 1930 – 1945, người đọc thấy xuất hiện nhiều truyện
ngắn mang âm hưởng trữ tình tiêu biểu với các tên tuổi lớn như: Thạch Lam, Thanh
Tịnh, Hồ Dzếch, Xuân Diệu... Dòng truyện ngắn trữ tình được hình thành từ các tác
phẩm viết theo phong cách trữ tình, nghiêng về phân tích đời sống tâm hồn con
người. Thạch Lam viết về một phố huyện nghèo với những con người nhỏ bé với
cuộc sống lam lũ, thiếu thốn, về cuộc sống nhọc nhằn khốn khó của một cô hàng
xén nơi chợ huyện trong tác phẩm Hai đứa trẻ, Cô hàng xén, nhà văn vẫn khiến
người đọc xúc động bằng những trang văn giàu chất thơ. Thanh Tịnh với những
truyện ngắn mang phong vị riêng, đầy chất thơ và tràn đầy một tình yêu quê hương
tha thiết. Đúng như có người đã nhận xét: mỗi truyện ngắn của Thanh Tịnh là một
bài thơ.
Bước sang giai đoạn văn học 1945 -1975, bên cạnh dòng văn học phục vụ
chính trị, cổ vũ chiến đấu vẫn có những truyện ngắn lãng mạn, trữ tình của Nguyễn
Minh Châu với Mảnh trăng cuối rừng, Nguyên Ngọc với Rẻo cao, Nguyễn Thành
Long với Lặng lẽ SaPa, Đỗ Chu với Hương cỏ mật... Có thể nói, những tác phẩm
trữ tình có sức hấp dẫn riêng ẩn dấu dưới những lời văn nhẹ nhàng trong trẻo như
nhà văn Ma Văn Kháng đã nói: “Truyện ngắn phải có cái gì bay bay một tí, không
nên mơ màng quá, mà trần trụi quá cũng không ổn”. Sau năm 1975, văn học Việt
Nam nói chung và truyện ngắn nói riêng trở nên hết sức đa dạng với sự xuất hiện
của một loạt các tên tuổi như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo,
18
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư... Đề tài, nội dung phản ánh, cách viết, hình
thức truyện phong phú đa dạng có nhiều tìm tòi phát hiện mới. Mỗi tác giả đều tạo
cho mình một ấn tượng riêng với độc giả. Cuộc sống hiện thực hàng ngày, những
uẩn ức trong đời sống tinh thần con người (đặc biệt là người phụ nữ), những ám ảnh
sau chiến tranh, sự vật lộn trong cuộc sống mới theo cơ chế thị trường... tất cả đều
được đưa vào các trang viết một cách sinh động. Song bên cạnh những nội dung đó,
trong văn xuôi sau 1975 vẫn tồn tại một mạch truyện ngắn theo phong cách trữ tình
của nhiều cây bút tiêu biểu là Nguyễn Quang Thiều, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc
Tư, Phan Thị Vàng Anh, Nguyên Hương, Đỗ Bích Thúy... Đọc những truyện ngắn
của họ, người đọc bắt gặp một mạch ngầm da diết như tiếp nối dòng mạch trữ tình
sâu thẳm của văn chương truyền thống.
Như vậy, có thể thấy, cùng với nhiều nhà văn thế hệ sau 1975, nhà văn
Nguyễn Quang Thiều đã có sự tiếp nối dòng mạch trữ tình của văn chương truyền
thống. Chất trữ tình thấm đẫm trên các trang văn của ông ngay từ nhan đề của tác
phẩm: Chiều hoa tầm xuân, Giấc mơ hoa cỏ trắng, Khúc hát của dòng sông, Người
nhìn thấy trăng thật... Và dù viết về đề tài nào thì đọc truyện ngắn của ông người
đọc luôn thấy phảng phất âm hưởng cổ tích giữa đời thường và có sự hòa trộn cái
thực và cái ảo. Mùa hoa cải ven sông, Tiếng gọi cuối mùa đông, Ngựa trắng...vừa là
những câu chuyện của hiện tại nhưng cũng là những câu chuyện tình thi vị, lãng
mạn. Trong những tác phẩm đó, nhà văn đã khắc họa những diễn biến nội tâm của
nhân vật với sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và ảo làm cho cốt
truyện đôi khi bị mờ hóa nhiều lúc chỉ là dòng tâm trạng chắp nối như: Chiều hoa
tầm xuân, Hương khúc nếp cuối cùng... Đọc những trang văn của Nguyễn Quang
Thiều người đọc sẽ khó có thể quên hình ảnh một làng Chùa với những bến sông,
bờ đê, ruộng lúa, những đêm trăng và một mùa hoa cải nở vàng trên bến sông.
1.2.2. Văn xuôi Nguyễn Quang Thiều trong bối cảnh đổi mới
Năm 1986 là một dấu mốc quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội
cũng như văn hóa của nước ta. Đối với văn học, năm 1986 là năm văn học chính
thức bước vào giai đoạn đổi mới một cách toàn diện. Đây là giai đoạn bừng nở và
phát triển mạnh mẽ của văn xuôi. Nhiều cây bút đã lựa chọn các thể loại văn xuôi
19
như một phương tiện đắc dụng trong việc thể nghiệm và khám phá hiện thực sâu
rộng của cuộc sống. Ít có bao giờ văn học Việt Nam lại có một đội ngũ nhà văn
đông đảo và số lượng tác phẩm đồ sộ, đạt chất lượng như ở giai đoạn này. Bên
cạnh những nhà văn đã trưởng thành từ giai đoạn trước đang say mê với những
thể nghiệm mới ở những năm đầu sau 1975 như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Khải, Nguyễn Quang Sáng, Ma Văn Kháng,… là sự xuất hiện của một loạt cây
bút mới như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài,… với những sắc thái khác nhau và những
đổi mới mà họ đem đến đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo của văn xuôi Việt Nam.
Không chỉ có thể loại tiểu thuyết mà cả với truyện vừa, truyện ngắn, tư duy
tiểu thuyết cũng được sử dụng tối đa và ngày càng chiếm ưu thế ở giai đoạn này.
Cùng với sự thay đổi tư duy nghệ thuật là sự thay đổi tất yếu các yếu tố cơ bản
trong cơ cấu một tác phẩm văn xuôi cả về nội dung như đề tài, chủ đề, cốt truyện,
nhân vật lẫn hình thức nghệ thuật như ngôn từ, lời văn, giọng điệu,… Trong sự thức
nhận về con người và hiện thực trên bình diện chiều rộng và cả chiều sâu đã tạo
nên những hiện tượng văn học mới lạ.
Một trong những đổi mới của văn xuôi giai đoạn này là sự đổi mới quan hệ
giữa nhà văn và hiện thực với nhu cầu được “nói thật”. Do đó, những mặt tiêu cực
của hiện thực, cái xấu cái ác trong cuộc sống, những điểm đen của con người,
đều bị đem ra mổ xẻ, phanh phui đến tận cùng. Hiện ra trong các trang văn xuôi
là một hiện thực trần trụi với tính đa sự, đa đoan, cùng những mối quan hệ phức
tạp và chằng chịt của nó. Sự đổi mới quan niệm về hiện thực tất yếu kéo theo sự đổi
mới quan niệm nghệ thuật về con người. Ý thức cá nhân trỗi dậy mạnh mẽ và đòi
hỏi cần được giải phóng đã làm thay đổi sâu sắc quan niệm về con người trong quá
trình sáng tạo của hầu hết các nhà văn ở giai đoạn này. “Con người trong văn học
hôm nay được nhìn từ nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ:
con người với xã hội, con người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con
người với phong tục, với thiên nhiên, với những người khác và với chính mình”
[14;16]. Con người không chỉ được soi xét trên phương diện xã hội mà còn được
mở rộng, “đào bới” ở bình diện đời tư cá nhân, những bình diện tồn tại riêng lẻ của
20
những mảnh đời, số phận. Trong khả năng ấy, quan niệm nghệ thuật về con người
chẳng những được sâu sắc, đa dạng và phong phú hơn mà còn khẳng định được thành
tựu từng bước trong quá trình phát triển của nó. Các nhà văn Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Khải, Xuân Thiều, Ma Văn Kháng, Chu Lai, Lê Lựu,
Thái Bá Lợi,… đã không ngừng nỗ lực mở rộng những chiều kích về tâm hồn, đạo
đức, lối sống, đào sâu con người ở bản thể nhà văn trên cơ sở sở trường của mình, để
từ đó có sự nhìn nhận, lý giải riêng về con người hôm nay.
Văn xuôi sau 1975 đặc biệt quan tâm đến con người cá nhân, xây dựng
được khá nhiều kiểu loại nhân vật, vốn chưa từng có hoặc ít thấy trong giai đoạn
trước như: nhân vật cô đơn, con người bi kịch, con người lạc thời, nhân vật tư
tưởng, nhân vật kì ảo,… Các nhân vật tồn tại như một nhân cách, một tính cách
riêng biệt chứ không còn là một ý niệm. Và nó đã trở thành đối tượng thẩm mỹ
quan trọng của văn xuôi Việt Nam đương đại.
Cùng với sự đổi mới về đề tài, chủ đề, là sự cách tân vượt bậc về nghệ thuật.
Cần phải ghi nhận một số xu hướng nghệ thuật nổi bật trong văn xuôi sau 1975 là
sự đa dạng hóa về thi pháp thể loại, điểm nhìn trần thuật, phương thức tiếp cận,
ngôn ngữ, giọng điệu,… Với sự thay đổi điểm nhìn trần thuật theo từng kiểu loại
nhân vật, từng vị trí khác nhau, hoặc nhà văn có thể là người kể chuyện hoặc hóa
thân vào nhân vật trong tác phẩm, mà nhờ đó văn xuôi mang tính thông tin cao,
phản ánh và lý giải được các chiều sâu, rộng của cuộc sống. Nghệ thuật độc thoại
nội tâm, dòng ý thức và nghệ thuật đồng hiện đã mở ra cho nhà văn những hướng
tiếp cận khác nhau. Có thể kể đến các tác phẩm như Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai,
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thời xa vắng của Lê Lựu, Phiên chợ Giát của
Nguyễn Minh Châu, Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của
Y Ban. Đặc biệt là sự cách tân về giọng điệu và ngôn ngữ. Có thể tìm thấy những
giọng điệu chủ âm trong văn học giai đoạn này là: giọng hài hước, hóm hỉnh;
giọng mỉa mai, giễu nhại; giọng suy tư, chiêm nghiệm; giọng hoài nghi, chất vất;
giọng triết lý điềm tĩnh hay giọng trữ tình tha thiết;… Thứ ngôn ngữ trang trọng,
chuẩn mực dường như đã bị chối bỏ, dần trở nên mờ nhạt, nhường chỗ cho thứ ngôn
ngữ đời thường, đậm tính khẩu ngữ, thông tục. Các sáng tác của thế hệ nhà văn
21
mới trưởng thành từ sau 1975 như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Phan Thị
Vàng Anh, Nguyễn Quang Lập,… là sự nỗ lực không ngừng đem đến cho văn
học một không khí đời sống thường nhật sinh động, chân thực.
Trong bối cảnh ấy, nhà văn Nguyễn Quang Thiều là người đặt bút viết
muộn hơn so với những tên tuổi lớn vốn đã nhiều trải nghiệm từ giai đoạn trước đó.
Ông thuộc thế hệ các nhà văn mới xuất hiện và trưởng thành từ những năm 1980.
Nhà văn cũng đã thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về hiện thực mà mình đang sống
qua nhiều tác phẩm để lại dấu ấn đối với bạn đọc cũng như thu hút sự quan tâm của
giới nghiên cứu, phê bình. Cũng giống như các nhà văn cùng thời, Nguyễn Quang
Thiều rất nhạy cảm với các vấn đề thế sự, nhân sinh, đặc biệt là sự quan tâm đến bi
kịch và thân phận con người, nhưng nhà văn cũng đã khéo léo chọn cho mình một
chỗ đứng riêng, tránh sự trùng lặp, sáo mòn. Nguyễn Quang Thiều đã hòa mình
vào xu hướng đổi mới trong văn học với các nhà văn cùng thời và tự mình khẳng
định được một phong cách viết đầy cá tính, sáng tạo trong cách nhìn nhận và phản
ánh hiện thực.
Ở truyện ngắn, với Hai người đàn bà xóm trại, Mùa hoa cải ven sông,
Nguyễn Quang Thiều đã xác lập vị trí là một cây bút truyện ngắn xuất sắc khi nhìn
vào cuộc đời và số phận của những người phụ nữ nông thôn hậu chiến bằng cái nhìn
cảm thông, chia sẻ.
Riêng với ký, một thể loại vốn ít được chú ý trong văn học ở các giai
đoạn trước, đến giai đoạn hiện đại lại trở thành một thể nghiệm mới, một món ăn
tinh thần mới, có sức hấp dẫn đối với nhiều nhà văn trẻ trong giai đoạn này. Họ bắt
đầu tìm thấy ý nghĩa và sự cần thiết của thể loại này như một nhu cầu được lắng
lòng giữa những bộn bề cuộc sống. Và thực tế cho thấy thể loại này đã gặt hái
được nhiều thành tựu đáng kể, làm nên một vị trí riêng khá đặc biệt trong bối cảnh
đổi mới văn học giai đoạn sau 1975. Đặc biệt là trong vòng mươi, mười lăm năm
trở lại đây, nhiều tác phẩm tản ký ra đời đã góp phần làm nên sự thành danh cho
nhiều nhà văn. Tuy lực lượng sáng tác không đông đảo, và cũng không có
những nhà văn viết riêng cho thể loại này, song đây vẫn là thể loại có sức hấp dẫn
22