CÂU 1: Sự tương tác:
Những khác biệt cơ bản giữa văn học và báo chí
Báo chí và văn học có chung một đối tượng nhận thức là hiện thực đời sống, cùng sử
dụng ngôn từ như một công cụ chủ yếu để phản ánh hiện thực. Tuy nhiên, đây là hai
hình thái ý thức xã hội đặc thù, có những đặc trưng, đặc điểm khác biệt.
Văn học đã xuất hiện từ rất lâu trước khi có báo chí. Nó lấy con người làm đối tượng
nhận thức trung tâm với phương thức chiếm lĩnh và biểu đạt đặc thù là hình tượng
nghệ thuật. Văn học phản ánh hiện thực thông qua những hình tượng nghệ thuật vừa
phản ánh chân thực đời sống, đồng thời thông qua đó thể hiện thái độ thẩm mỹ của
nhà văn. Như vậy, thông tin trong tác phẩm văn học là thông tin thẩm mỹ và tính hình
tượng là dấu hiệu đặc trưng giúp ta phân biệt văn học với những loại tác phẩm khác
tuy cũng diễn đạt bằng lời văn, cũng dùng văn chương nhưng không phải là văn học
hoặc chỉ ít nhiều mang tính chất văn học.
Báo chí xuất hiện trong đời sống con người muộn hơn nhiều so với văn học. Nó có
nhiệm vụ thông tin kịp thời về cái mới. Đó là những sự việc, sự kiện, tình huống, hoàn
cảnh tiêu biểu đang nảy sinh hàng ngày hàng giờ trong đời sống. Nó phản ánh hiện
thực đúng trong mọi trạng huống tồn tại có thực và luôn luôn chịu áp lực của yêu cầu
thời sự. Yêu cầu này nhiều khi gay gắt đến từng phút.
Báo chí có nhiệm vụ cung cấp thông tin nhằm thoả mãn nhu cầu được hiểu biết của
công chúng về những sự thật nóng hổi, sinh động mới xảy ra. Đó là những sự thật
tiêu biểu, mới xảy ra, được phản ánh một cách chính xác, cụ thể, tỷ mỉ, cặn kẽ.
Trên cơ sở của sự so sánh trên, có thể thấy báo chí và văn học có mục đích, nhiệm
vụ vàchức năng riêng, do đó không thể phân biệt chúng một cách đơn giản từ chất
lượng nghệ thuật. Báo chí phản ánh sự thật dưới sự chi phối gắt gao của áp lực thời
sự. Chính áp lực này đã chi phối đến dung lượng, ngôn ngữ, bút pháp cho đến cách
thức tổ chức tác phẩm báo chí nói chung. Tác phẩm văn học không chịu áp lực này.
Mối quan hệ giữa văn học và báo chí
Giữa văn học và báo chí luôn tồn tại một mối quan hệ chặt chẽ và bền vững. Điều này
được thể hiện một cách toàn diện từ nội dung (đề tài, đối tượng phản ánh) đến các
yếu tố hình thức (kết cấu, ngôn ngữ, bút pháp, giọng điệu, thể loại).
Trong thực tế, trên báo chí vẫn thường xuyên xuất hiện một số thể loại văn học có thể
đáp ứng những yêu cầu thời sự của báo chí một cách rất năng động như tiểu phẩm,
tạp văn và một số tác phẩm thuộc ký. Đó là những thể loại nằm trong khu vực giao
thoa giữa văn học và báo chí. Chúng có thể kết hợp một cách hiệu quả đặc trưng
hình tượng của văn học với đặc trưng thông tin sự kiện xác thực - thời sự của báo chí
để phản ánh sinh động một hiện thực đang phát triển ngày càng đa dạng. Với những
tác phẩm này, đặc trưng văn học luôn chi phối quá trình sáng tạo tác phẩm, còn tính
chất báo chí của chúng thể hiện ở khả năng bám sát những vấn đề, chủ điểm thời sự.
Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí
Văn học và báo chí đều sử dụng ngôn ngữ của đời sống, đều nhằm tới đối tượng
công chúng, do đó nhìn chung ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí có rất nhiều
điểm tương đồng, khó phân biệt. Trong một số trường hợp, hầu như không thể phân
biệt được sự khác nhau về phương diện ngôn ngữ giữa một số tác phẩm văn học
thuộc loại tự sự (như truyện ngắn, tiểu thuyết và các thể ký văn học) với ngôn ngữ
trong các tác phẩm phóng sự, ghi nhanh, ký chân dung, ký chính luận của báo chí.
Sự khác biệt về ngôn ngữ của văn học và báo chí thể hiện rõ nhất ở một số thể loại
mang đậm những đặc trưng loại hình. Trong văn học, đó là kịch, thơ, ca... còn trong
báo chí là các thể loại thuộc nhóm các thể thông tấn báo chí như tin, bài thông tấn,
điều tra, tường thuật.
Trong tương quan so sánh giữa các thể loại này, ngôn ngữ của tác phẩm văn học
giàu hình ảnh và cảm xúc với những biện pháp nghệ thuật phong phú nhằm tái tạo
hình tượng nghệ thuật, còn ngôn ngữ của tác phẩm báo chí lại thiên về tính chất
thông tin, thông báo và đặc biệt chú ý tới sự chính xác, cụ thể. Nói cách khác, trong
khi ngôn ngữ báo chí thiên về sự chính xác, tính ngắn gọn, đơn giản, trực tiếp thì
ngôn ngữ văn học ngoài nhiệm vụ phản ánh chân thực đời sống còn phải thể hiện
được góc nhìn thẩm mỹ của nhà văn trước hiện thực. Trong tác phẩm văn học, ngôn
ngữ phải được lựa chọn, tổ chức, sáng tạo trên cơ sở của một quan niệm thẩm mỹ
của tác giả.
Những khác biệt về ngôn ngữ giữa văn học và báo chí như trên là để so sánh giữa
văn học với loại hình báo in. Đối với các loại hình báo chí khác như báo nói, báo hình,
báo ảnh, báo mạng -Internet, sự khác biệt càng trở nên sâu sắc hơn do sự chi phối
của đặc trưng loại hình. Chẳng hạn: khi viết cho báo hình, người viết phải biết cách
phối hợp giữa lời nói với tiếng động, âm nhạc; viết cho báo nói thì phải viết sao cho
người đọc có thể dễ dàng truyền đạt nội dung văn bản tới công chúng thính giả.
Cũng cần nhấn mạnh rằng: người viết văn chưa bao giờ phải đứng trước những đòi
hỏi như vậy. Tác phẩm văn học là tác phẩm nghệ thuật của ngôn từ, do đó nó đòi hỏi
mỗi nhà văn phải khai thác tối đa năng lực biểu hiện của ngôn từ, phải biết cách làm
cho từ ngữ trở nên sống động, ấn tượng. Ngôn từ trong tác phẩm văn học không chỉ
phản ánh chân thực đời sống mà còn phải bộc lộ thái độ thẩm mỹ của nhà văn trước
hiện thực.
Phân Tích:<tth>
Vd: Có thể minh chứng cho điều này bằng những tạp văn của văn hào Lỗ Tấn. Bên cạnh
đó, trong nhiều tác phẩm của nhà báo Nguyễn ái Quốc đã từng gây ấn tượng sâu sắc với
công chúng nớc Pháp từ đầu thế kỷ XX, về phương diện rất khó có thể chỉ ra đâu là tiểu
phẩm, là ký chính luận hay ký chân dung. Ngay trong giọng điệu cũng là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa căm thù, phẫn nộ xót xa, thương cảm… Trong số các nhà báo viết tạp văn, tiểu
phẩm ở nước ta, Ngô Tất Tố là một trong những cây bút hàng đầu. Tạp văn, tiểu phẩm của
Ngô Tất Tố là những bằng chứng sinh động về giao thoa giữa báo chí và văn học. bằng việc
phản ánh một cách kịp thời và sắc bén về những sự thật trong đời sống, tác phẩm của ông
vừa có giá trị báo chí vừa có giá trị văn học. Đó là mức độ điển hình của những sự việc và
con người được đề cập và do những biện pháp nghệ thuật phong phú, linh hoạt với bút pháp
châm biếm sắc sảo…Với lòng yêu nước nồng nàn và sự gắn bói chặt chẽ với nhân dân, được sự hậu thuẫn của các phong trào cách mạng, tạp văn, tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đã trở
thành một vũ khí sắc bén chĩa vào kẻ thù và những đồi phong bại tục trong xã hội cũ. Ông đã
đề cập đến hàng loạt vấn đề điển hình của cái xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Ngoài
ra, còn có nhiều chân dung kẻ thù được ông phác hoạ theo lối biếm hoạ rất thành công. Theo
GS Phan Cự Đệ, “văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là một phòng triển lãm những chân dung
khác nhau của giai cấp thống trị và những kiểu ngời điển hình trong xã hội cũ”. Ký văn học
phản ánh sự thật, mà trong bản thân sự thật đã chứa đựng những yếu tố thẩm mỹ. Cuộc
sống vô cùng phong phú, nhiều khi tự nó sản sinh ra những con người, sự việc, hoàn cảnh,
tình huống…điển hình mà ngay cả một nhà văn giàu tưởng tượng nhất cũng không tưởng tượng ra được. Nhà văn Nguyễn Khải đã có những nhận xét sắc sảo về vấn đề này: “Làm sao
mà tưởng tượng cho hết cái mà đời sống đã có thực? làm sao mà tạo ra được nhiều tình tiết
như đời sống đã tạo ra. Thực tế là ông thầy của chúng ta, một ông thầy luôn luôn làm cho ta
phải thất vọng và ghen tuông.” Nhà viết ký xuất sắc B. Pôlêvôi của Liên Xô trớc đây cũng đã
từng nói: “Cuộc sống chúng ta muôn hình muôn vẻ nh thế, biết bao sự việc xảy ra, thực sự
cũng không cần thiết phải hư cấu thêm thắt, tô vẽ gì thêm nữa.” Từ những năm 60, nhà thơ
Chế Lan Viên đã so sánh một cách đầy thuyết phục: “Đã có Xêch-pia nào nghĩ ra được một
con mụ quái ác như Lệ Xuân? Có nhà sư hổ mang nào trong Thuỷ Hử lại giống Thích Tâm
Châu được? Chả bao giờ ai nghĩ ra được cái địa ngục nào hơn chuồng cọp ngoài Côn Đảo.
Và Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn trỗi, út Tịch, Tạ thị Kiều…thực sự là những sáng tạo của lịch sử,
nhà nghệ sĩ thiên tài.” Có thể lấy ví dụ băng những lá thư của Tập từ chuyến đầu Tổ quốc đã
từng gây xúc động mạnh mẽ không chỉ với nhân dân ta mà với toàn nhân loại. Những lá thư
được viết từ trong lửa và máu ấy là bằng chứng sinh động, hùng hồn về tội ác của bọn đế
quốc mỹ và tay sai gây ra trên đất nớc ta và tinh thần quật khởi của đồng bào miền Nam trong
những năm tháng khi đất nước còn bị chia cắt. Những tội ác man rợ của kẻ thù cùng những
câu chuyện về cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam được kể lại trong những lá
thư ấy tuy không có mục đích văn chương nhưng đã gây cho người đọc những cảm xúc
mạnh và sâu sắc. Trong bão tố của cuộc chiến đấu một mất một còn, chống giặc trong gian
khổ và tang tóc, đồng bào Miền Nam vẫn tỏ ra lạc quan, yêu đời, vững lòng tin ở sức mạnh
của mình, vững lòng tin ở tương lai và thắng lợi cuối cùng. Sức sống mãnh liệt mà Từ tuyến
đầu Tổ quốc có được trước hết chính là ở sức mạnh của sự thật đau thương và hào hùng.
“Qua những bức thư của ngời thân gửi cho ngời thân, bạn đọc đã tìm đợc câu trả lời dứt
khoát cho nhiều vấn đề lớn mà thời đại dang đặt ra trong tâm tư, tình cảm của mỗi chúng
ta”[129, tr.3]. Sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt và những năm đầu của thời hậu
chiến, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới và chính trong bối cảnh này những sự thật bị
quên lãng. Những sự thật ấy đã trở thành nguồn đề tài vô cùng hấp dẫn, sinh động cho các
tác phẩm ký văn học và ký báo chí. Điều đó lý giải vì sao trong thời kỳ đổi mới, các thể loại
năng động như bút ký, bút ký chính luận, tạp văn, tiểu phẩm và nhất là phóng sự lại được sử
dụng nhiều hơn cả. Riêng với thể loại phóng sự, với khả năng khám phá, phơi bày, điều trần
về những sự thật của đời sống một cách năng động đã thể hiện một cách rất sinh động sự
giao thoa giữa văn học và báo chí nói chung, giữa ký văn học và ký báo chí nói riêng.
CÂU 2: