Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về NHÀ nước KIỂU mới và một số vấn đề xây DỰNG NHÀ nước VIỆT NAM dưới ÁNH SÁNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.71 KB, 18 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
MỤC LỤC

Trang
LỜI NĨI ĐẦU

2

1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM

3

1.1. Hồ Chí Minh tiếp thu học thuyết Mác - Lênin về nhà nước
chuyên chính vơ sản

3

1.2. Hồ Chí Minh tiếp thu kinh nghiệm về xây dựng nhà nước trong
lịch sử Việt Nam
1.3. Hồ Chí Minh nghiên cứu các kiểu nhà nước trong lịch sử

3
4

2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM

2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân



4
4

2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp
cơng nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước

8

2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực
pháp lý mạnh mẽ

11

2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững
mạnh, hoạt động có hiệu quả

13

3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM DƯỚI
ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

15

3.1. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân

15

3.2. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của dân, do dân và vì dân
KẾT LUẬN

16
18


2
LỜI NĨI ĐẦU

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc “Tun ngơn Độc lập” ngày 02-9-1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đơng Nam Á.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới là cơ sở, nền
tảng cho việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
đồng thời giúp cho người học có cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc quan
điểm của Người.
1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM

1.1. Hồ Chí Minh tiếp thu học thuyết Mác – Lênin về nhà nước chun
chính vơ sản

Bất cứ nhà nước nào cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định vì:
nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp, là kết quả tất yếu của cuộc đấu
tranh giai cấp, nên nó phải mang bản chất của giai cấp thống trị, không có nhà
nước phi giai cấp, nhà nước phúc lợi chung.
Từ mối quan hệ giữa nhà nước chun chính vơ sản với chế độ dân chủ
Theo C.Mác: chế độ dân chủ là chế độ nhà nước, mà trong nhà nước đó nhân
dân là chủ thể, quan hệ chủ đạo đó là quan hệ giữa nhà nước và nhân dân lao

động. Trong đó, nhân dân là tính thứ nhất, là cơ sở, nguồn gốc, là mục tiêu
hoạt động của nhà nước. Còn nhà nước là tính thứ hai, chịu sự qui định của
nhân dân. Như vậy, Mác khẳng định: nhân dân sinh ra nhà nước chứ không
phải nhà nước sinh ra nhân dân. Nhà nước chun chính vơ sản phải là nhà
nước phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề nhà nước là cơ
sở lý luận khoa học để Người đánh giá phê phán các học thuyết khác về tổ
chức và nhà nước cũng như khảo sát các kiểu thực tiễn nhà nước một cách
chính xác. Từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam, làm cho tư tưởng này của Hồ Chí Minh thực sự cách mạng và khoa
học, trở thành nền tảng tư tưởng của đường lối xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


3

1.2. Hồ Chí Minh tiếp thu kinh nghiệm về xây dựng nhà nước trong lịch
sử Việt Nam

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ơng ta đã tích luỹ được
nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước. Điều này thể hiện rõ qua
các bộ sử và các bộ luật lớn của dân tộc. Với tư tưởng “dân ta phải biết sử ta”,
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu rất kỹ lịch sử các triều đại, đặc biệt triều đại nhà
Lý, Trần, Lê và tiếp thu ở đó nhiều kinh nghiệm quý báu. Đó là tư tưởng trị
nước bằng nhân trị, đức trị của nhiều bậc hiền tài, tư tưởng pháp quyền và tư
tưởng “thân dân” của nhà nước thời kỳ phong kiến hưng thịnh. Những tư
tưởng này cùng với tư tưởng về nhà nước lấy dân làm gốc tiếp thu được ở
Nho giáo, là những cơ sở hành trang ban đầu mà Hồ Chí Minh mang theo trên
con đường cứu nước và tìm kiếm một mơ hình nhà nước tiến bộ cho nước nhà
sau khi giành được độc lập.

1.3. Hồ Chí Minh nghiên cứu các kiểu nhà nước trong lịch sử

Với nhà nước phong kiến, Hồ Chí Minh cho rằng, đây là nhà nước đã
mục nát, ươn hèn khơng cịn khả năng điều hành, quản lý đất nước, khơng cịn
khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, để bảo vệ nền độc lập dân tộc và phát
triển xã hội. Hồ Chí Minh nghiên cứu nhà nước tư bản trên nước Mỹ, Pháp,
Anh,… Người nhận rõ ở đó có những tư tưởng tiến bộ, nhưng trong thực tiễn
thì những “quyền tự do”, “bình đẳng”, “quyền sống”, “quyền mưu cầu hạnh
phúc”,… các nước tư bản không thực hiện triệt để cho tất cả mọi người chỉ là
quyền của giai cấp tư sản. Người đi tới khẳng định không chọn mô hình nhà
nước dân chủ tư sản cho cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh nghiên cứu các hình thức, mơ hình nhà nước kiểu mới trong
lịch sử như Công xã Pari (1871), Nhà nước Nga Xô Viết sau cách mạng Tháng
Mười năm 1917, Người đã tìm thấy một mơ hình nhà nước kiểu mới: “Đảng
Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra chính phủ cơng, nơng, binh, phát đất ruộng cho
dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,… ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực
hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”1. Mơ hình nhà nước đó đã gợi ý cho Người về
một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.

1

Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.280


4

Như vậy, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước kiểu mới ở Việt Nam là kết quả của sự lựa chọn sâu sắc những tinh hoa tư
tưởng về nhà nước ở các nước phương Tây cũng như ở phương Đông, đặc biệt là
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, là cơ sở góp phần

hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ
NƯỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM

2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân, do dân, vì dân

Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một nhà nước mới ở
Việt Nam là một nhà nước do nhân dân làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản
nhất của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ do
Người sáng lập. Quan điểm đó xun suốt, có tính chi phối tồn bộ q trình
hình thành và phát triển của Nhà nước cách mạng ở Việt Nam.
Quan điểm xây dựng Nhà nước của Hồ Chí Minh khơng những kế thừa
mà còn phát triển học thuyết Mác – Lênin về nhà nước cách mạng.
2.1.1. Nhà nước của dân

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: Nhà nước của dân thì dân phải là
chủ, là người có vị thế cao nhất, có quyền lựa chọn cao nhất và quyết định mọi
vấn đề liên quan đến vận mệnh dân tộc, đất nước.
Quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân thể hiện ngay ở Điều 1 Hiến pháp
năm 1946 do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo viết: “Nước Việt Nam là
một nước dân chủ cộng hồ. Tất cả các quyền bính trong nước đều là của toàn
thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo; những việc can hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra tồn dân
phúc quyết”1. Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hố - xã
hội, bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối
cao của nhân dân.
Nhân dân lao động làm chủ nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân
có quyền kiểm soát nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, uỷ quyền cho các đại
biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ
dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ đồng thời

1

Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.591.


5

cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi
miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân nào nếu những
đại biểu đó tỏ ra khơng xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, muốn bảo đảm được tính chất nhân dân của nhà
nước, phải xác định được và thực hiện được trách nhiệm của cả hai: cử tri và
đại biểu do cử tri bầu ra. Họ phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do bản chất
của cơ chế này quy định và khi khơng hồn thành nhiệm vụ với tư cách là
người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi miễn tư cách đại biểu.
Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là
chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, cịn dân làm chủ có nghĩa là xác định
quyền, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân
được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có
trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền
làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân
dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những
người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của
mình, khơng phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân,
“quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là
một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hồ do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 02-9-1945 chính
là nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt
Nam bởi vì nhà nước đó là nhà nước của dân, nhân dân có vai trị quyết định
mọi cơng việc của nhà nước.

2.1.2. Nhà nước do dân

Nhà nước do dân là nhà nước do dân lựa chọn. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh
thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân
hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao trách nhiệm làm chủ, nâng cao ý thức
trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình, Hồ Chí Minh khẳng định:
Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác
một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam mới,
nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý nhà


6

nước. Người nêu rõ quyền của dân, nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham
gia quản lý là ở chỗ:
- Tồn bộ cơng dân bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của
nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
- Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội
đồng Chính phủ (nay gọi là Chính phủ).
- Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước,
thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.
- Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều
thực hiện ý chí của dân (thơng qua Quốc hội do dân bầu ra).
Như vậy, tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ
chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm sốt của nhân dân.
Các cơ quan nhà nước khơng đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của dân thì dân
có quyền bãi miễm họ.
2.1.3. Nhà nước vì dân


Đây là nội dung phản ánh rõ mục đích, mục tiêu hoạt động của nhà
nước. Theo Hồ Chí Minh: Mọi hoạt động của nhà nước đều hướng vào mục
tiêu phục vụ lợi ích của nhân dân lao động, coi đó là mục đích cao nhất của
nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích
và nguyện vọng của nhân dân, không đặc quyền đặc lợi, thật sự trong sạch,
cần, kiệm, liêm, chính. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cả đời tơi chỉ có
một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của nhân
dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xơng pha
sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó”1.
Theo Hồ Chí Minh: Nhà nước vì dân phải là nhà nước thực sự trong
sạch vững mạnh, chống lại tiêu cực từ bộ máy của mình. Với quan điểm:
“Nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì” 2. Hồ Chí Minh yêu cầu: Một nhà nước vì dân thì trước
hết bộ máy nhà nước phải luôn trong sạch vững mạnh, khơng phải để ức
1

Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.240
Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.56
3
Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.161.
2

2


7

hiếp nhân dân (mà vì nhân dân phục vụ) khơng phải để đục khoét tiền của
của dân, hạch sách dân, mà phải là công bộc của nhân dân. Về điểm này Hồ
Chí Minh thực sự là tấm gương sáng ngời về trách nhiệm của cán bộ công

chức nhà nước.
Khi trả lời phỏng vấn nhà báo nước ngồi, Hồ Chí Minh nói: “Tơi tuyệt
nhiên khơng ham muốn cơng danh phú q chút nào. Bây giờ phải gánh vác
chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tơi phải gắng sức làm, cũng như một
người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho
tôi lui thì tơi rất vui lịng lui”1.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp cơng
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước
2.2.1. Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước

Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và
đấu tranh giai cấp xuất hiện, do đó, nhà nước là sản phẩm của một xã hội có
giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định, khơng có
một nhà nước nào là phi giai cấp, nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy, không
phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà nước khơng phải
tồn tại mãi mãi. Trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chưa
xuất hiện nhà nước vì chưa có giai cấp. Trong hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản văn minh (giai đoạn cao) thì giai cấp dần dần khơng cịn và đồng thời với
q trình đó là nhà nước của giai cấp cũng tự tiêu vong.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
được coi là nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng tuyệt nhiên nó khơng
phải là “Nhà nước tồn dân” hiểu theo kiểu nhà nước phi giai cấp. Nhà nước
bao giờ và ở đâu cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Nhà nước
Việt Nam mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là một Nhà nước mang bản
chất giai cấp cơng nhân vì:
Một là, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Điều này được thể hiện:
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của
1



8

Nhà nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến
pháp năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa
trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong
quan điểm cơ bản xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, một
nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh
nịng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng
dân và trí thức do giai cấp cơng nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo
phù hợp với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước,
đất nước ta phải vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải
phóng và bảo vệ Tổ quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới. Do
đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thời kỳ đó
khơng giống với những thời kỳ sau này. Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh
vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho
các thời kỳ đó là:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước
thể chế hoá thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và
đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta cịn được thể hiện
ở tính định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Bằng cách
phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh
tế lạc hậu thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp

hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta còn được thể hiện ở
nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân
chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân


9

chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất
quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân.
2.2.2. Bản chất giai cấp cơng nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân
tộc của nhà nước

Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa
các vấn đề giai cấp – dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới, Hồ
Chí Minh đã giải quyết hài hồ, thống nhất giữa bản chất giai cấp cơng
nhân với tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan
điểm sau:
- Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của
rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng
nghìn năm của dân tộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam rơi
vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ
chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa dưới sự
lãnh đạo của các nhà cách mạng tiền bối rất oanh liệt, tô thắm cho truyền
thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập, tự do cho dân tộc vẫn
chưa trở thành hiện thực. Từ đầu năm 1930 Đảng ta ra đời thì sự lớn mạnh
của giai cấp cơng nhân với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam
đã vượt qua tất cả những hạn chế và lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng
Tháng Tám năm 1945, đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà nước dân

chủ nhân dân đầu tiên ở Đơng Nam Á.
- Tính thống nhất của nó cịn được biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ
lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề
này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp cơng nhân,
của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta khơng những
thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân mà cịn thể hiện cả ý chí của nhân dân
lao động và của tồn dân tộc.
- Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc
giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền
tảng độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát
triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội rồi đi tới


10

chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định
cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước ta.
Những biểu hiện trên nói lên bản chất giai cấp công nhân của nhà
nước của dân, do dân, vì dân đây là ngun tắc sống cịn trong xây dựng nhà
nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự thống nhất này chỉ có được ở
nhà nước kiểu mới. Cơ sở chủ yếu quy định sự thống nhất đó là ở sự thống
nhất về căn bản giữa quyền lợi của giai cấp công nhân với nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh, giai cấp cơng nhân
khơng có lợi ích nào khác lợi ích của dân tộc, lợi ích của nhân dân và chỉ có
giải phóng dân tộc mới có cơ sở để giải phóng giai cấp cơng nhân một cách
triệt để.
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực
pháp lý mạnh mẽ


Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan trọng của hiến pháp và
pháp luật trong quản lý xã hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách của
nhân dân An Nam do Người ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi Hội nghị
Vécxây (Pháp) năm 1919. Bản Yêu sách đó nêu ra yêu cầu: cải cách nền
pháp lý ở Đông Dương bằng cách làm cho người bản xứ cũng được quyền
hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hồn
tồn các tịa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận
trung thực nhất trong nhân dân An Nam; thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng
chế độ ra các đạo luật.
Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết là một nhà nước
hợp hiến. Ngay sau khi giành được chính quyền Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay
mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tun ngơn độc lập tuyên bố với quốc dân
đồng bào và thế giới về sự khai sinh Nhà nước Việt Nam mới. Nhờ đó Chính
phủ lâm thời có địa vị hợp pháp và Tun ngôn độc lập của Việt Nam thành
một văn kiện pháp lý nổi tiếng. Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
được Hồ Chí Minh chú ý xây dựng được xây dựng trên những quan điểm sau:
Một là, xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến.


11

Theo Hồ Chí Minh nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết
phải là nhà nước hợp hiến. Đó là nhà nước do nhân dân xây dựng lên thơng
qua bầu cử và nhà nước phải có hiến pháp. Ngày 03/9/1945 trong phiên họp
đầu tiên của Chính phủ sau khi độc lập, Hồ Chí Minh đã nêu ra những nhiệm
vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ phải tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ
thông đầu phiếu. Để sớm có một nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.
Cuộc tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 06-01-1946 với chế
độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Lần đầu tiên trong lịch sử
hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam

châu Á, tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam, nữ, giàu
nghèo, dân tộc, tôn giáo… đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình tham
gia Quốc hội. Ngày 02-3-1946, Quốc hội Khoá I nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà đã họp phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ
chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ
liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ giá trị pháp lý để giải
quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.
Hai là, hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú
trọng đưa pháp luật vào cuộc sống.
Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp
khác nhau nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quan
trọng bậc nhất là Hiến pháp – đạo luật cơ bản của nước nhà. Các bản Hiến
pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 đã để lại dấu ấn đậm nét những quan
điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế và hoạt động của nhà nước mới.
Song, có Hiến pháp và pháp luật rồi nhưng khơng đưa được vào trong
cuộc sống thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi
liền với kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp
luật. Suốt cả thời kỳ giữ trọng trách là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn luôn
chăm lo xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa để bảo đảm quyền làm
chủ thực sự của nhân dân. Các cơ quan của nhà nước phải gương mẫu chấp
hành một cách nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Chính bản thân Hồ Chí
Minh là một tấm gương sáng ngời về sống và làm việc theo Hiến pháp và


12

pháp luật. Người tự ghép mình vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp hành
Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo pháp luật đã trở thành nề nếp,
thành thói quen, thành lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh.
“Thần linh pháp quyền” là sức mạnh do con người và vì con người. Do

vậy, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đòi hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp
hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Trong việc thực thi pháp
luật, có quan hệ rất lớn tới trình độ dân trí, vì vậy, Hồ Chí Minh chú trọng tới
vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho
nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia cơng tác của chính quyền các
cấp. Làm tốt nghĩa vụ công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của mình đối
với nhà nước, biết thực hành dân chủ.
Trong việc thực thi Hiến pháp và pháp luật, Hồ Chí Minh bao giờ cũng
chú ý cả hai mặt vừa có lý, vừa có tình, vừa nghiêm khắc, vừa tăng cường các
biện pháp giáo dục pháp luật, Hồ Chí Minh quan niệm pháp luật phải lấy chữ
“Nhân” làm trọng, nghĩa là tất cả các chế định ngặt nghèo của luật pháp, từ
bản Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nước nhà đến các luật đều do con người
và vì con người, vì hạnh phúc, tự do, ấm no của con người, vì sự nghiệp giải
phóng con người. Quan điểm đó của Hồ Chí Minh thấm nhuần chủ nghĩa
nhân văn, nhân đạo mác xít. Hồ Chí Minh khơng theo kiểu pháp luật độc tơn.
Cho nên, Hồ Chí Minh đã cho rằng, phải có tình đồng chí thương u lẫn
nhau, nếu thuộc bao nhiêu sách chủ nghĩa Mác – Lênin mà sống với nhau
khơng có tình có nghĩa thì coi như không hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài.
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, theo Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán
bộ, viên chức có trình độ văn hố, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ
hành chính và nhất là phải có đạo đức: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư,
một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý. Trong thư gửi
Hội nghị Tư pháp toàn quốc, Người viết: “Các bạn là những người phụ trách
thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao cái gương “phụng
cơng, thủ pháp, chí cơng vơ tư” cho nhân dân noi theo”1.
1

Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.382



13

2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững
mạnh, hoạt động có hiệu quả

Theo Hồ Chí Minh, một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân phải
là nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu quả. Người chỉ rõ, để xây dựng
nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu quả thì phải tăng cường pháp luật đi
đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Trong suốt 24 năm ở cương vị là người
đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự kết hợp giáo dục
đạo đức và pháp luật, Người luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng
không ngừng nâng cao vai trò sức mạnh của luật pháp.
Hồ Chí Minh rất đề cao phép nước, kết hợp chặt chẽ việc quản lý điều
hành xã hội bằng pháp luật với việc giáo dục đạo đức cách mạng. Theo Hồ
Chí Minh, luật pháp dựa vào đạo đức, mặt khác luật pháp bảo vệ đạo đức.
Theo Người: “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác,
trong lúc này, vấn đề là ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải
thương nước, thương dân”1. Nhưng kẻ nào lạm dụng tình thương của Người,
làm hại đến tính mạng và tài sản của nhân dân, làm mất thanh danh, uy tín của
Đảng và Nhà nước, thì họ dù là cách mạng kỳ cựu, là bộ trưởng, thứ trưởng,
là gì đi nữa, vẫn phải đem ra xét xử theo đúng pháp luật để đề cao phép nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà lập pháp, đồng thời là một nhà hành
pháp vĩ đại. Tư tưởng của Người về kết hợp thống nhất biện chứng giữa giáo
dục đạo đức và tăng cường pháp luật cần được chúng ta kế thừa và phát huy
trên con đường xây dựng một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, trong sạch,
vững mạnh, có hiệu quả.
Để có một nhà nước trong sạch vững mạnh, có hiệu quả cần phải
kiên quyết chống tham ơ, lãng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ơ,

lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, thứ giặc nguy
hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy của công
dùng vào việc tư, quên thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ Chí Minh
là: “tham ô, lãng phí và quan liêu dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng
minh của thực dân và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt
gian, mật thám” 2.
1
2

Hồ Chí Minh, Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1985, tr.187
Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.490.


14

Để chống quan liêu, lãng phí, tham ơ, Hồ Chí Minh chỉ rõ mỗi cán bộ,
đảng viên phải có tinh thần tự chỉ trích, tự phê bình phải thành thực vạch ra
những sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa. Người cũng chỉ rõ nếu khơng phê
bình, chỉ trích thì khơng thể tiến bộ được. Về phía tổ chức, Hồ Chí Minh yêu
cầu “Đảng lấy giáo dục, bồi dưỡng là chính”. Điều này cũng có ý nghĩa là
phải coi trọng xây dựng đạo đức mới, lấy xây làm chính. Thực tế cho thấy,
Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc giáo dục, bồi dưỡng, cảm hoá, thuyết
phục, nhưng khi xét thấy cần thiết, Người cũng dùng biện pháp cứng rắn để
xử lý những sai phạm đạo đức của cán bộ, đảng viên. Trong việc đấu tranh
phòng chống bệnh quan liêu, lãng phí, tham ơ của cán bộ, đảng viên, Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh cho
rằng quần chúng “có trăm tai nghìn mắt” nên cái gì họ cũng biết và cũng làm
được. Vì thế, việc chống quan liêu, lãng phí, tham ô của cán bộ, đảng viên
phải phát huy được dân chủ và huy động được sức mạnh của nhân dân. Chỉ
khi nào quần chúng nhân dân tự giác, tích cực tham gia thì cuộc đấu tranh này

mới có được thắng lợi thực sự.
Ngày này chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong điều kiện xây dựng và vận hành
cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ mới mẻ,
hiểu biết của chúng ta cịn ít, có nhiều việc vừa làm, vừa tìm tịi, rút kinh
nghiệm. Do vậy, để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa đòi hỏi chúng ta phải trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước kiểu mới đáp ứng với yêu cầu
thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

3.1. Phát huy dân chủ đi đơi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân

Phát huy dân chủ luôn là nhiệm vụ cần được thực hiện tốt trong mọi
giai đoạn của cách mạng. Song, trong điều kiện đất nước hồ bình, phát triển
kinh tế thị trường và tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo định hướng
xã hội chủ nghĩa với điều kiện khó khăn, phức tạp của tình hình hiện nay thì


15

mở rộng dân chủ là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết để khai thác được
sức mạnh vô tận của nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập
với thế giới. Trước tình hình mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng
định: “Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ
chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý
kiến của nhân dân… Xác định các hình thức tổ chức và cơ chế để nhân dân

thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội” 1.
Qua thực tế đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng nơi nào thực hiện được dân chủ,
phát huy được trí tuệ đơng đảo cán bộ và nhân dân, thì nhất định thành công.
Ngược lại, nơi nào để mất dân chủ, tạo ra sự bất mãn với quần chúng thì nơi
đó khơng tránh khỏi khó khăn và dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
Để phát huy dân chủ kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực
hiện quản lý xã hội bằng pháp luật thì các quyền dân chủ của người dân trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong hoạt động kinh tế phải tiếp tục
được thể chế hoá bằng pháp luật. Đồng thời, phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh
phòng và chống vi phạm pháp luật, đảm bảo cho mỗi cơng dân được bình
đẳng trước pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được xét xử nghiêm
minh, đúng người, đúng tội, khơng phân biệt người đó là ai, để đem lại niềm
tin cho nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật Nhà nước ta.
3.2. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân

Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp”2.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể khả thi của các quy
định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.125.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.126.



16

sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ
quan công quyền.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế
bầu cử để nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại
biểu Quốc hội chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại
biểu của Quốc hội. Tổ chức lại một số Uỷ ban của Quốc hội; Nâng cao chất
lượng hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Đổi mới
hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực
hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức
năng giám sát tối cao của Quốc hội.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính
phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thơng suốt,
hiện đại. Luật hố cơ quan tổ chức của Chính phủ; tổ chức Bộ quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực, bảo đảm hiệu lực, tinh gọn và hợp lý. Nghiên cứu việc thành lập cơ
quan tài phán hành chính để giải quyết các khiếu kiện hành chính. Thực hiện
nâng cấp mạnh, hợp lý cho chính quyền địa phương, giao quyền chủ động hơn
nữa cho địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu
tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương.
Xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp. Cải cách tư pháp khẩn trương đồng bộ; lấy cải
cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt
động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp
trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa

phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng
nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền
đối với chính quyền ở nơng thơn, đơ thị, hải đảo.
Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động
của cơ quan, cán bộ, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ
được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề


17

nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen
thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực
và phẩm chất đạo đức. Có cơ chế đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những người
không xứng đáng, kém phẩm chất và năng lực. Tăng cường kiểm tra giám sát
các hoạt động của bộ máy nhà nước, hành vi của các công chức. Trừng trị
nghiêm khắc theo pháp luật những hành vi phạm pháp, phạm tội, bất cứ ở
cương vị, chức vụ nào. Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm
chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực
tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét quyết định.


18
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân được hình
thành rất sớm. Đây là kết quả của sự lựa chọn những tinh hoa tư tưởng của
nhân loại về nhà nước mà đặc biệt là những nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin
về xây dựng nhà nước, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể ở Việt Nam.

Tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân có ý nghĩa sâu sắc, vẫn
tiếp tục chỉ đạo sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Mục tiêu cải cách nền hành chính nhà nước Việt Nam là
nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, đủ năng lực, sử dụng đúng
quyền lực, tạo điều kiện phát triển xã hội, phục vụ đời sống nhân dân, xây
dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Trách nhiệm của chúng ta trước hết phải làm trịn bổn phận cơng dân,
thể hiện quyền và nghĩa vụ của công dân đồng thời tham gia xây dựng Nhà
nước trong sạch vững mạnh.



×