TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KHỞI NGHĨA VŨ TRANG VÀ GIÁ TRỊ ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MỤC LỤC
Tra
ng
LỜI NÓI ĐẦU
2
1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ KHỞI NGHĨA VŨ TRANG
3
1.1. Con đường giành chính quyền ở Việt Nam phải bằng khởi nghĩa
vũ trang
3
1.2. Lực lượng tiến hành khởi nghĩa vũ trang là toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng
1.3. Khởi nghĩa vũ trang nổ ra phải có điều kiện, thời cơ
6
8
1.4. Hình thái khởi nghĩa vũ trang đi từ khởi nghĩa từng phần tiến
tới tổng khởi nghĩa
10
1.5. Căn cứ địa có vai trò quan trọng đối với khởi nghĩa vũ trang
12
1.6. Khởi nghĩa vũ trang nổ ra phải tiến công và kiên quyết tiến công
14
2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KHỞI NGHĨA VŨ TRANG
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG TA
15
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa nghĩa vũ trang đã góp
phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở Việt Nam
15
2.2. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ
trang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
16
KẾT LUẬN
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
18
2
LỜI NÓI ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang là một bộ phận quan
trọng trong hệ tư tưởng của Người. Nó bao gồm hệ thống tư duy, quan niệm
về phương pháp giành chính quyền. Theo đó khởi nghĩa vũ trang là một hình
thức đặc biệt của đấu tranh chính trị giành quyền lực về tay nhân dân; khởi
nghĩa vũ trang vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật... Tư tưởng Hồ Chí
Minh về khởi nghĩa vũ trang đã trở thành cơ sở tư tưởng của Đảng ta trong
cách mạng, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang giúp cho học
viên có cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc quan điểm của Người, đồng thời
là cơ sở nhận thức đầy đủ hơn về sự vận dụng sáng tạo của Đảng trong sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
KHỞI NGHĨA VŨ TRANG
1.1. Con đường giành chính quyền ở Việt Nam phải bằng khởi nghĩa
vũ trang
Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do nhu cầu nguyên liệu, nhân
lực, lao động và thị trường, nhiều nước tư bản phương Tây đã xâm chiếm
và thống trị các nước bằng vũ lực, bạo lực tàn bạo. Phương Đông, với một
nền văn minh rực rỡ cổ xưa nhưng lại trì trệ trong thời kỳ trung, cận đại,
nên đã nhanh chóng bị kẻ thù chinh phục, cho nên đến thế kỷ XIX, trên thế
giới hầu như không còn một miền đất trống. Việt Nam cũng không nằm
ngoài thảm hoạ này. Từ đó, nhân dân Việt Nam liên tiếp đứng lên đấu tranh
chống thực dân Pháp. Nhiều cuộc đấu tranh nổ ra. Nhiều phong trào yêu
nước xuất hiện. Nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa và các phong trào yêu
nước đều bị kẻ thù đàn áp khốc liệt.
Trong bối cảnh đời sống chính trị, quân sự của xã hội Việt Nam, đã
xuất hiện một xu thế cách mạng mới do Nguyễn Ái Quốc khởi xướng và
lãnh đạo. Sau khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, bỏ phiếu tán thành Quốc
tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã sớm
trở thành Người Cộng sản Việt Nam đầu tiên (1920), Người hướng cách
3
mạng Việt Nam vào con đường cách mạng vô sản, gắn công cuộc giải
phóng dân tộc với giải phóng xã hội và giải phóng con người. Ý tưởng về
con đường cứu nước kiểu mới, về phương pháp cách mạng được Người đề
cập trong nhiều tác phẩm, nhưng được thể hiện rõ trong Văn kiện Đảng
Cộng sản và vấn đề thuộc địa của Ban nghiên cứu thuộc địa Phân bộ Pháp
Quốc tế Cộng sản. Ngay từ buổi đó, bằng tư duy chính trị sắc sảo, Nguyễn
Ái Quốc đã tin tưởng rằng: “Ngày mà chúng ta sẽ được tự do nhờ ở thành
công của sự thay đổi mà chúng ta đang chuẩn bị ở đây, sự lầm than khổ cực
của các bạn sẽ chấm dứt”1. Để đạt được niềm tin lớn lao và cũng là khát
vọng cháy bỏng đó, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều tác phẩm lý luận.
Điều mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt lưu ý là kết luận của Mác, Ăngghen về
bạo lực. Theo hai ông, bạo lực là quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng
có thể diễn ra bằng khởi nghĩa vũ trang, bằng chiến tranh cách mạng hoặc
kết hợp giữa các hình thức đó.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc về bản chất dã man, tàn bạo, thối nát
của chủ nghĩa thực dân; hiểu rõ nguyên nhân thất bại các cuộc khởi nghĩa
chống thực dân Pháp của nhân dân ta, đồng thời tiếp thu, vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện một nước thuộc địa nửa
phong kiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm hình thành tư tưởng về con
đường giành chính quyền ở Việt Nam bằng khởi nghĩa vũ trang, bằng sự
nổi dậy của nhân dân sử dụng vũ khí đánh đuổi quân cướp nước.
Hồ Chí Minh đã khẳng định vị trí, vai trò của khởi nghĩa vũ trang
trong tiến trình cách mạng ở nước thuộc địa. Theo Người, khởi nghĩa vũ
trang là một con đường cơ bản để giành chính quyền thông qua việc lật đổ hệ
thống chính quyền thực dân phong kiến, chứ không bằng con đường cải cách
dần dần hoặc bằng cuộc đảo chính đơn giản. Đó là một quan niệm có ý nghĩa
bước ngoặt trong sự hình thành tư tưởng khởi nghĩa vũ trang của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Ngay từ khi còn ở Mátxcơva Hồ Chí Minh đã hình dung một cuộc
khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam trong tương lai khi Người nói chuyện với
một hoạ sĩ Thuỵ Điển. Sau này, Erích Giôhanxơ kể lại: “Nguyễn Ái Quốc
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr 450.
4
đã suy nghĩ về sự giải phóng nước Việt Nam bằng khởi nghĩa vũ trang,
Người nói chuyện rất say sưa về việc tổ chức càng nhiều càng tốt các
nhóm vũ trang của công nhân, nông dân Việt Nam. Đó là những tế bào
hợp thành hạt nhân của cuộc khởi nghĩa vũ trang mà Nguyễn Ái Quốc tin
chắc sẽ nổ ra”1.
Cũng vào năm 1924, trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ,
Nguyễn Ái Quốc đã bàn một số vấn đề về khả năng, tính chất, điều kiện…
bảo đảm cho “một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương”2 nổ ra và giành
được thắng lợi.
Ngày 16 tháng 01 năm 1935, Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Bộ trưởng
phương Đông, nêu lên tình trạng thiếu lý luận cách mạng của đại đa số cán
bộ Đảng Cộng sản Đông Dương, Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia… và
những vấp váp sai lầm của họ trong hoạt động cách mạng do trình độ lý
luận thấp kém gây nên. Để góp phần giải quyết tình trạng yếu kém đó,
Người yêu cầu Bộ phương Đông cho xuất bản những cuốn sách nhỏ về 30
vấn đề, trong đó có vấn đề khởi nghĩa vũ trang.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang tương đối hoàn chỉnh
vào cuối năm 1940 đầu năm 1941. Thời kỳ này ở trong nước diễn ra cuộc
Khởi nghĩa Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kỳ và cuộc binh biến Đô Lương. Cả
3 cuộc khởi nghĩa này đều bị thất bại, bị kẻ thù đàn áp khốc liệt. Tuy vậy,
đã để lại những bài học sâu sắc là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi
nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ trang của các dân tộc Đông
Dương. Ở nước ngoài Nguyễn Ái Quốc nhận định: tuy tình hình trong nước
và thế giới ngày càng có lợi cho ta nhưng lúc này thời cơ chưa đến, chưa thể
khởi nghĩa được. Vấn đề mấu chốt trong thời kỳ này là cách mạng phải
hướng mọi nỗ lực để "sửa soạn khởi nghĩa” tức là xây dựng thực lực cách
mạng rộng khắp, mạnh mẽ, trở thành nhân tố bên trong quyết định thắng lợi
của cuộc khởi nghĩa.
Những tư tưởng này được Nguyễn Ái Quốc thể hiện trong tác phẩm
“Con đường giải phóng” do Người chỉ đạo biên soạn, chỉnh lý và bổ sung.
Tác phẩm tổng kết kinh nghiệm, nguyên nhân thất bại của các cuộc khởi
1
2
Báo Nhân dân, ngày 16-3-1980.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.468.
5
nghĩa ở Việt Nam từ khi Pháp xâm lược và làm rõ nhiều nội dung khác về
khởi nghĩa vũ trang.
Đầu năm 1941 Nguyễn Ái Quốc trở về nước, thay mặt Quốc tế
Cộng sản, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá II (5/1941). Đây là mốc lịch sử đánh dấu
bước phát triển hoàn chỉnh tư tưởng của Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ
trang. Hội nghị bàn nhiều về vấn đề trọng yếu của cách mạng giải phóng
dân tộc và chỉ ra: nhiệm vụ trước hết phải giải phóng các dân tộc ở Đông
Dương ra khỏi ách thống trị của thực dân Pháp - Nhật. Về phương pháp
cách mạng trong giai đoạn trước mắt, Hội nghị chỉ rõ: “Cách mạng Đông
Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang” 1. Hội nghị xác
định phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, đặt vấn đề
xây dựng Đảng, phân tích yếu tố thời cơ, xác định phương hướng xây
dựng căn cứ địa, hậu phương, xây dựng chính quyền cách mạng, bảo vệ
thành quả của cách mạng.
Như vậy, ý tưởng giải phóng dân tộc bằng khởi nghĩa vũ trang đã
khắc phục những hạn chế của phong trào yêu nước Việt Nam trước khi có
Đảng Cộng sản ra đời và khẳng định con đường giành chính quyền về tay
nhân dân phải bằng con đường khởi nghĩa vũ trang. Với quan điểm đó Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta nổi
dậy tiến hành khởi nghĩa vũ trang thắng lợi, giành được chính quyền trong
cách mạng Tháng Tám năm 1945.
1.2. Lực lượng tiến hành khởi nghĩa vũ trang là toàn dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng
Quan điểm về khởi nghĩa vũ trang toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản là một quan điểm cốt lõi trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang
của Hồ Chí Minh. Nó bắt nguồn từ những luận đề “cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng”, “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng
không chống lại”2 được Người nêu rõ trong tác phẩm Đường cách mệnh
năm 1927.
1
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr.129.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.247.
6
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về
vai trò của quần chúng nhân dân trong các cuộc cách mạng, từ truyền thống
tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh nhân dân của dân tộc ta. Đó là truyền
thống "khoan thư sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, là thượng sách giữ nước",
“đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Hồ Chí Minh khẳng định: khởi
nghĩa vũ trang nhằm giải phóng dân tộc Việt Nam phải do toàn dân tiến
hành, lấy liên minh công nông làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nghiên cứu cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh cho rằng
cách mạng Việt Nam cũng phải tiến hành một cách triệt để, phải cách mạng
đến nơi, phải đem chính quyền giao cho dân chúng, chứ không để trong tay
một bọn ít người và chỉ có thế dân chúng mới được hạnh phúc. Tuy nhiên,
Hồ Chí Minh cho rằng điều kiện lịch sử xã hội Nga khác các nước bị áp bức
dân tộc. Đối với các nước dân tộc thuộc địa muốn làm cách mạng đến nơi,
đối tượng cách mạng không chỉ đánh đổ vua quan phong kiến, địa chủ, tư
bản mà còn phải đồng thời đánh đổ ách áp bức dân tộc. Sự nghiệp giải
phóng giai cấp công nhân phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp
của cách mạng vô sản.
Nhận thức thấy yếu tố dân tộc chẳng những ảnh hưởng đến phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nông dân mà còn có khả năng thay
đổi lập trường của các giai cấp khác như tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một
bộ phận giai cấp địa chủ trong quá trình cách mạng, nhất là trong thời kỳ
chuẩn bị và thực hành khởi nghĩa vũ trang. Hồ Chí Minh cho rằng, điều
cốt yếu là phải huy động được sức mạnh của toàn dân, có như vậy công
cuộc giải phóng dân tộc mới giành được thắng lợi.
Sự sáng tạo lớn đồng thời là đóng góp của Nguyễn Ái Quốc trên vấn
đề này chẳng những phát hiện ra vị trí, tầm quan trọng của sức mạnh dân
tộc mà còn đặt đúng vị trí vấn đề dân tộc theo lập trường vô sản. Từ đó,
xác định đúng động lực của cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân,
nông dân và các tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân; ngoài ra, “yếu tố dân tộc” còn bao gồm cả một số tư sản, địa chủ
phần nào có ý thức dân tộc, chưa lộ rõ chống đối, phản động.
7
Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang toàn dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản bao hàm hai yếu tố: thứ nhất, phải khơi động được
lực lượng toàn dân tham gia khởi nghĩa; thứ hai, cuộc khởi nghĩa nhất thiết
phải do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo. Sự kết hợp hai yếu tố đó đảm
bảo cho khởi nghĩa toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh khác hẳn về chất
so với khởi nghĩa dân tộc trước đây trong lịch sử Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh khởi nghĩa vũ trang là sự nghiệp của toàn dân,
của mọi người Việt Nam yêu nước. Toàn dân nổi dậy bằng tất cả các lực
lượng, lực lượng chính trị và lực lượng quân sự; bằng tất cả các hình thức
đấu tranh, đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự thì mới đủ sức quật
ngã kẻ thù.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, cùng với Cứu Quốc quân được
coi là những đơn vị chủ lực đầu tiên của Việt Nam Giải phóng quân.
Phương châm hoạt động của lực lượng vũ trang trong chuẩn bị khởi
nghĩa được Hồ Chí Minh xác định: chính trị trọng hơn quân sự, vũ trang
để tuyên truyền xây dựng cơ sở chính trị rộng khắp trong quần chúng
cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang là lực lượng nòng cốt
trong khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
Với quan điểm đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lãnh đạo toàn thể dân ta đứng lên khởi nghĩa và giành được chính
quyền từ tay bọn thực dân, đế quốc.
1.3. Khởi nghĩa vũ trang nổ ra muốn giành thắng lợi phải có điều kiện,
thời cơ
Vận dụng lý luận về khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào thực tiễn Việt Nam – một nước thuộc địa nửa phong kiến, đồng thời
đúc kết kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam từ khi Pháp
xâm lược, trong tác phẩm “Con đường giải phóng”, Hồ Chí Minh chỉ ra
những nguyên nhân chưa thành công của các cuộc khởi nghĩa trước đây:
không có tính rộng rãi, không có chính Đảng “rắn rỏi” lãnh đạo, khi thì
không có binh lính tham gia, khi thì chỉ có binh lính nổi dậy, không lập
được quân đội cách mạng mạnh mẽ… Hồ Chí Minh đi đến kết luận: Nói
8
chung các cuộc khởi nghĩa đó chưa đủ điều kiện khách quan và chủ quan.
Cũng trong tác phẩm đó Hồ Chí Minh đã nêu lên những điều kiện đảm bảo
cho cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra và giành được thắng lợi.
- Hồ Chí Minh chỉ ra 3 điều kiện khởi nghĩa vũ trang là:
+ Lực lượng đế quốc thống trị lung lay bối rối không đủ sức giữ địa
vị của chúng như trước nữa.
+ Có một cao trào cách mạng trong quảng đại quần chúng. Dân
chúng đói khổ, căm tức tới cực điểm, quyết hy sinh nổi dậy tranh đấu với đế
quốc đến cùng vì hiểu rằng, ngồi yên cũng chết.
+ Có một chính Đảng cách mạng lãnh đạo, chính đảng ấy lập được
một đoàn thể cách mạng kiên quyết, có một chính sách đúng, có một lực
lượng khá để lãnh đạo dân chúng khởi nghĩa và được dân chúng tin cậy.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh điều kiện khởi nghĩa vũ trang bao hàm
cả điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan. Khởi nghĩa vũ trang muốn
nổ ra giành thắng lợi nhất thiết phải có thời cơ, phải có sự chín muồi các
điều kiện đó. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: nay vận nước đang lên vì dân ta cực
khổ dưới hai vòng xiềng xích ngày càng ngả về phe cách mạng, tình hình
thế giới dần dần thuận lợi cho ta. Muốn chóng được độc lập, nhân dân ta
phải mau đoàn kết lại làm cách mạng, chưa thấy một dân tộc nào khoanh
tay ngồi chờ hạnh phúc từ trên trời rơi xuống bao giờ. Cũng chính vì lẽ đó
mà Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến việc tổ chức xây dựng lực lượng, sắm
sửa vũ khí, đón thời cơ và nắm bắt thời cơ để tiến hành tổng khởi nghĩa
giành chính quyền.
- Về thời cơ khởi nghĩa vũ trang.
Thời cơ khởi nghĩa vũ trang theo Hồ Chí Minh là thời điểm thuận lợi
nhất trong sự phát triển chín muồi cả ba điều kiện của khởi nghĩa vũ trang.
Cuối năm 1944 sau khi tình hình thế giới và trong nước có nhiều
thuận lợi, song thời cơ chưa đến, Hồ Chí Minh quyết định hoãn việc phát
động chiến tranh du kích liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng. Theo Người, cơ hội
cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa, phải
chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cách mạng để tiến hành kịp thời với sự
chuyển biến của tình hình thế giới.
9
Đúng như dự kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương
Đảng, đầu tháng 8/1945, Hồng quân Liên Xô thắng trận, quân Nhật đầu
hàng không điều kiện. Ở Việt Nam, chính quyền tay sai hoang mang cực
độ, tầng lớp trung gian ngả về phía cách mạng; Đảng và quần chúng đã
sẵn sàng.
Ngày 16 tháng 8, Người gửi “Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa” cho
quốc dân Việt Nam. Bức thư nhấn mạnh “Giờ quyết định cho vận mệnh dân
tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta tự giải phóng
cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ”1. Lệnh Tổng khởi nghĩa đã phát. Lời
hiệu triệu của lãnh tụ dân tộc đã gửi quốc dân. Toàn dân tộc nhất tề đứng
dậy. Bão táp cách mạng đã cuồn cuộn dâng cao. Ngày 19 tháng 8 khởi
nghĩa thành công ở Hà Nội. Ngày 23 chính quyền cách mạng đã được thiết
lập ở cố đô Huế. Ngày 25, ta giành chính quyền ở Sài Gòn. Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 đã thành công trong cả nước. Nhân dân Việt Nam
thực sự là người chủ đón tiếp quân Đồng minh vào Việt Nam giải giáp phát
xít Nhật và sẵn sàng đối phó với mọi thế lực thù địch trên tư thế của một
quốc gia độc lập, có chủ quyền.
1.4. Hình thái khởi nghĩa vũ trang đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên
tổng khởi nghĩa
Trong khởi nghĩa ở Việt Nam, việc xác định đúng hình thức khởi
nghĩa có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu xác định đúng về lý luận, sẽ tạo
tiền đề cho sự đa dạng, phong phú trong hoạt động thực tiễn mà biểu hiện là
sự kết hợp nhuần nhuyễn các hình thức đấu tranh trong quá trình khởi
nghĩa, nhất là ở giai đoạn cao trào.
Nghiên cứu lý luận về khởi nghĩa, nhất là tư tưởng của Lênin về khởi
nghĩa cục bộ của nông dân và binh lính trong tác phẩm “Chiến tranh du
kích”; vận dụng nghệ thuật quân sự biết thắng địch từng bước của chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta - một nước thuộc địa nửa phong
kiến; qua nghiên cứu khảo sát các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trên thế giới và
trong nước như: Công xã Pari (1871), cách mạng Tháng Mười Nga (1917)
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.554.
10
công xã Quảng Châu (1927), Hồ Chí Minh nêu lên một luận điểm sáng tạo,
độc đáo: khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa.
Trong tác phẩm “Con đường giải phóng”, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
Hình thái khởi nghĩa ở Việt Nam không giống như hình thái khởi nghĩa ở
các nước châu Âu. Nếu như ở các nước Âu, Mỹ khởi nghĩa thường bắt đầu
bằng tổng bãi công chính trị ở thành thị rồi chuyển tiếp tới bạo động vũ
trang thì ở Việt Nam, cuộc khởi nghĩa có thể nổ ra ở một vài địa phương rồi
lan dần khắp nước. Điểm xuất phát các cuộc khởi nghĩa địa phương có thể
là vùng núi, nơi tiện cho lối đánh du kích, tiện cho việc xây dựng căn cứ địa
cách mạng.
Hội nghị Trung ương Tám (5/1941) tập trung bàn về chuyển hướng
chiến lược, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc; đồng thời xác định
chính sách cụ thể sát hợp với tình hình và điều kiện lịch sử Việt Nam nhằm
thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân. Hội nghị dành thời
gian thảo luận về phong trào cách mạng của nhân dân ta từ đầu chiến tranh
thế giới lần thứ hai đến lúc đó, đặc biệt đã thảo luận, phân tích kỹ ba cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam kỳ và Đô Lương. Sau khi đã chỉ ra ưu điểm và
hạn chế, thiếu sót của các cuộc khởi nghĩa đó, Hội nghị kết luận: “Mặc dù
sự đàn áp của thực dân Pháp rất dữ dội mà dân ta vẫn không lùi. Những
cuộc khởi nghĩa lại gây ảnh hưởng rộng lớn toàn quốc. Đó là những tiếng
súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh vũ lực
của các dân tộc ở một nước Đông Dương”1.
Sau Hội nghị Trung ương Tám, tình hình thế giới có nhiều chuyển
biến phức tạp. Ngày 22 tháng 6 năm 1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô.
Tháng 12 năm 1941, quân Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng trên quần
đảo Ha Oai thuộc Mỹ. Sau khi quân Nhật tấn công vào các căn cứ quân sự
của Mỹ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp nhận định tình hình và ngày
21 tháng 12 năm 1941 ra thông báo về cuộc chiến tranh Thái Bình Dương
và trách nhiệm cần kíp của Đảng. Bản thông báo nhận định rằng: “Gây ra
chiến tranh Thái Bình Dương tức là Nhật tự sát”, đồng thời, lưu ý các cấp
uỷ rằng, xét trên phạm vi toàn quốc, các điều kiện khởi nghĩa vẫn chưa chín
muồi. Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của quần chúng cho đến lúc đó vẫn
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr.109.
11
chưa nổ ra đồng đều ở các địa bàn và địa phương trong cả nước. Trên thực
tế, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ ở địa bàn rừng núi và nông
thôn, còn ở thành thị vẫn còn hạn chế. Không thể có tổng khởi nghĩa nếu
địa bàn thành thị không xây dựng được phong trào mạnh. Trước tình hình
đó, căn cứ vào Nghị quyết Trung ương Tám và tư tưởng chỉ đạo của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ 25 đến 28 tháng
2 năm 1943 bàn về việc mở rộng Mặt trận thống nhất và xúc tiến việc chuẩn
bị khởi nghĩa. Hội nghị đề cập đến nội dung mới là xác định đúng mức tầm
quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, chú ý vận
động công nhân tham gia khởi nghĩa. Hội nghị nhận định: nếu không làm
tốt điều đó, thì cuộc khởi nghĩa khó nổ ra ở trung tâm đầu não của quân thù
và như vậy cuộc khởi nghĩa không có tính chất toàn quốc, không giải quyết
được vấn đề cơ sở vật chất cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Không chỉ quan tâm xây dựng lý luận về khởi nghĩa, xác định
hình thái khởi nghĩa đặc thù ở Việt Nam từ khởi nghĩa từng phần lên
tổng khởi nghĩa, Nguyễn Ái Quốc còn theo dõi, chỉ đạo thực tiễn kịp
thời. Người cũng rất quan tâm bồi dưỡng tri thức toàn diện cho đội ngũ
cán bộ cốt cán của Đảng. Bởi vậy, trong thời gian Người ra nước ngoài
công tác, các cán bộ cốt cán của Đảng vận dụng tư tưởng của Người vào
thực tiễn rất sáng tạo. Ngay đêm phát xít Nhật nổ súng đảo chính Pháp
(09/3/1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp, chủ trương đưa
quần chúng ra đấu tranh bằng nhiều hình thức, “tập dượt quần chúng
tiến tới khởi nghĩa”, quyết định cao trào kháng Nhật, cứu nước. Với chủ
trương đúng đắn này của Đảng, phong trào đấu tranh cách mạng của
quần chúng dâng lên mạnh mẽ.
Đến tháng 8 năm 1945, thực lực cách mạng Việt Nam đã phát
triển hùng hậu. Lúc này tình hình quốc tế đã chuyển biến có lợi cho
cách mạng. Thời cơ lịch sử xuất hiện. Từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945,
theo quyết định của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đảng họp Hội nghị toàn quốc
và ngay sau đó, Đại hội Quốc dân khai mạc, tán thành chủ trương Tổng
khởi nghĩa của Đảng. Sự kiện lịch sử này chứng tỏ rằng, tư tưởng khởi
nghĩa vũ trang của Hồ Chí Minh không những là hạt nhân trong đường
12
lối cách mạng của Đảng mà còn thâm nhập sâu rộng vào thực tiễn, được
quốc dân quyết tâm thực hiện với nghị lực và sức mạnh lớn lao trong
những ngày cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Quán triệt tư tưởng đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Đảng và nhân dân ta đã kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy
và tiến công để đi tới thắng lợi hoàn toàn năm 1975, giành độc lập dân tộc,
thống nhất nước nhà, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.5. Căn cứ địa có vai trò quan trọng đối với khởi nghĩa vũ trang
Chủ nghĩa Mác - Lênin và nhiều nhà lý luận quân sự trong lịch sử
cho rằng, hậu phương, căn cứ địa cách mạng có vai trò quan trọng đối với
tiền phương, với tiến trình và kết cục của khởi nghĩa vũ trang.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo những quan điểm trên vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ, không xây dựng được căn cứ
địa cách mạng thì không thể xây dựng được lực lượng vũ trang, nhất là
quân chủ lực trước khi giành chính quyền. Vấn đề căn cứ cách mạng
trong khởi nghĩa vũ trang cũng là một trong những vấn đề Hồ Chí Minh
thường quan tâm suy nghĩ.
Năm 1940, trong tác phẩm “Con đường giải phóng”, Hồ Chí Minh
cho rằng: đội du kích trong lúc hoạt động thì cần phải có căn cứ, địa
bàn. Đó là một vùng khá rộng, khá hiểm, dân chúng ở đây tổ chức vững
vàng, quân lính đế quốc khó vào được. Du kích dùng nơi đó làm nơi
đứng chân, tiến có thể đánh và phát triển, lui có thể đứng vững và giữ
gìn lực lượng.
Đến tháng 5 năm 1944, trong tác phẩm “Cách đánh du kích”, Hồ Chí
Minh lại tiếp tục chỉ rõ những yêu cầu đặc điểm của một căn cứ địa cách
mạng đó là: một vùng có địa thế hiểm yếu che chở, có dân chúng cảm tình
và ủng hộ cách mạng; ở đó phải thiết lập được chính quyền cách mạng, là
nơi đứng chân nghỉ ngơi, huấn luyện, phát triển lực lượng cách mạng. Hồ
Chí Minh nhấn mạnh “Có chính quyền cách mạng ở địa phương, có căn cứ
địa vững vàng, đội du kích nhờ đó mà phát triển lực lượng và hóa ra quân
chính quy”1.
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.504.
13
Khi còn ở nước ngoài Hồ Chí Minh đã nhận thấy tầm quan trọng của
vùng căn cứ Cao Bằng. Đây là nơi có tổ chức Đảng từ năm 1930, có điều
kiện liên lạc quốc tế nối liền với Thái Nguyên, Tuyên Quang và thông được
xuống phía Nam tiếp xúc toàn quốc, khi phát động khởi nghĩa vũ trang
thuận lợi có thể tiến, khó khăn có thể giữ. Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo
Đảng bộ địa phương xây dựng vùng Cao Bằng thành căn cứ địa cách mạng.
Các Hội cứu quốc phát triển nhanh. Đến cuối năm 1941 nhiều xã và một vài
tổng ở hai huyện Hà Quảng, Hòa An đã trở thành những căn cứ địa cách
mạng đầu tiên. Các địa phương có Hội cứu quốc đều tuyển lựa những người
hăng hái lập thành đội tự vệ cứu quốc làm nhiệm vụ bảo vệ quần chúng, bao
vây các phần tử phản động…
Với tư tưởng và chủ trương đúng đắn của Hồ Chí Minh, Đảng ta xây
dựng Cao - Bắc - Lạng trở thành căn cứ địa cách mạng - trung tâm đầu não
lãnh đạo khởi nghĩa đưa cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi khắp cả nước.
1.6. Khởi nghĩa nổ ra phải tiến công và kiên định tiến công
Tư tưởng tiến công là nét đặc sắc trong truyền thống quân sự giữ
nước và cứu nước của dân tộc ta. Mọi thắng lợi của nhân dân ta trong các
cuộc khởi nghĩa cũng như trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc
đều là thắng lợi của tư tưởng tiến công.
Lý luận quân sự Mác - Lênin đã chỉ rõ “Một khi đã bắt đầu khởi
nghĩa thì phải hết sức quyết tâm hành động và dù sao cũng tuyệt đối phải
chuyển sang tiến công, phòng ngự là con đường chết của vũ trang” 1. Kế
thừa truyền thống của dân tộc và kinh nghiệm của nhiều cuộc khởi nghĩa
trên thế giới, đồng thời vận dụng sáng tạo lý luận khởi nghĩa vũ trang của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ ra: khởi nghĩa vũ
trang đã nổ ra phải tiến công, kiên quyết và kiên định tiến công.
Trong tác phẩm “Con đường giải phóng” Hồ Chí Minh viết: khởi
nghĩa tung ra, ban chỉ huy phải kiên quyết tiến công. Do dự một chút là thất
bại, muốn khởi nghĩa thắng lợi chỉ có một cách là tiến công, kiên quyết tiến
công, tiến công mãi “chỉ có tiến, không có thoái”.
Theo Hồ Chí Minh, trước khi khởi nghĩa, tiến công phải chuẩn bị đầy
đủ thực lực, phải kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ
1
Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, Hà Nội, 1979, tập 34, tr.502.
14
trang, giữa hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang để đánh địch.
Người còn chỉ ra chiến thuật du kích: Du kích là một cách chiến tranh của
dân chúng dùng khí giới ít và kém chống lại các đế quốc khí giới tốt và
nhiều. Khởi nghĩa có thắng lợi hay không một phần là do du kích tổ chức có
vững vàng hay không, phát triển có rộng hay không.
Quán triệt tư tưởng tiến công, Hồ Chí Minh chỉ rõ, sau khi khởi nghĩa
thắng lợi phải thành lập ngay chính quyền cách mạng của nhân dân, một chính
quyền của dân và do dân. Chính quyền đó có nhiệm vụ thủ tiêu hoàn toàn bộ
máy nhà nước cũ, diệt trừ phản động. Ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân
dân, thành lập quân đội để tiếp tục chiến đấu và giữ gìn thành quả cách mạng.
Với quyết tâm “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết
giành cho được độc lập”, Hồ Chí Minh và Đảng ta nắm bắt thời cơ phát động
khởi nghĩa đúng lúc và kiên định tiến công, do đó cuộc tổng khởi nghĩa của
nhân dân ta đã giành thắng lợi trên khắp cả nước. Trong cách mạng giải phóng
dân tộc ở Miền Nam, với tư tưởng tiến công dám đánh và quyết đánh đến cùng
làm cho Mỹ cút, Ngụy nhào, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân
ta trên cả nước, đưa đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KHỞI NGHĨA VŨ TRANG
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG TA
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang đã góp phần quan
trọng vào thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang là sự kế thừa và phát
triển sáng tạo truyền thống quân sự Việt Nam. Truyền thống của một dân
tộc đất không rộng, người không đông, luôn phải chống lại các thế lực xâm
lược để giành và giữ quyền tự do, độc lập. Hệ thống các quan điểm đó còn
là sự vận dụng tài tình lý luận Mác – Lênin về bạo lực cách mạng, về khởi
nghĩa và chiến tranh cách mạng… vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Có
thể nói Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công hệ thống lý luận khoa học về
khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam. Trong đó tư tưởng về khởi nghĩa vũ trang
toàn dân, khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa là những nét nổi bật
về sự đóng góp của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác – Lênin.
15
Trong thực tiễn, tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang đã trở
thành cơ sở tư tưởng giúp Đảng ta xác định đúng đắn phương châm, cách
thức tiến hành khởi nghĩa, nghệ thuật tiến hành khởi nghĩa… góp phần vào
thắng lợi của khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đánh đổ ách thống trị của
thực dân, phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là hiện thực lịch sử sinh động
phản ánh sự sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang
mà nét nổi bật, là tư tưởng về khởi nghĩa vũ trang kết hợp với chiến tranh
cách mạng, là sự kết hợp giữa nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy.
Với sự vận dụng sáng tạo đó Đảng ta đã lãnh đạo cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc ở Miền Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn, thực hiện mục tiêu
thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời bình có quy luật và
đặc điểm riêng. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay trước âm mưu “diễn
biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, xoá
bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đòi hỏi phải quán triệt, vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động quân sự nói chung, trong khởi
nghĩa vũ trang nói riêng. Đó là những vấn đề về tổ chức xây dựng và sử
dụng sức mạnh toàn dân, chăm lo khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới
sự lãnh đạo của Đảng nhằm qui tụ và tập hợp sức mạnh của cả dân tộc. Kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đảm bảo cho thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân ta tiến hành. Đó là những yêu cầu
về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, an
ninh nhân dân; là yêu cầu phải phát huy tinh thần tư tưởng tiến công, nắm
bắt thời cơ thuận lợi, tránh nguy cơ, vượt qua mọi thử thách khó khăn, hoàn
thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn
dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
16
đội ngũ trí thức là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam;
là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2006, tr.40.
17
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, phản ánh quy luật khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền của quần chúng nhân dân ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là những vấn đề: giành
chính quyền bằng khởi nghĩa vũ trang, lực lượng tiến hành khởi nghĩa, thời cơ
khởi nghĩa, phương thức khởi nghĩa, căn cứ địa trong khởi nghĩa vũ trang và ý
chí tiến công trong khởi nghĩa…
Đây là di sản tư tưởng trong lĩnh vực hoạt động quân sự và đấu tranh vũ
trang mà Hồ Chí Minh để lại cho Đảng, cho dân tộc ta. Những quan điểm đó
có giá trị to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đồng thời tiếp tục
soi sáng cho sự nghiệp cách mạng ngày nay của nhân dân ta.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên
soạn giáo trình quốc gia các môn Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
2. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Tổng cục Chính trị, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007.
3. Giáo trình Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2002.
4. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, 2, 3, 4, 5, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội năm 2000.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2000.
6. V.I Lênin toàn tập, tập 34, Nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva, Hà Nội, 1979.