Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Luận án tiến sĩ quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.29 KB, 33 trang )

Luận án tiến sĩ quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp ở việt
nam
1 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta tạo điều kiện
thuận lợi cho các chủ thể kinh tế đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó số
lượng các DN ngày càng gia tăng. Phương thức quản lý thuế đối với các DN theo kiểu
truyền thống là thanh tra, kiểm tra lần lượt các DN thì sẽ không đủ nguồn lực và không
đảm bảo hiệu quả, hiệu lực của quản lý thuế. Tình hình này đòi hỏi phải có cơ chế,
phương pháp quản lý mới hiệu quả hơn. Trong những năm gần đây, ngành Thuế đã từng
bước áp dụng quản lý rủi ro vào hoạt động quản lý thuế. Qua một số năm áp dụng đã
bước đầu phát huy hiệu quả và được xác định là hướng đi đúng đắn trong quá trình hiện
đại hóa ngành Thuế. Trong quá trình nghiên cứu sửa đổi Luật Quản lý thuế, ngành Thuế
đã chủ động đề xuất Chính phủ trình Quốc hội xem xét, bổ sung qui định về áp dụng cơ
chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế. Quy định này đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp
thứ 4 năm 2012 thông qua tại Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế,
có hiệu lực từ ngày 1/7/2013. Quản lý rủi ro trong quản lý thuế đã được nhiều nước trên
thế giới áp dụng. Những vấn đề lý luận căn bản về quản lý rủi ro trong quản lý thuế cũng
đã được nghiên cứu, bổ sung và ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, với mỗi quốc gia, mỗi
nền kinh tế có những cơ chế, phương thức tổ chức quản lý xã hội, quản lý thuế khác nhau
thì cũng có những luận điểm riêng trong quản lý rủi ro về thuế. Tuy nhiên, khoa học là
con đường không có giới hạn cuối cùng. Khi thực tiễn tiếp tục thay đổi thì cần tiếp tục
nghiên cứu để bổ sung và phát triển cơ sở lý luận làm nền tảng cải tạo thực tiễn. Đặc biệt,
việc nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện cơ sở lý luận về vận dụng kỹ thuật quản lý rủi ro
vào hoạt động thanh tra thuế ở Việt Nam trong điều kiện thực tiễn Việt Nam mang cả ý
nghĩa lý luận và thực tiễn. Theo đó, việc tiếp tục nghiên cứu quản lý rủi ro trong hoạt
động thanh tra thuế hướng đến mục tiêu rút ra những giá trị cốt lõi phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và sự những điều chỉnh cần thiết trong quá trình vận dụng trong quản lý thuế ở



Việt Nam. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn của các nước về quản lý
rủi ro trong quản lý thuế nói chung và thanh tra thuế nói riêng để có được bài học thực
tiễn khi áp dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam giai đoạn hiện nay là rất cần thiết,
nhằm giảm bớt, rút ngắn quán trình thử nghiệm, góp phần hoàn thiện các giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý thuế trong thời gian tiếp theo. Quá trình tổ chức thực hiện chương
trình tổng thể cải cách hành chính nói chung, cải cách hành chính về thuế nói riêng đã có
nhiều chuyển biến tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế dễ dàng thực hiện
nghĩa vụ thuế của mình với Nhà nước. Đồng thời, cũng giúp cơ quan thuế quản lý được
tốt hơn, hạn chế tình trạng trốn thuế, gian lận thuế. Những năm qua ngành Thuế đã có
nhiều bước đột phá trong việc thí điểm áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế và trong
thanh tra thuế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và đã đạt được những thành công nhất định,
song việc áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế ở Việt Nam thời gian qua
vẫn còn những hạn chế nhất định cần khắc phục, đặc biệt trong bối cảnh giai đoạn đầu áp
dụng phương thức quản lý này ở Việt Nam. Bởi vậy, việc nghiên cứu về quản lý rủi ro
trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN là cần thiết khách quan cả về lý luận và thực
tiễn. Do việc nghiên cứu hoàn thiện quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế có tầm
quan trọng như vậy nên trong thời gian vừa qua ở Việt Nam đã có một số công trình
nghiên cứu về chủ đề này và đã có những kết quả nhất định. Tuy nhiên, tính đến nay chưa
có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và chuyên sâu về chủ
đề này ở Việt Nam. Xuất phát từ những lý do trên, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu luận
án tiến sĩ “Quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp ở Việt
Nam” có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các cách thức, phương pháp áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt
động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp.
2.2. Phạm vi nghiên cứu


Phạm vi nghiên cứu đối với người nộp thuế là DN do cơ quan thuế quản lý, không bao

gồm DN kê khai thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu do cơ quan Hải quan quản lý, DN hoạt
động theo Luật Hợp tác xã.
Luận án không nghiên cứu về thanh tra thuế theo đơn thư khiếu nại, tố cáo, không nghiên
cứu thanh tra lại (phúc tra) kết quả thanh tra và thanh tra hoàn thuế.
Giới hạn về không gian nghiên cứu của luận án là các DN do Cơ quan thuế tiến hành
thanh tra thuế.
Thời gian đánh giá thực trạng giới hạn trong giai đoạn 2009 – 2014.
Các giải pháp được kiến nghị cho cơ quan thanh tra thuế ở cấp Tổng cục, Cục Thuế,
không áp dụng cho Chi cục Thuế do chưa có bộ phận thanh tra.
Lộ trình áp dụng các giải pháp kiến nghị áp dụng từ năm 2015 đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2025.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung: Làm rõ cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm trong nước và
quốc tế về quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế. Đề xuất các giải pháp nhằm áp
dụng có hiệu quả quản lý rủi ro trong thanh tra thuế đối với các DN ở Việt Nam trong
thời gian tới.
Mục tiêu cụ thể:
Một là, đánh giá những kết quả nghiên cứu đã đạt được, những vấn đề chưa nghiên cứu
(khoảng hở) của các công trình đã công bố trước đây nhằm tìm ra hướng nghiên cứu
riêng của tác giả đối với quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN.
Hai là, hệ thống hóa, bổ sung và phát triển cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong thanh tra
thuế đối với DN.
Ba là, vận dụng phương pháp khảo sát đánh giá thực trạng áp dụng quản lý rủi ro trong
thanh tra thuế đối với DN của CQT ở Việt Nam, chỉ ra những mặt được và chưa được
cũng như những nguyên nhân chủ quan, khách quan của
4 những hạn chế liên quan đến áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế giai đoạn
2009-2014.


Bốn là, nêu những quan điểm về áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế

đối với DN thời gian tới và tìm ra các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu
quả áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN phù hợp với điều
kiện thực tế của Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp duy vật biện chứng được sử dụng để nhận thức bản chất của các hiện
tượng tự nhiên, kinh tế-xã hội.
Đối tượng nghiên cứu là quản lý rủi ro trong thanh tra thuế được đặt trong trạng thái
vận động phát triển và có các mối liên hệ chặt chẽ, biện chứng, cho phép phân tích
tổng hợp một cách khách quan các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài ảnh hưởng
đến quản lý rủi ro trong thanh tra thuế ở Việt Nam qua nhiều năm, cho chúng ta một
cách nhìn khoa học xuyên suốt nhằm đưa ra các giải pháp tổ chức thực hiện quản lý
rủi ro trong thanh tra thuế phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay.
Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng khi đặt đối tượng nghiên cứu là quản lý
rủi ro trong thanh tra thuế trong giai đoạn cụ thể (2009-2014), với những chính sách
chủ trương của Đảng trong từng giai đoạn, đứng trên quan điểm lịch sử để đánh giá,
đồng thời dựa vào những tiền đề đó được hình thành trong quá trình tổ chức thực hiện
quản lý rủi ro trong thanh tra thuế của ngành Thuế để tìm hiểu, kiểm chứng và đánh
giá quá trình phát triển trong tương lai.
Luận án còn sử dụng phương pháp thu thập và xử lý số liệu qua các tài liệu thứ cấp đã
được công bố qua các báo cáo tổng kết, niên giám thống kê, tạp chí khoa học có uy tín
và trên cả các website của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Phương
pháp này chủ yếu dùng để nghiên cứu Chương 3- Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt
động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2009 – 2014. Sau khi
thu thập số liệu, luận án sử dụng phương pháp thống kê, mô tả để tiến hành tổng hợp
các loại chỉ số tương đối, tuyệt đối và số bình quân. Trên cơ
sở đó, luận án mô tả quy mô và sự thay đổi của các số liệu về quản lý rủi ro trong thanh
tra thuế đối với các DN ở Việt Nam. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong



chương 3, 4 của Luận án. Với những tài liệu được thống kê, luận án sử dụng phương
pháp so sánh để phân tích các hiện tượng kinh tế, xã hội mang tính thống nhất giữa hiện
tượng này với hiện tượng khác, giữa kỳ báo cáo với kỳ gốc, giữa loại hình này với loại
hình khác. Phương pháp này được vận dụng chủ yếu ở chương 3 trong Luận án. Với
phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở chương 1, tác giả đã tổng hợp các công
trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến luận án về những mặt đã nghiên cứu và
khoảng hở cần tiếp tục nghiên cứu, để tổng hợp phân tích thực trạng quản lý rủi ro. Đồng
thời, tại chương 3 phương pháp này được dùng để phân tích, tổng hợp thực trạng quản lý
rủi ro trong thanh tra thuế, từ đó khái quát các kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế
của quản lý rủi ro thanh tra thuế thời gian qua. Phương pháp còn được tái sử dụng khi tác
giả đưa ra các yêu cầu, định hướng đối với quản lý rủi ro thanh tra thuế trong thời gian
tới ở chương 4.
Đóng góp vào thành công của đề tài, tác giả đã vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp
nghiên cứu tại bàn và khảo sát trực tiếp từ các cán bộ thanh tra trong ngành Thuế: số liệu
sơ cấp có được từ việc khảo sát bằng bảng hỏi với mẫu khảo sát gồm 350 công chức
thanh tra thuế tại 15 cơ quan thuế ở các miền (Bắc, Trung, Nam), ở các vùng (vùng núi,
đồng bằng, thành phố) được lựa chọn ngẫu nhiên, đã nhận về 281 phiếu khảo sát. Cách
thức khảo sát: phát trực tiếp phiếu câu hỏi khảo sát đến các cán bộ thuế. Nội dung khảo
sát: tính hiệu quả của thanh tra thuế theo cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế. Cách
thiết kế câu hỏi và bảng hỏi: Các câu hỏi thiết kế theo hai dạng: đóng (chọn một phương
án đúng) hoặc mở (có thể có nhiều đáp án đúng hoặc có cách trả lời khác). Cách thức
tổng hợp kết quả khảo sát: Bảng hỏi được thu thập theo kênh gửi qua hình thức thu trực
tiếp kết hợp với phỏng vấn trực tiếp các cán bộ thanh tra thuế. Số liệu xử lý tính toán với
phần mềm xử lý số điều tra xã hội học (Software package for social survey- SPSS version
16.0). Kết quả khảo sát thể hiện góc nhìn của cán bộ thanh tra thuế - là những người trực
tiếp tham gia vào quản lý rủi ro qua hoạt động thanh tra thuế.
1. Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận án cần phải trả lời được các câu hỏi chủ
yếu sau đây:



- Thế nào là quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế?
- Quy trình áp dụng quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra thuế như thế nào ?
- Các nước trên thế giới đã áp dụng quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra thuế như
thế nào? Những kinh nghiệm gì tốt và chưa tốt có thể rút ra cho quá trình vận dụng ở
Việt Nam?
- Đánh giá rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế dựa trên những tiêu chí nào? Kết quả
vận dụng quản lý rủi ro vào thanh tra thuế được đánh giá dựa trên những tiêu chí nào?
- Những nhân tố nào ảnh hưởng tới áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra
thuế đối với doanh nghiệp?
- Thực trạng áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế ở Việt Nam như
thế nào? Nguyên nhân của thực trạng đó?
- Để đáp ứng cải cách hiện đại hóa thanh tra thuế đến 2020 cần đưa ra yêu cầu gì khi
triển khai áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế?
- Các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động
thanh tra thuế trong thời gian tới? Điều kiện để thực hiện các giải pháp?
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận án được trình bày trong 4 Chương. Cụ thể
như sau:
- Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế.
- Chương 2: Những vấn đề lý luận về quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối
với doanh nghiệp.
- Chương 3: Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với doanh
nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2009 – 2014.
- Chương 4: Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với
doanh nghiệp ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG THANH TRA THUẾ
1.1.


CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC


Trong những năm gần đây, ở Việt Nam chưa có công trình khoa học cấp Bộ, luận án Tiến
sĩ nghiên cứu trực tiếp về quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế. Đã có một số
công trình khoa học của các nhà khoa học, nhà quản lý, nghiên cứu sinh và học viên cao
học nghiên cứu có liên quan với vấn đề này. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được, các công trình khoa học này cũng vẫn có những nội dung liên quan đến quản lý rủi
ro trong thanh tra thuế nhưng chưa được đề cập hoặc phân tích kỹ. Do vậy, trên cơ sở kế
thừa những công trình nghiên cứu đó, tác giả tiếp tục phát triển, bổ sung, cập nhật và có
hướng nghiên cứu mới trong Luận án của mình. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu
sau đây:
1.1.1. Luận án tiến sĩ kinh tế

Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Xuân Thành (2013) về đề tài "Nâng cao hiệu quả
thanh tra người nộp thuế ở Việt Nam giai đoạn hiện nay", Học viện Tài chính, Hà Nội.
Nhận thức được tầm quan trọng của quản lý rủi ro trong việc nâng cao hiệu quả thanh tra
thuế, phần lý luận tác giả phân tích tương đối cụ thể về phương pháp phân tích rủi ro:
phân tích dọc, ngang, phân tích tỷ suất các báo cáo tài chính, tờ khai thuế, lịch sử tuân thủ
của DN. Tác giả chỉ rõ những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp phân tích rủi ro.
Trong phần thực trạng về hiệu quả thanh tra thuế, tác giả đã đánh giá phân tích rủi ro chủ
yếu ở khâu lập kế hoạch thanh tra (là một khâu trong quy trình thanh tra). Tác giả nhận
định khá chính xác khi cho rằng "Việc phân tích rủi ro trong thanh tra thuế mới chỉ dừng
lại ở một số bước đánh giá cơ bản, chất lượng chưa cao” và nguyên nhân là do “ngành
Thuế chậm ban hành và chưa chọn lọc áp dụng hệ thống tiêu chí đánh giá, chấm điểm rủi
ro”.Các kết quả thanh tra thuế được tác giả đánh giá theo các tiêu chí hiệu quả là một
hướng nghiên cứu mới, tương đối logic. Đặc biệt, việc kiến nghị nâng cao chất lượng
cuộc thanh tra, cải tiến khâu lập kế hoạch thanh tra thông qua việc áp dụng một số tiêu
chí phân tích rủi ro, kiến nghị áp dụng hệ thống chấm điểm rủi ro tự động và phân loại

DN để có chiến lược xử lý rủi ro cụ thể là những giải pháp có tính khả thi của tác giả.
Những nội dung sẽ được cập nhật, bổ sung, phát triển thêm: Luận án đã tập trung vào
việc phân tích rủi ro để lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra, nhưng chưa có những
phân tích, giải pháp để hạn chế rủi ro trong quá trình tiến hành thanh tra tại DN, quá trình


ra kết luận thanh tra thuế đối với DN. Các giải pháp của tác giả nêu trong luận án chủ yếu
tập trung đề cập đến việc nâng cao hiệu quả thanh tra, chưa đi sâu đề xuất các giải pháp
trực tiếp nâng cao chất lượng quản lý rủi ro. Nâng cao chất lượng quản lý rủi ro cũng sẽ
góp phần làm nâng cao hiệu quả thanh tra thuế.
Ngoài luận án tiến sĩ của Nguyễn Xuân Thành nghiên cứu chuyên sâu về thanh tra thuế,
trong thời gian vừa qua ở Việt Nam có nhiều luận án tiến sĩ nghiên cứu về quản lý thuế
như: Luận án tiến sĩ của Lê Duy Thành (2007) về đề tài “Đổi mới quản lý thuế trong điều
kiện hội nhập kinh tế ở Việt Nam”; Luận án tiến sĩ của Hoàng Thị Thúy Ngọc (2010) với
đề tài “Quản lý thuế đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thùy Dương
(2011) với đề tài “Quản lý thuế ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”...
Khi nghiên cứu về quản lý thuế, các công trình trên có đề cập đến thanh tra thuế và có đề
cập ở những mức độ nhất định đến hiện đại hóa quản lý thuế nói chung và ứng dụng quản
lý rủi ro vào quản lý thuế nhưng do đó không phải là nội dung trọng tâm của những công
trình nghiên cứu này nên mức độ nghiên cứu về quản lý thuế rủi ro trong quản lý thuế nói
chung và thanh tra thuế nói riêng còn chưa sâu sắc, chưa toàn diện, chưa giải quyết thấu
đáo những vấn đề thực tiễn đặt ra.
1.1.2. Luận văn thạc sĩ kinh tế
(1) Nguyễn Thị Thu Vân (2009), Áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế,
Học viện Tài chính, Hà Nội. Những vấn đề đã được nghiên cứu: Ngoài lý luận chung về
rủi ro tiếp cận theo phương pháp truyền thống, tác giả đã nêu được một số vấn đề lý luận
về rủi ro về thuế, rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế, chỉ ra nguyên nhân gây ra rủi ro
trong thanh tra, kiểm tra thuế. Luận văn nêu rõ về quy trình, phương pháp phân tích, đánh
giá rủi ro. Tác giả luận văn đã tổng hợp được các kinh nghiệm quản lý rủi ro trong kiểm

tra, thanh tra thuế của Mỹ, Canada, Anh và rút ra bốn bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Tác giả đã đánh giá tương đối rõ về thực trạng quản lý rủi ro về thuế của toàn hệ thống
thuế, có phân chia theo cơ quan thuế các cấp: Tổng cục Thuế (cấp chiến lược), Cục Thuế
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp hoạch định triển khai) và ở Chi cục Thuế
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp chiến thuật). Tác giả đã phân tích ba nhóm


tiêu chí đánh giá rủi ro gồm: tiêu chí phân loại DN, tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro về
thuế và tiêu chí đánh giá mức độ rủi ro tờ khai thuế. Tác giả đã phân tích chi tiết khâu tổ
chức thực hiện quản lý rủi ro qua hai khâu chính là: lập kế hoạch thanh tra và thực hiện
thanh tra DN. Tác giả đánh giá hiệu quả, rút ra năm kết quả chủ yếu và bốn hạn chế, tồn
tại qua hai năm (2007-2008) áp dụng quản lý rủi ro trên phạm vi toàn hệ thống Thuế.
Phần giải pháp, tác giả tập trung khai thác giải pháp hoàn thiện kỹ thuật quản lý rủi ro
trong thanh tra, kiểm tra thuế, nhấn mạnh việc lựa chọn đúng DN cần thanh tra, kiểm tra,
xây dựng mô hình phân tích rủi ro theo loại hình DN, lĩnh vực kinh doanh và sắc thuế,
đây cũng được coi là thành công của luận văn. Giải pháp về xây dựng, cập nhật cơ sở dữ
liệu cũng được tác giả luận giải chi tiết. Đồng thời, tác giả đưa ra nhận định “để hoạt
động kiểm tra, thanh tra thuế đạt hiệu quả cao, cần phải tổ chức hoạt động kiểm tra, thanh
tra thuế theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp” là tương đối phù hợp. Những nội dung
sẽ được cập nhật, bổ sung, phát triển thêm: Do được làm tại thời điểm 2009 nên tác giả
phân tích đánh giá dựa trên các tiêu thức đánh giá rủi ro trong các năm 2004 – 2006. Năm
2009, Tổng cục Thuế đã ban hành hệ thống tiêu thức mới thay thế hệ thống cũ, theo đó
các tiêu thức lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra dựa trên quản lý rủi ro đã thay đổi, bổ sung
hoàn thiện tương đối nhiều. Tác giả sử dụng số liệu chung của toàn Ngành về kết quả
công tác thanh tra, kiểm tra thuế (năm 2007, 2008), nhưng số liệu để đánh giá rủi ro thì
chỉ dựa trên số liệu kiểm tra, thanh tra thuế của Vụ Thanh tra - Tổng cục Thuế. Vì vậy,
chưa thấy được tổng thể thực trạng kiểm tra, thanh tra thuế theo quản lý rủi ro của các
CQT địa phương (các Cục Thuế).
(2) Nguyễn Thu Thủy (2010), Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra thuế
trên cơ sở áp dụng kỹ thuật phân tích rủi ro tại Chi cục thuế Cầu Giấy, Học viện Tài

chính, Hà Nội. Các lý luận về rủi ro trình bày trong luận văn của tác giả Nguyễn Thu
Thủy là gần tương đồng với các luận văn nghiên cứu về rủi ro trong thanh tra, kiểm
tra trước đó. Tác giả đã phân tích rõ sự cần thiết phải áp dụng kỹ thuật phân tích rủi ro
trong kiểm tra thuế để nâng cao hiệu quả của kiểm tra thuế. Các lý luận về rủi ro của
tác giả tương đối đầy đủ, đã đưa ra được một số tiêu chí đánh giá rủi ro và xếp hạng
rủi ro theo chấm điểm DN. Thực trạng quản lý rủi ro được tác giả trình bày qua việc


tổ chức bộ máy, xây dựng hệ thống thông tin về DN, quy trình kiểm tra. Điểm thành
công của tác giả ở phần này thể hiện ở chỗ luận văn đã nêu lên được một hệ thống các
tiêu chí phân loại rủi ro về thuế của DN, có lấy ví dụ tại một DN cụ thể để minh
chứng cho kết quả phân tích rủi ro từ khi lập kế hoạch đến khi tổ chức thực hiện và so
sánh kết quả thực hiện với dấu hiệu rủi ro nghi ngờ trước đó. Các giải pháp trực tiếp
liên quan đến quản lý rủi ro: Tác giả nhấn mạnh việc hoàn thiện kỹ thuật phân tích rủi
ro là một giải pháp quan trọng để công tác kiểm tra thuế có hiệu quả, đồng thời cần
tiếp tục xây dựng, cập nhật cơ sở dữ liệu về DN. Những nội dung sẽ được cập nhật,
bổ sung, phát triển thêm:
- Về đối tượng nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào phân tích rủi ro trong kiểm tra
thuế, rủi ro trong thanh tra thuế chưa được đề cập, phân tích.
- Về phạm vi nghiên cứu: không gian số liệu thu thập, nghiên cứu trong phạm vi Chi cục
Thuế quận Cầu Giấy thuộc Cục Thuế thành phố Hà Nội nên chưa cho người đọc cái nhìn
toàn cảnh về bức tranh quản lý rủi ro của toàn Cục Thuế thành phố Hà Nội cũng như toàn
hệ thống thuế. Số liệu của thời kỳ phân tích là các năm 2008-2009. Luận văn tập trung
phân tích rủi ro trong hai sắc thuế: thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập DN
(TNDN), chưa đề cập đến các sắc thuế khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhà thầu,
thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và chưa gắn với các tiêu chí phân loại rủi ro đã đề cập.
- Luận văn chưa tập trung làm rõ là việc xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả thanh tra
thuế: tác giả chưa nêu được cách tính, ý nghĩa, điều kiện áp dụng của các tiêu chí rủi ro
đề xuất.
(3) Vũ Thị Đến (2011), Công tác kiểm tra, thanh tra thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro

trong điều kiện tự tính, tự khai, tự nộp thuế ở Việt Nam, Học viện Tài chính, Hà Nội.
Luận văn đã góp phần làm rõ lý luận về hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế theo kỹ thuật
quản lý rủi ro ở Việt Nam. Luận văn đã làm nổi bật sự cần thiết phải áp dụng kỹ thuật
quản lý rủi ro trong kiểm tra, thanh tra thuế. Luận văn đã nêu được một số kinh nghiệm
phong phú về kiểm tra, thanh tra thuế theo rủi ro tại một số nước như: Pháp, Nhật, Đài
Loan làm bài học để rút ra cho CQT Việt Nam. Luận văn đánh giá những kết quả đạt
được từ khi triển khai kiểm tra, thanh tra thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro từ năm 2007 -


2011 trên các mặt: Tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ, cơ sở dữ liệu, tiêu chí đánh giá rủi
ro. Các giải pháp đưa ra nhấn mạnh ở một số điểm cơ bản: xây dựng cập nhật cơ sở dữ
liệu về DN, hoàn thiện kỹ thuật quản lý rủi ro. Đặc biệt, ở phần giải pháp tác giả có đề
cập đến việc xây dựng một số tiêu chí đánh giá hiệu quả kiểm tra, thanh tra thuế. Những
nội dung sẽ được cập nhật, bổ sung, phát triển thêm:
- Những số liệu, tư liệu đánh giá kết quả đạt được của công tác thanh tra, kiểm tra thuế
theo kỹ thuật quản lý rủi ro từ giai đoạn 2007 - 2011 tương đối sơ sài, chung chung mà
chưa gắn với kết quả kiểm tra, thanh tra cụ thể toàn ngành Thuế nên không cho thấy rõ
được sự khác biệt và hiệu quả mang lại trước và sau khi áp dụng quản lý rủi ro trong
thanh tra, kiểm tra thuế thời gian qua.
- Nhìn chung các giải pháp nêu trong luận văn chưa mới, chưa có nhiều sự khác biệt
mang tính đột phá để nâng cao năng lực, hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro. Chưa phân tích
rõ các tiêu thức động và tiêu thức tĩnh để đánh giá rủi ro gồm những tiêu thức cụ thể nào,
việc gán trọng số cho từng tiêu thức cũng chưa được tác giả đề cập.
(4) Trần Tuấn Anh (2013), Ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra,
kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp tại Cục Thuế Hà Nội, Học viện Tài chính, Hà
Nội. Thành công của luận văn là tác giả đã làm rõ được cách thức vận dụng kỹ thuật quản
lý rủi ro vào hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế đối với DN, trong đó nhấn mạnh hai yếu
tố cơ bản cần thiết để tiến hành lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra có hiệu quả, đó là:
sẵn có các dữ liệu chính xác, toàn diện và kịp thời và đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra
có kiến thức, kỹ năng phù hợp. Luận văn phân tích khá bao quát về các nhân tố (chủ quan

và khách quan) ảnh hưởng đến việc vận dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm
tra thuế đối với DN. Luận văn đã đánh giá được nổi bật thực trạng ứng dụng kỹ thuật
quản lý rủi ro qua khâu kiểm tra hồ sơ khai thuế tại CQT và tại trụ sở DN. Những nội
dung sẽ được cập nhật, bổ sung, phát triển thêm: - Phạm vi nghiên cứu của Luận văn chỉ
giới hạn ở Cục thuế thành phố Hà Nội nên chưa cho người đọc sự so sánh trong tương
quan quản lý rủi ro thanh tra, kiểm tra với các CQT khác, đồng thời tác giả cũng chưa so
sánh để thấy được sự tương quan giữa kết quả thanh tra, kiểm tra theo rủi ro của toàn
Ngành với kết quả của Cục Thuế thành phố Hà Nội. - Tại thời điểm nghiên cứu luận văn,


cơ quan thuế mới ban hành được hơn 10 tiêu chí, đến nay đã ban hành trên 20 tiêu chí do
vậy cần nghiên cứu, phân tích bổ sung thêm. Trong các giải pháp đề xuất, tác giả chưa có
giải pháp rõ ràng nhằm hoàn thiện áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm
tra thuế:Làm sao để lựa chọn đúng DN cần thanh tra – là mục tiêu quan trọng nhất trong
áp dụng quản lý rủi ro.
1.1.3. Đề tài và bài báo khoa học
(1) Cục Thuế thành phố Hà Nội (2013), Giải pháp để triển khai phương pháp thanh tra,
kiểm tra theo kỹ thuật quản lý rủi ro, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Hà Nội.
Phần lý luận, nhóm tác giả của Cục Thuế thành phố Hà Nội đã sưu tầm được kinh
nghiệm rất hay của thế giới trong việc áp dụng mô hình tuân thủ trong hoạt động thanh
tra, kiểm tra thuế đã được áp dụng thành công để quản lý người nộp thuế ở một số quốc
gia như Úc, Newzealand và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Kinh nghiệm
về thiết lập khung pháp lý đối với hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế theo kỹ thuật quản lý
rủi ro, kinh nghiệm về tổ chức và quản lý hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế theo kỹ thuật
quản lý rủi ro, kinh nghiệm lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế theo kỹ thuật quản lý rủi
ro cũng được nhóm tác giả khai thác, phân tích cặn kẽ Phần giải pháp, nhóm tác giả đã
đưa ra các khái niệm tương đối mới: phân loại tiêu chí đánh giá rủi ro theo tiêu chí "tĩnh"
và tiêu chí "động". Mối quan hệ giữa công tác thanh tra, kiểm tra được thống nhất theo
quan điểm: “Kiểm tra là nền tảng, là gốc, thanh tra là mũi nhọn của công tác QLT trong
cơ chế tự khai tự nộp”. Đồng thời, các giải pháp đổi mới các bước phân tích rủi ro của

đoàn thanh tra khi triển khai thực hiện kế hoạch thanh tra là tương đối phù hợp với tình
hình thực tế thanh tra, kiểm tra tại Cục Thuế thành phố Hà Nội. Đề tài được nhóm tác giả
điều tra, khảo sát chọn mẫu nhằm đánh giá tổng quan về công tác thanh tra, kiểm tra thuế
tại Cục Thuế thành phố Hà Nội tại 523 DN và 03 phòng thanh tra thuế, 03 phòng kiểm
tra thuế nên có tính thực tế cao. Phần lý luận, nhóm tác giả đề tài ít đưa ra các quan điểm
riêng của mình mà chủ yếu sưu tầm kinh nghiệm quản lý hoạt động thanh tra thuế của các
nước. Các tiêu chí rủi ro cũng không được nêu cụ thể mà chỉ nêu chung chung là tiêu chí
tĩnh và tiêu chí động, nên người đọc không thể hiểu được nội hàm cách tính, ý nghĩa, cho
điểm như thế nào.Phần thực trạng, đề tài còn nặng về đưa số liệu dưới dạng báo cáo (số


thu) hơn là phân tích kết quả thanh tra, kiểm tra theo các góc độ của quản lý rủi ro. Còn
thiếu nhiều chỉ tiêu để phân tích kết quả thanh tra theo quản lý rủi ro và hoàn toàn không
đánh giá kết quả sử dụng các tiêu chí này. Các giải pháp nhóm tác giả đưa ra ít tập trung
vào các giải pháp trực tiếp nâng cao chất lượng quản lý rủi ro mà là các giải pháp đổi mới
hoạt động kiểm tra, thanh tra. Các giải pháp đề xuất chưa có những luận giải chặt chẽ,
biện chứng.
(2) PGS, TS Lê Xuân Trường và PGS, TS Nguyễn Thị Liên (2013), Hoàn thiện hệ thống
chỉ tiêu sử dụng trong thanh tra thuế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện, Học viện
Tài chính, Hà Nội. Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thanh tra thuế và hệ
thống chỉ tiêu sử dụng trong thanh tra thuế như: khái niệm, các nội dung và phương pháp
thanh tra thuế; khái niệm và phân loại chỉ tiêu sử dụng trong thanh tra thuế… Đề tài đã
đánh giá thực trạng hệ thống chỉ tiêu sử dụng trong thanh tra thuế, bao gồm hai nhóm chỉ
tiêu là các chỉ tiêu sử dụng trong thanh tra người nộp thuế và các chỉ tiêu đánh giá hoạt
động thanh tra thuế của CQT. Đề tài cũng đánh giá việc áp dụng các chỉ tiêu này để đánh
giá hoạt động thanh tra thuế của Việt Nam thời gian qua. Từ đó, chỉ ra những kết quả đạt
được và những hạn chế của hệ thống chỉ tiêu sử dụng trong thanh tra thuế ở Việt Nam.
Tác giả đã đề xuất bốn nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu sử dụng trong thanh
tra thuế ở Việt Nam cho hai nhóm chỉ tiêu là các chỉ tiêu sử dụng trong thanh tra người
nộp thuế và các chỉ tiêu đánh giá hoạt động thanh tra thuế của CQT. Với mỗi nhóm chỉ

tiêu này, đề tài đề xuất giải pháp hoàn thiện những chỉ tiêu sẵn có và đề xuất bổ sung một
số chỉ tiêu mới. Mặc dù nhóm tác giả đã nghiên cứu nghiêm túc và công phu, song do
giới hạn về thời gian và cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu, vẫn còn những vấn đề thuộc
chủ đề nghiên cứu của đề tài chưa được nghiên cứu thấu đáo, cần được nghiên cứu làm rõ
thêm như: đánh giá việc áp dụng toàn diện hệ thống chỉ tiêu cho các CQT ở Việt Nam;
xác định tiêu chuẩn cần có của chỉ tiêu…Nhóm tác giả đã nghiên cứu, phân tích kỹ 21
tiêu chí rủi ro tĩnh và 31 tiêu chí rủi ro động, tuy vậy ý nghĩa, điều kiện áp dụng của tiêu
chí cần được nghiên cứu bổ sung thêm. Các giải pháp đã tập trung vào các tiêu chí đánh
giá hiệu quả, chất lượng công tác thanh tra thuế của CQT, nhưng vẫn cần có thêm những
đầu tư vào đề xuất các tiêu chí rủi ro của DN khi lập kế hoạch thanh tra - khâu quan trọng


trong quản lý rủi ro về thuế khi thanh tra DN. Phần điều kiện áp dụng hệ thống các chỉ
tiêu đề xuất riêng cho từng loại DN, từng CQT (Cục Thuế) cụ thể cũng cần có nghiên cứu
thêm, vì đặc điểm của DN ở từng ngành nghề, đặc điểm của CQT ở từng địa bàn là khác
nhau.
(3) Bùi Thái Quang (2013), Phương pháp quản lý rủi ro, đảm bảo nguồn thu ngân sách
bền vững, Tạp chí Tài chính, Số 11 (589) – Tr 49. Tác giả đã sưu tầm được kinh nghiệm
phong phú của các cơ quan quản lý thuế trên thế giới (Hoa Kỳ, Châu Âu) về áp dụng
quản lý rủi ro trong lĩnh vực thuế nhằm nâng cao quản lý tuân thủ để giảm thiểu những
trường hợp vi phạm về thuế, nâng cao quản lý tuân thủ NNT. Tác giả bài viết chỉ ra rằng
"Quản lý rủi ro trong quản lý thuế sẽ làm tăng khả năng đảm bảo nguồn thu không bị thất
thoát, mà được quản lý tốt và giảm khả năng thất thu", đây là một nhận định tương đối
hợp lý. Tác giả cũng chỉ ra một số bất cập trong công tác phối hợp giữa Tổng cục Thuế
và Tổng cục Hải quan thời gian qua chưa chặt chẽ là một trong những nguyên nhân làm
giảm hiệu quả quản lý rủi ro đối tượng nộp thuế. Do là một bài báo khoa học, bị giới hạn
về hàm lượng nghiên cứu nên tác giả mới chỉ cho người đọc biết những nét sơ lược về
tầm quan trọng của quản lý rủi ro trong chống thất thu NSNN. Tác giả sử dụng các trích
dẫn trong Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế năm 2012 mà ít có các bình luận, lý
giải, dẫn dắt người đọc hiểu được nội dung và cách thức áp dụng quản lý rủi ro từ luật

vào trong thực tiễn như thế nào. Bài viết tập trung vào phần biện giải cơ sở để CQT và cơ
quan hải quan tiến hành thanh tra theo rủi ro, nhưng chưa có được các biện pháp làm thế
nào để quản lý tốt rủi ro trong thanh tra thuế nhằm tăng thu ngân sách bền vững. Mặt
khác, các kinh nghiệm chia sẻ từ các nước lại chưa nhiều nên chưa có những trải nghiệm,
phân tích những ưu điểm từ việc vận dụng kinh nghiệm quản lý rủi ro tiên tiến của thế
giới để áp dụng vào Việt Nam. Qua nghiên cứu, phân tích các công trình nghiên cứu nêu
trên cho thấy, điểm hạn chế chung của các công trình là chưa có được sự liên kết phân
tích kết quả áp dụng quản lý rủi ro trong kiểm tra, thanh tra thuế của toàn hệ thống thuế
với số liệu cụ thể của một số địa phương để so sánh. Ngược lại, các luận văn viết về kiểm
tra, thanh tra thuế của các CQT địa phương lại không so sánh với số liệu bình quân chung
về kết quả kiểm tra, thanh tra của toàn ngành Thuế. Một số tiêu chí đánh giá rủi ro mà các


công trình đã công bố đến nay đã không còn tính cập nhật. Hiện nay, các tiêu chí lập kế
hoạch kiểm tra, thanh tra dựa trên rủi ro đã được ngành Thuế thay đổi, bổ sung hoàn
thiện tương đối nhiều. Luận án sẽ kế thừa, vận dụng một số nền tảng lý luận và thực tiễn
về quản lý rủi ro đã được đề cập ở một số công trình khoa học đã công bố ở Việt Nam
thời gian qua để đi sâu nghiên cứu, tìm tòi hướng đi riêng của mình.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI
Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về quản lý rủi ro và một số công trình
nghiên cứu về quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế. Tiêu biểu là các công trình
nghiên cứu sau:
(1) Quĩ Tiền tệ quốc tế (IMF) (2005), Thanh tra đối tượng nộp thuế lớn tại Châu Á –
Thái Bình Dương, Tài liệu hội thảo khoa học. Năm 2005 Quĩ Tiền tệ thế giới (IMF) tổ
chức Hội thảo "Thanh tra đối tượng nộp thuế lớn tại Châu Á – Thái Bình Dương", 17
nước đang phát triển trong khu vực tham gia, trong đó có Việt Nam. Nội dung Hội thảo
đã thảo luận về chuẩn mực thanh tra, qui trình thực hiện thanh tra, nhận diện và quản lý
rủi ro về thuế. Tuy nhiên, các báo cáo hội thảo cũng chỉ mang tính trao đổi kinh nghiệm
thực tiễn và khuyến nghị xem xét, áp dụng phù hợp với đặc điểm mỗi quốc gia.
(2) Ủy ban châu Âu (EC) (2006), Hướng dẫn về quản lý rủi ro trong quản lý thuế

(Nguyên bản tiếng Anh: Risk management guide for tax administration). Tài liệu này giới
thiệu khuôn khổ lý thuyết và thực tiễn về quản lý thuế rủi ro trong quản lý thuế với những
vấn đề cơ bản như: Giới thiệu chung về rủi ro và quản lý thuế rủi ro; quy trình quản lý rủi
ro; các nguyên tắc quản lý rủi ro; phân tích rủi ro; xếp hạng rủi ro; đánh giá rủi ro; sử
dụng công nghệ thông tin và các kỹ thuật tính toán trong quản lý rủi ro; thực tiễn quản lý
rủi ro trong quản lý thuế ở một số nước châu Âu như Anh, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Ý, Hy
Lạp, Ba Lan. Riêng trường hợp của Hy Lạp, tài liệu này tập trung giới thiệu về quản lý
rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế.
(3) Margaret Cotton (2006), Lựa chọn đối tượng thanh tra thuế (Nguyên bản tiếng Anh:
Sellecting cases for auditing). Nghiên cứu này giới thiệu phương pháp lựa chọn đối tượng
thanh tra thuế dựa trên mô hình tuân thủ (ATO) và kỹ thuật quản lý rủi ro. Nghiên cứu
này lấy ví dụ thực tiễn tại Newzealand để minh chứng cho các đánh giá, nhận định. Theo


đó, nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa của ứng dụng kỹ thuật quản lý
rủi ro để lựa chọn đối tượng thanh tra thuế. Nghiên cứu cũng nêu những công việc cụ thể
gắn với quy trình thu thập, xử lý thông tin và ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro để lựa
chọn đối tượng thanh tra thuế.
(4) Ủy ban châu Âu (EC) (2010), Hướng dẫn về quản lý rủi ro tuân thủ trong quản lý thuế
(nguyên bản tiếng Anh: Compliance risk management guide for tax adimistration). Tài
liệu này giới thiệu khuôn khổ lý thuyết về mô hình quản lý rủi ro tuân thủ trong quản lý
thuế với những vấn đề cơ bản như: môi trường quản lý rủi ro tuân thủ của người nộp
thuế; các vấn đề cơ bản trong quy trình quản lý rủi ro như: nhận diện rủi ro, phân tích rủi
ro, đánh giá rủi ro và xử lý rủi ro... Đặc biệt, tài liệu này đã giới thiệu kinh nghiệm áp
dụng quản lý rủi ro vào hoạt động quản lý thuế và thanh tra thuế ở trên 20 nước trên thế
giới với những mô tả kỹ lưỡng về cách thức áp dụng, những kết quả đạt được và những
vấn đề cốt yếu rút ra từ những trường hợp thực tiễn đó.
(5) Muwer Sultan Khwaja, Rajul Awasthi and Jan Loeprick (2011), Thanh tra trên cơ sở
quản lý rủi ro: Phương pháp tiếp cận và kinh nghiệm một số nước (Nguyên bản tiếng
Anh: risk-based audit: Approaches and countries experiences). Đây là cuốn sách chuyên

khảo công phu chuyên sâu về ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra
thuế. Cuốn sách này có thể coi là cuốn cẩm nang về kỹ thuật ứng dụng quản lý rủi ro vào
hoạt động thanh tra thuế. Cuốn sách cung cấp khuôn khổ lý thuyết khá đầy đủ và toàn
diện về ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra thuế, từ những khái
niệm cơ bản đến các kỹ thuật phân tích, các nội dung và quy trình cụ thể để ứng dụng
quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra thuế. Đặc biệt, những điều quan trọng nhất được
rút ra từ cuốn sách rất hữu ích cho việc nghiên cứu ứng dụng quản lý rủi ro vào hoạt động
thanh tra thuế là:
(i) Để nâng cao hiệu quả ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro thì thông tin về người nộp thuế
là yếu tố quan trọng hàng đầu, để có được thông tin phải dựa vào thông tin từ bên thứ ba
trên cơ sở đánh giá sự phù hợp với cơ sở dữ liệu kê khai đáng tin cậy của người nộp thuế;
(ii) Việc thanh tra thuế nhất thiết phải dựa trên cơ sở phân tích rủi ro thì mới đạt hiệu quả
cao;


(iii) Muốn ứng dụng quản lý rủi ro vào thanh tra thuế hiệu quả thì phải chuẩn hóa các
chuẩn mực và yêu cầu đối với kế toán doanh nghiệp; (iv) Cần tạo lập hành lang pháp lý
toàn diện để áp dụng thống nhất các quy trình và thủ tục thanh tra thuế; (v) Cần đảm bảo
cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác cho việc ra các quyết định quản lý thuế và
hoàn thiện chính sách thuế.
(6) ECOPA (2010), Thông lệ quốc tế về lựa chọn trường hợp thanh tra dựa trên rủi ro,
Tài liệu quốc tế. Tài liệu tập trung vào các kỹ thuật phân tích sử dụng trong các chiến
lược thanh tra dựa trên rủi ro, đồng thời nêu lên các thách thức chính khi sử dụng các kỹ
thuật, đặc biệt ở các nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển. Tài liệu chỉ ra rằng lựa
chọn thanh tra dựa trên rủi ro phụ thuộc rất lớn vào việc tin học hóa và công nghệ thông
tin để xây dựng và quản lý các các dữ liệu lớn chứa các thông tin liên quan đến DN. Việc
sử dụng công nghệ thông tin là điều kiện tiên quyết để tránh khó khăn trong việc thiết kế
hệ thống thanh tra dựa trên rủi ro: để xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin DN thì đòi hỏi phải
xác định rõ các mục tiêu và tiêu chí lựa chọn thanh tra, để xác định và lựa chọn những
DN có rủi ro cao thì phải phân tán điểm rủi ro thông qua việc quản lý thuế và nạp vào

quy trình ra quyết định lựa chọn trường hợp thanh tra.Một điểm đáng lưu ý là tài liệu đưa
ra các mô hình lựa chọn trường hợp thanh tra theo công nghệ thông tin, sử dụng các tham
số, hàm hồi quy tuyến tính phức tạp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
để tính điểm rủi ro nên rất khó áp dụng cho điều kiện công nghệ thông tin còn chưa phát
triển và trình độ tin học hạn chế của cán bộ thanh tra thuế Việt Nam hiện nay. Hệ thống
cơ sở dữ liệu của thanh tra thuế hiện nay còn nghèo nàn nên việc tính toán ra các tham số,
điểm rủi ro theo thông lệ quốc tế sẽ chưa thể cho kết quả chính xác như mong muốn.
1.3. SỰ KHÁC BIỆT CỦA LUẬN ÁN SO VỚI CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Cho đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nghiên cứu nào ở cấp độ tiến sĩ liên quan
trực tiếp đến áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế. Các công trình nghiên cứu đã
công bố có liên quan đến quản lý rủi ro trong thanh tra thuế chủ yếu ở cấp độ thạc sĩ và
thường nghiên cứu gộp chung cả quản lý rủi ro trong kiểm tra thuế và quản lý rủi ro trong
thanh tra thuế. Thanh tra thuế với vai trò hết sức quan trọng đối với quản lý thuế, cần
được nghiên cứu riêng để phát huy hết được khả năng vốn có của nó. Tác giả của Luận


án nhận thấy, việc nghiên cứu các cơ chế và phương thức áp dụng quản lý rủi ro là một
trong những giải pháp quyết định để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
thanh tra thuế, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính thuế những năm tới. Qua nội dung
tóm tắt các công trình đã nghiên cứu về vấn đề này cho thấy, đến nay chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện các vấn đề lý luận về quản lý rủi ro trong
thanh tra thuế. Một số vấn đề khá quan trọng liên quan đến quản lý rủi ro trong thanh tra
vẫn chưa có câu trả lời đầy đủ, đó là các vấn đề: Xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về DN
phục vụ phân tích rủi ro, chuẩn hóa các tiêu chí phân loại rủi ro về thuế của DN, ứng
dụng phần mềm phân tích rủi ro và chấm điểm rủi ro tự động, rà soát kết quả phân tích
rủi ro so với thực tế thanh tra DN, mô hình tổ chức thanh tra thuế theo quản lý rủi ro, các
điều kiện về pháp lý cho việc hoàn thiện áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra
thuế đối với DN.
Luận án là công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về quản lý rủi ro trong hoạt động
thanh tra thuế đối với các DN ở Việt Nam với hàm lượng nghiên cứu lớn. Một khác biệt

nữa là Luận án nghiên cứu trong phạm vi kết quả thanh tra các DN trong toàn ngành
Thuế và có so sánh số trung bình toàn ngành với một số Cục Thuế điển hình. Thời gian
đánh giá thực trạng là giai đoạn 2009 – 2014 không trùng lắp với các công trình đã công
bố trước. Lộ trình áp dụng các giải pháp kiến nghị cho giai đoạn cụ thể từ 2015 – 2020 và
tầm nhìn đến năm 2025. Luận án khác các nghiên cứu khác là phần lý luận phân tích khái
quát, toàn diện, riêng biệt về quản lý rủi ro trong thanh tra thuế, bổ sung một số vấn đề lý
luận mới về quản lý rủi ro trong thanh tra thuế, nêu cách tính cụ thể, ý nghĩa của các chỉ
tiêu đánh giá rủi ro trong thanh tra thuế đối với DN về mặt định lượng và định tính. Đặc
biệt, luận án phát triển, bổ sung lý luận về áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh
tra thuế đối với DN thể hiện ở việc giới thiệu các tiêu chí đánh giá kết quả áp dụng quản
lý rủi ro vào hoạt động thanh tra thuế đối với DN và phân tích rõ các nhân tố ảnh hưởng
đến quản lý rủi ro trong thanh tra thuế. Các tiêu chí đánh giá kết quả áp dụng quản lý rủi
ro vào hoạt động thanh tra thuế đối với DN là cơ sở để đánh giá thực trạng vấn đề cần
nghiên cứu của đề tài. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong thanh tra thuế là
mấu chốt để tác giả đề ra các giải pháp áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế ở nước


ta thời gian tới. Khác các luận án và công trình khoa học đã công bố trước, luận án đánh
giá một cách có hệ thống về thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế ở
Việt Nam theo các chỉ tiêu rủi ro (định lượng và định tính) đã đề cập ở phần lý luận, dùng
phương pháp khảo sát định lượng để đánh giá, phân tích các ưu điểm và hạn chế của quản
lý rủi ro, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế liên quan đến quản lý rủi ro trong
hoạt động thanh tra thuế. Luận án đề xuất các giải pháp trực tiếp, thúc đẩy, nâng cao hiệu
quả áp dụng quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra thuế thông qua tác động, phát huy các
nhân tố tích cực, hạn chế các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực. Các giải pháp nhấn mạnh đến
giải pháp nội lực từ bộ phận thanh tra của CQT, coi việc nâng cao chất lượng quản lý rủi
ro cần phải cải cách từ chính yếu tố bên trong CQT chứ ít đề cập đến nhân tố từ phía DN,
đồng thời cũng nêu lên những điều kiện để thực hiện các giải pháp đó… Đây là cách tiếp
cận chưa được nghiên cứu sâu, khoa học và có hệ thống ở các công trình nghiên cứu về
quản lý rủi ro trong thanh tra thuế đã công bố trước. Đặc biệt, trước đây cơ quan thuế chỉ

chú trọng ứng dụng phân tích rủi ro trong khâu lập kế hoạch thanh tra nên kết quả chưa
được như mong đợi. Hướng tiếp cập của luận án sẽ là đi sâu nghiên cứu việc áp dụng
quản lý rủi ro cả từ khâu lập kế hoạch thanh tra đến khâu tiến hành thanh tra thuế, quá
trình ra kết luận thanh tra thuế thông qua việc kiến nghị áp dụng một số tiêu chí phân tích
rủi ro, phương pháp lựa chọn nội dung thanh tra, chọn mẫu tài liệu thanh tra… là những
giải pháp mang tính khả thi, tính ứng dụng cao và đây cũng là những điểm rất khác biệt
căn bản với các công trình đã công bố trước đây. Tóm lại, nghiên cứu tổng quan các công
trình đã công bố liên quan đến quản lý rủi ro trong thanh tra thuế là vấn đề hết sức quan
trọng. Qua nghiên cứu cho thấy, đến nay có khá nhiều công trình đề cập đến rủi ro trong
hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế ở phạm vi địa phương và ở phạm vi toàn ngành Thuế.
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về quản lý rủi ro
trong hoạt động thanh tra thuế đối với các DN trên phạm vi toàn quốc. Bởi vậy, đề tài
luận án này không trùng lặp với các công trình nghiên cứu trước đó. Luận án sẽ kế thừa
những vấn đề lý luận, ưu điểm đã đạt được của các công trình nghiên cứu trước đó, khai
thác các vấn đề chưa được nghiên cứu, đồng thời sẽ đi theo hướng riêng, hướng mới với
những phân tích, biện giải chặt chẽ mang tính biện chứng cao để giải quyết vấn đề nghiên


cứu một cách khoa học, có tính kế thừa, liên kết và đạt được mục tiêu nghiên cứu của
Luận án.
CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG THANH TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA THUẾ
2.1.1. Khái niệm thanh tra thuế
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: thanh tra thuế (tax auditing) được hiểu
là “The examination of a taxpayer’s documents by a tax agency to verify if they have
complied the tax law”. Tức là, “Là hoạt động do CQT tiến hành nhằm kiểm tra tài liệu
của người nộp thuế để xác định sự tuân thủ pháp luật của người nộp thuế”.
Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, thanh tra là "kiểm soát, xem xét tại chỗ
việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp" [62, tr1170]. Với ý nghĩa, thanh tra bao

hàm nghĩa kiểm soát nhằm: “Xem xét, phát hiện và ngăn chặn những gì trái với quy
định”.
Từ điển pháp luật Anh - Việt động từ "inspect" có nghĩa là "thanh tra" và được giải thích
là hoạt động kiểm tra, kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra. Trong các từ
điển Anh – Anh hiện hành thì phần lớn giải thích “inspect” dạng động từ được hiểu là
hoạt động kiểm tra một cách cẩn thận, chính xác nhằm mục đích xác minh, hoạt động đó
được thực hiện công khai, chuyên nghiệp.
Còn ở dạng danh từ “inspectorate” lại được giải thích như là một cơ quan, tổ chức làm
nhiệm vụ thanh tra (Từ điển Anh- Anh- Việt) Từ điển Luật học (tiếng Đức) giải thích
"thanh tra là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền
được giao nhằm đạt được mục đích nhất định - sự tác động có tính trực thuộc". Thanh tra
(động từ trong tiếng Anh là Inspect) xuất phát từ gốc Latinh (Inspectare) có nghĩa là
“nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của
một đối tượng nhất định.
Theo Giáo trình Nghiệp vụ công tác thanh tra (2008) của Trường Cán bộ Thanh tra:
“Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt động kiểm tra, xem


xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân; được thực hiện bởi một cơ quan chuyên
trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,
pháp luật để kiến nghị các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần
nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [57, tr.12]. Theo tác giả
Luận án, đây là một khái niệm tương đối đầy đủ thể hiện bản chất của hoạt động thanh
tra. Từ những nghĩa như vậy, thanh tra với vai trò là danh từ chung có thể được hiểu là
một thực thể pháp lý, một thiết chế nhà nước về thanh tra để chỉ cơ quan, tổ chức thanh
tra hoặc bộ phận, lĩnh vực thanh tra nhất định. Khái niệm thanh tra tồn tại từ khi có quản
lý Nhà nước. Các quốc gia đều có nhận thức chung: thanh tra là một loại hình, công cụ

của quyền lực của nhà nước.
Nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng thanh tra, nhưng với cách thức khác nhau, đa phần
do cấu trúc nhà nước hoặc cơ cấu kinh tế (thậm chí là quan niệm về quyền lực) khác nhau
nên cấu tạo hoạt động cũng như các tổ chức thanh tra cũng khác nhau. Có nước chỉ sử
dụng thanh tra nhà nước (thanh tra của quốc hội), thanh tra của chính phủ (thanh tra hành
pháp), kiểm toán; có nước chỉ sử dụng thanh tra chuyên ngành; có nước sử dụng thanh tra
như một lực lượng cảnh sát (hoặc bán cảnh sát) hoặc phân về các ngành quản lý để phục
vụ quản lý; thậm chí có một số quốc gia coi thanh tra là một loại hoạt động mang tính
hiệp hội thám tử (detective)... Thanh tra là hoạt động nhân danh quyền lực công tác động
đến đối tượng quản lý để nâng cao tính tuân thủ, bảo vệ pháp luật, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức. Tuỳ theo tính chất quản lý, ngành, lĩnh vực khác nhau và điều kiện cụ
thể ở mỗi nước mà người ta lựa chọn mô hình thanh tra khác nhau.
Ở nước ta, Hiến pháp Việt Nam năm 1980 sử dụng thuật ngữ “thanh tra” với ý nghĩa là
một chức năng của cơ quan quản lý nhà nước. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (Điều 112)
quy định Chính phủ có nhiệm vụ “tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của
Nhà nước, công tác thanh tra nhà nước…” Theo Pháp lệnh thanh tra ngày 29 tháng 3 năm
1990, hoạt động thanh tra của các tổ chức thanh tra được xác định là một chức năng thiết


yếu của cơ quan quản lý Nhà nước. Theo Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 ngày 15 tháng
11 năm 2010 có giải thích về thanh tra nhà nước, thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành. “Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà
nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.” “Thanh tra hành chính là
hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao.” “Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp
luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh

vực đó.” “Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là cơ quan
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, bao gồm tổng cục, cục thuộc
bộ, chi cục thuộc sở được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành”. Theo Nghị
định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ: Tổng cục Thuế, Cục
Thuế, Chi cục Thuế được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong lĩnh
vực thuế (Điều 6, Điều 7, Điều 8). Theo Giáo trình nghiệp vụ thuế của Học viện Tài
chính: “Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm
tra của CQT đối với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành
vi trái pháp luật” [24, tr 491]. Từ việc tổng hợp, phân tích các khái niệm, luận án đưa ra
khái niệm riêng về thanh tra thuế: Thanh tra thuế là hoạt động thanh tra chuyên ngành,
được tiến hành bởi, cơ quan quản lý chuyên ngành Thuế (cơ quan thuế) đối với các tổ
chức, cá nhân (người nộp thuế) trong việc thực hiện pháp luật về thuế, xử lý các vi phạm
pháp luật thuế nhằm đạt được các mục tiêu của quản lý thuế. Khái niệm trên được hiểu
trên cơ sở không bao gồm hoạt động thanh tra về thuế của các cơ quan quản lý nhà nước
có chức năng quản lý về tài chính thực hiện thanh tra, kiểm tra về tài chính, có lồng ghép
nội dung thanh tra thuế như: Các tổ chức Thanh tra Tài chính, Kiểm toán nhà nước,
Thanh tra Chính phủ, Cơ quan Hải quan.
2.1.2. Đặc điểm của thanh tra thuế


Thanh tra thuế mang những đặc điểm chung giống đặc điểm của thanh tra nói chung và
thanh tra chuyên ngành nói riêng, đó là:
Thứ nhất, thanh tra thuế là một hoạt động quyền lực của cơ quan quản lý Nhà nước, là
một chức năng của quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thuế, thanh tra thuế thực hiện quyền
lực của chủ thể quản lý (CQT) đối với đối tượng quản lý (DN). Thanh tra thuế “luôn luôn
áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá trình hoạt động của mình và nó nhân danh
Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó”[57, tr 11].
Thứ hai, thanh tra thuế là một chức năng, một giai đoạn của chu trình quản lý thuế.
Thanh tra thuế là một trong bốn chức năng cơ bản của quản lý thuế, là khâu hậu kiểm,
thực hiện tốt chức năng giám sát tuân thủ của CQT. Thanh tra thuế có tác động tới hầu

hết các giai đoạn của chu trình quản lý thuế: kê khai thuế, tuyên truyền hỗ trợ và cưỡng
chế nợ thuế. Xét theo chức năng của quản lý thuế thì thanh tra thuế là công cụ, phương
tiện để nhà nước quản lý thuế.
Thứ ba, thanh tra thuế là một hoạt động mang tính chuyên môn hóa cao, được thực hiện
theo một quy trình chặt chẽ. Các bước công việc cụ thể để thực hiện một cuộc thanh tra
thuế được chuẩn hóa từng khâu, quy định trách nhiệm rõ ràng cho từng bộ phận, từng cán
bộ tham gia quy trình. Để có thể đáp ứng được quy trình thanh tra thuế, đòi hỏi người
thanh tra phải được chuyên nghiệp, có trình độ cao, nắm vững được chính sách, pháp
luật, am hiểu về kế toán và phải có kỹ năng phân tích, phát hiện, xử lý gian lận của đối
tượng thanh tra.
Thứ tư, thanh tra thuế có tính độc lập tương đối. Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản
chất của thanh tra, đặc điểm này phân biệt thanh tra thuế với các bộ phận chức năng khác
trong bộ máy quản lý thuế. Thanh tra thuế chủ động và độc lập trong việc lập kế hoạch
thanh tra, phân bổ nguồn lực thanh tra, trong việc ra quyết định và kết luận thanh tra và
độc lập trong cách quan hệ ứng xử với đối tượng được thanh tra khi cần thiết. Thanh tra
thuế là thanh tra chuyên ngành, trực tiếp giúp việc cho Thủ trưởng CQT và chịu sự quản
lý trực tiếp của Thủ trưởng CQT và có tính chất độc lập tương đối.
Thứ năm, thanh tra thuế được tiến hành đối với mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân hoạt
động trong phạm vi điều chỉnh của các luật thuế, chịu sự quản lý nhà nước trong lĩnh vực


thuế: ví dụ đơn vị sản xuất kinh doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức chính trị, xã
hội... Đây chính là điểm khác giữa hoạt động thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh
tra hành chính (Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà
nước; là thanh tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân cấp dưới (thuộc
quyền quản lý trực tiếp). Thanh tra thuế khác với thanh tra các lĩnh vực khác trên các
phương diện chủ yếu sau: Thanh tra thuế được tiến hành dựa vào các quy định của các
luật thuế và luật quản lý thuế hiện hành, có thể vận dụng một số luật liên quan khi tính
toán nghĩa vụ thuế phải nộp của DN. Do đặc điểm của DN - đối tượng được thanh tra
thuế tương đối rộng, hoạt động ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau nên đòi hỏi kiến

thức sử dụng trong thanh tra thuế phải bao quát và đa dạng. Thanh tra thuế không chỉ
chấn chỉnh việc thực thi pháp luật mà còn nhằm mục đích chống thất thu, góp phần làm
tăng thu cho NSNN. Qua thanh tra thuế, CQT truy thu vào NSNN số thuế thất thu, tiền
phạt, tăng tỷ lệ đóng góp vào NSNN. Thanh tra thuế không chỉ tác động đến hoạt động
kinh doanh của DN trong lãnh thổ Việt Nam mà còn tác động đến hoạt động kinh doanh
của DN ngoài lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Phân
biệt giữa thanh tra thuế với kiểm tra thuế: Việc phân biệt thanh tra và kiểm tra thuế ở đây
được hiểu là phân biệt theo Pháp luật Việt Nam hiện hành, trong phạm vi giới hạn ở Việt
Nam. Trong thực tế, người ta thường hay nhầm lẫn giữa khái niệm thanh tra thuế và kiểm
tra thuế, do đó, cần phân biệt điểm giống và khác nhau giữa hoạt động thanh tra thuế và
kiểm tra thuế trong CQT. Kiểm tra thuế “là hoạt động của CQT xem xét tình hình thực tế
của đối tượng kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra đối với
đối tượng kiểm tra để có những nhận xét, đánh giá” [24, tr.491]. Về mặt lý luận và thực
tiễn, thanh tra thuế và kiểm tra thuế là hai hoạt động không thể thiếu được của công tác
lãnh đạo, quản lý của CQT nhằm đảm bảo pháp luật về thuế được thực thi đúng đắn và
hiệu quả. Thanh tra thuế và kiểm tra thuế có những điểm giống nhau. Đó là: Về mục
đích, thanh tra thuế và kiểm tra thuế đều là một nội dung quan trọng của quản lý thuế.
Thanh tra thuế và kiểm tra thuế đều có cùng một mục đích là phát hiện, ngăn ngừa, xử lí
những vi phạm pháp luật thuế, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế, thúc đẩy NNT
tự giác tuân thủ pháp luật thuế, qua đó kiến nghị hoàn thiện cơ chế quản lí thuế, bảo vệ


lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của NNT. Về đối tượng, đối tượng của thanh
tra thuế, kiểm tra thuế là NNT nói chung, bao gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế
theo quy định của pháp luật về thuế. Về nội dung, thanh tra thuế, kiểm tra thuế đều có nội
dung là kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế của NNT.
Về cách thức tiến hành, thanh tra thuế, kiểm tra thuế đều phải xem xét hoạt động thực tế
của đối tượng thanh tra để phân tích, đánh giá, phát hiện và xử lý theo qui định pháp luật
về thuế, chỉ ra nguyên nhân để NNT có biện pháp khắc phục. Về phương pháp, đều áp
dụng những phương pháp chung để xác định mức độ tuân thủ pháp luật, truy lần lại việc

xử lý dữ liệu, tính toán lại và xác minh số liệu để phát hiện các số liệu chưa chính xác. Về
thời điểm tổ chức, hoạt động thanh tra thuế, kiểm tra thuế không chỉ được thực hiện ở
một khâu trong hoạt động quản lý thuế mà nó được thực hiện ở tất cả các khâu của quy
trình quản lý thuế. Tuy nhiên, giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế cũng có sự khác nhau
nhất định. Đó là: Về chủ thể tiến hành, chủ thể của thanh tra thuế là bộ phận chuyên trách
về công tác thanh tra thuộc CQT, còn chủ thể của kiểm tra thuế thường đa dạng hơn so
với chủ thể của thanh tra thuế, bao gồm bộ phận thanh tra thuế, bộ phận kiểm tra thuế và
các bộ phận chức năng khác. Về đối tượng, kiểm tra thuế thường có phạm vi rộng, diễn ra
liên tục, ở nhiều khâu với hình thức đa dạng, còn phạm vi hoạt động của thanh tra thuế
thường hẹp hơn. Thanh tra thuế thường có sự chọn lọc, đôi khi thông qua kiểm tra thuế
có thể thấy những dấu hiệu phức tạp mà nếu cứ tiến hành kiểm tra thuế thì không làm rõ
được, bởi vậy, cần chọn ra những đối tượng nào đó để thanh tra thuế. Về nội dung, thanh
tra thuế thường kiểm tra những vấn đề đã xảy ra ở trong quá khứ, khi các nghiệp vụ kinh
tế đã phát sinh, hoàn thành, còn nội dung của kiểm tra thuế có thể là những vấn đề hiện
tại, đang xảy ra. Tất nhiên, nội dung kiểm tra bao gồm cả những nội dung cụ thể của
kiểm tra trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau khi các hoạt động kinh tế phát sinh. Về thời
gian, thời gian để tiến hành một cuộc thanh tra thuế thường dài hơn so với thời gian một
cuộc kiểm tra thuế do tính chất các vụ việc tiến hành của thanh tra thuế phức tạp, tinh vi.
Về hình thức tổ chức, thanh tra thuế bắt buộc phải thành lập đoàn thanh tra, phải có quyết
định thanh tra còn kiểm tra thuế đôi khi không thành lập đoàn kiểm tra và không cần có


×