Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.61 KB, 38 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nước khởi nguồn cho mỗi sự sống, nước là một trong nhưng nhu cầu không
thể thiếu với bất kì các loài sinh vật kể cả con người. Chất lượng môi trường nước
ảnh hưởng trực tiếp lên sức khỏe cũng như sự sống của các loài. Hiện nay nhu cầu
sống đó đang dần bị đe dọa nghiêm trọng. Bên cạnh lượng nước bị thâm hụt do sử
dụng nước bừa bãi và không đúng mục đích làm chất lượng nước đang suy giảm
trầm trọng, mà nguyên nhân chính đó là do ý thức của chính mỗi con người chúng
ta. Hằng ngày một lượng nước thải được xả trực tiếp hoặc gián tiếp ra ngoài môi
trường mà chưa qua xử lý gây ô nhiễm mỗi nghiêm trọng nguồn nước. Hậu quả
trước tiên là gây mất cân bằng sinh thái, một sô loài sinh vật bị tuyệt chủng do
không thích nghi với nguồn nước bị ôn nhiễm. Tiếp đến là ảnh hưởng đên cuộc
sống con người của chúng ta. Nước bị ô nhiễm gây các bệnh: da liễu, đường ruột…
và hơ nữa là các bệnh mà thế giới cũng chưa có phương thức cứu chữa: ung thư…
Chính vi vậy mà ngành công nghiệp xử lý nước thải cần phải đáp ứng nhu cầu về
khoa học - kỹ thuật, cũng như sự phát triển về số lượng các nhà máy để giảm thiệu
tác động của nước thải đến môi trường.
Xử lý nước thải hiện đang vấn đề cực kì quan trọng đối với các tổ chức, nhà
máy, doanh nghiệp. Việc dây dựng hệ thống xử lý nước thải có thể tiến hành ngay
gần với nơi mà nó được tạo ra. Trong những năm gần đây, mặc dù đầu tư vào lĩnh
vực thoát nước và xử ký nước thải đòi hỏi lượng vốn đầu tư rất lớn nhưng đa phần
các đô thị lớn và vừa đều đã có dự án thoát nước và vệ sinh môi trường với quy mô
khác nhau. Tuy nhiên, hệ thống thoát nước đô thị được đầu tư qua nhiều thời kỳ
khác nhau, nhiều công trình đã xuống cấp, khả năng tiêu thoát kém, gây ô nhiễm
môi trường.
Bên cạnh những lợi ích to lớn từ quá trình phát triển kinh tế, xã hội như đời
sống người dân ngày một nâng cao thì vấn đề ô nhiễm môi trường cũng đã, đang
1


nảy sinh và tác động tiêu cực đến đời sống xã hội và sức khỏe của người dân. Thực
hiện chủ chương xây dựng Nông thôn mới của Đảng và Nhà nước, một số vùng


nông thôn Việt Nam đang triển khai rất tốt công tác này, đem lại những thay đổi
tích cực về các mặt kinh tế, xã hội và vệ sinh môi trường.

CHƯƠNG I: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI Ở VIỆT
NAM

BỐI CẢNH VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG NGHỆ XỬ LÝ
NƯỚC THẢI.
Cơ sở pháp lý phát triển ngành cấp thoát nước- Môi trường nước Việt Nam.
- Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên nước, Nghị quyết số 41 của Bộ
Chính trị và các Nghị định, văn bản của Chính phủ, các bộ, ngành hướng dẫn triển
khai các luật hay các chiến lược này.
- Chiến lược Quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
- Hệ thống tiêu chuẩn/quy chuẩn môi trường và tiêu chuẩn ngành đã được
thiết lập và ngày càng đường hoàn thiện, bổ sung, chỉnh sửa.
2


- Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Định hướng Quy hoạch tổng thể phát
triển đô thị đến năm 2020" trong Quyết định số 10/1998/QĐ-TTg ngày 23-1-1998,
trong đó xác định phương hướng xây dựng và phát triển các đô thị trên địa bàn cả
nước và các vùng đặc trưng: Hiên có khoảng 754 đô thị và khoảng 1000 đô thị vào
năm 2025.
- Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã có các Quyết định số 1929/QĐ-TTg và
1930/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 phê duyệt định hướng phát triển cấp, thoát nước
đô thị và Khu công nghiệp (KCN) Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm
2050 cùng nhiều văn bản chiến lược khác như Quyết định 328/2005/ QĐ-TTg ngày
12 tháng 12 năm 2005 về kiểm soát ô nhiễm, Nghị Định CP số 88/2007/NĐ CP,
ngày 28-5-2007 về Thoát nước Đô thị và Khu Công nghiệp,.. Điều này đỏi hỏi
ngành Nước mà cụ thể là Cấp Thoát nước-Kỹ thuật môi trường phải góp phần thực

hiện.
- Quyết định số 104 ngày 25-8-2000 của Thủ tướng Chính Phủ Về việc phê
duyệt Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020 và
các chương trình mục tiêu Quốc gia cấp nước và vệ sinh nông thôn 2006-2010,
2011-2015.
- Mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 ghi rõ về kết
cấu hạ tầng và môi trường đô thị, công nghiệp, nông thôn:
“Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỷ lệ đô
thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.”
“Cải thiện chất lượng môi trường. Đến năm 2020, đưa tỷ lệ che phủ rừng lên
45%. Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ
sinh. 100% cơ sở sản xuất, kinh doanh mới áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị
các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh
hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các khu
công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 95% chất thải rắn
3


thông thường, 85% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu
chuẩn. Cải thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác
hại của thiên tai. Chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là
nước biển dâng”
Theo Điều chỉnh Định hướng phát triển thoát nước đô thị và khu công
nghiệp Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 (phê duyệt theo QĐ số
589/QĐ-Ttg ngày 06/4/2016) đã đặt ra mục tiêu tổng quát: Phát triển hệ thống
thoát nước ổn định và đồng bộ bao gồm xây dựng mạng lưới thu gom, chuyển tải
và nhà máy xử lý nước thải theo từng giai đoạn, phù hợp với quy hoạch được cấp
thẩm quyền phê duyệt, phát huy tối đa công suất thiết kế các nhà máy xử lý nước
thải bảo đảm hiệu quả quản lý và đầu tư xây dựng. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020
là: 15% đến 20% tổng lượng nước thải tại các đô thị được thu gom và xử lý đạt

tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra môi trường; và đến năm 2025 là:
50% tổng lượng nước thải tại các đô thị loại II trở lên và 20% đối với các đô thị từ
loại V trở lên được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trước khi
xả ra môi trường.
Theo các tài liệu điều tra, khảo sát, thống kê về thoát nước và xử lý nước
thải đô thị, tỷ lệ bao phủ mạng lưới thoát nước ở các đô thị nước ta hiện chỉ đạt
khoảng 30 - 70%, tỉ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đạt được từ 12 15% lượng nước thải phát sinh. Đặc biệt, còn có sự chênh lệch lớn về mức độ bao
phủ của hệ thống thoát nước và xử lý nước giữa các đô thị do mức độ quan tâm và
năng lực đầu tư khác nhau.
Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, cùng sự ra đời của nhiều cụm dân cư,
nhiều khu đô thị mới phát sinh một lượng lớn nước thải xả ra môi trường. Ngoài ra,
nhiều dự án thoát nước đã được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn vay hỗ trợ phát triển
(ODA) cũng chưa phát huy được hiệu quả để bảo vệ môi trường do việc đầu tư
4


chưa đồng bộ giữa công trình xử lý với mạng lưới thu gom cũng như trình độ quản
lý, vận hành hệ thống chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế… Do vậy, ô nhiễm môi
trường do nước thải đô thị đang là một vấn đề gây bức xúc cho toàn xã hội, ảnh
hưởng đến môi trường sống và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Quá trình đô thị hóa từ 1990 đến nay và dự báo tương lai.
Từ ngày 2 tháng 7 năm 2009, phân loại đô thị sẽ tiến hành theo Nghị định số
42/2009/NĐ-CP ban hành ngày 07 tháng 5 năm 2009 (Nghị định này thay thế Nghị
định 72/2001/NĐ-CP ban hành ngày 05 tháng 10 năm 2001)
Bảng 1. Diễn biến quá trình đô thị hóa ở nước ta trong 25 năm qua và dự báo
đến năm 2020
2

m


1
986

1
990

199
5

2
000

2
005

2
009

010
(
Dự

đô thị các
loại

4
80

5


550

00

6
49

6
89

7
54

0
(Dự
báo)

báo)
Số

202

7
60

-


n số đô


1

thị (triệu 1,87
người)
Tỷ
lệ dân số 9,3

1
3,77

1

14,
938

2
0,0

1
9,47

20,
75

2
2,6

2
4,18
5


2
5,4

2
6,7

3
0,4

2
9,6

3
3,0

46,0

45,0


đô thị
trên tổng
dân
số(%)

- Tổng số dân của Việt nam vào 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009 là
85.789.573 người, trong đó có 25.374.262 người cư trú ở khu vực thành thị, chiếm
29,6%.
Chiến lược phát triển đô thị đến năm 2020:

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Định hướng Quy hoạch tổng thể phát
triển đô thị đến năm 2020" trong Quyết định số 10/1998/QĐ-TTg ngày 23-1-1998,
trong đó xác định phương hướng xây dựng và phát triển các đô thị trên địa bàn cả
nước và các vùng đặc trưng: Hiên có khoảng 754 đô thị. Tới năm 2025 Việt Nam
có khoảng 1000 đô thị
Bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, giữ gìn cân bằng sinh thái đô thị:
Xây dựng và duy trì bộ khung bảo vệ thiên nhiên trên địa bàn cả nước.
Khai thác và sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên vào mục đích cải tạo
đô thị.
Có biện pháp xử lý, tái sử dụng các chất thải sinh hoạt và sản xuất bằng các
công nghệ thích hợp.
Quá trình công nghiệp hóa.

6


- Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế
(KCN,KCX,KKT): Tính từ năm 1991 đến hết tháng 9/2009, trải qua 18 năm xây
dựng và phát triển, cả nước đã thành lập được 223 KCN, phân bố trên 54 tỉnh,
thành phố trên cả nước. Trong số 223 khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN-KCX)
được Chính Phủ phê duyệt thành lập, trong đó có 120 KCN-KCX đi vào hoạt
động, hơn 100 KCN đang trong quá trình xây dựng cơ bản. Tỷ lệ lấp đầy trung
bình đạt khoảng 50% [1].
Ngoài các KCN-KCX, còn có:
+ Khoảng 1700 cụm công nghiệp (CCN) được phê duyệt, trong đó có 700
CCN đã đưa vào hợt động,
+ 34 khu kinh tế (KKT), trong đó có 11 KKT ven biển, 23 KKT cửa
khẩu.Đến năm 2015 sẽ có tổng số 40 KKT.
Như vậy tới nay chúng ta đã có khoảng 1900 KCN, CCN, 34 KKT.
Theo Quyết định 1107/QĐ-TTg ngày 21-8-2006, đến 2015 nước ta sẽ có

thêm 115 KCN mới và mở rộng 27 KCN đã có.
Các doanh nghiệp hay xí nghiệp công nghiệp nói chung: Nếu kể cả những
đơn vị ngoài KCN, KCX, CCN, KKT, trên toàn quốc có khoảng trên 500 000
doanh nghiệp. Dự kiến đến năm 2020 sẽ có khoảng trên 600 000 doanh nghiệp.
Ngoài ra ở nước ta còn có khoảng 1450 làng nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
THỰC TRẠNG CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI Ở VIỆT NAM.
Hiện trạng công nghệ xử lí nước cấp sinh hoạt va công nghiệp.
2.1.1. Công nghệ đang áp dụng.
Hiện ở đô thị sử dụng nguồn nước mặt và nước ngầm. Ngoài ra, một số hộ
vùng ven đô và nông thôn có sử dụng cả nước mưa.
7


Trong toàn quốc, tỷ lệ sử dụng nguồn nước mặt khoảng 60%, nước ngầm
khoảng 40%
Các thành phố lớn, các nhà máy nước (NMN) có công suất từ vài chục ngàn
m3/ngđ tới vài trăm ngàn m3/ngđ: NMN Thủ Đức (TP HCM) có tổng công suất
1.200.000 m3/ngđ, các NMN ngầm ở Hà Nội có công suất từ 30.000 - 60.000
m3/ngđ (thường chia thành đơn nguyên 30.000 m3/ngđ, xây dựng thành từng đợt,
NMN Sông Đà 600.000 m3/ngđ, giai đoạn 1 đã xây dựng 1 đơn nguyên 300.000
m3/ngđ đã hoạt động. Tại các thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh, các nhà máy nước
có công suất phổ biến từ 10.000 m3/ngđ tới 30.000 m3/ngđ. Các trạm cấp nước của
các thị trấn thường có công suất từ 1000 m3/ngđ tới 5000 m3/ngđ, phổ biến nhất
xung quanh 2000 m3/ngđ.
Công nghệ và công trình xử lý nước.
Công nghệ xử lý nước mặt phổ biến là keo tụ + lắng + lọc nhanh trọng lực +
khử trùng
Công nghệ xử lý nước ngầm chủ yếu là khử sắt ( hoặc khử mănggan) bằng
phương pháp làm thoáng + lắng tiếp xúc + lọc nhanh trọng lực + khử trùng.
Các công trình đơn vị trong trạm xử lý đa dạng:

Các công trình keo tụ ( đa số dùng phèn nhôm, PAC) với bể trộn đứng, trộn
cơ khí, bể tạo bông có vách ngăn zic zac, tạo bông có tầng cặn lơ lửng, tạo bông
kiểu cơ khí
Các công trình lắng: bể lắng đứng ( cho trạm công suất nhỏ) bể lắng ngang
thu nước cuối bể, thu nước bề mặt được sử dụng khá rộng rãI ở các dự án thành
phố, thị xã, bể lắng ngang lamen ( công nghệ Pháp) được sử dụng tại 6 tỉnh miền
núi phía Bắc: Lao Cai, Yên BáI, Phú Thọ, Hoà Bình, Hưng Yên và san bay Đà
Nẵng. Loại bể này đang được phổ biện ở một số địa phương khác. Bể lắng Pulsator
8


( công nghệ Pháp) được dùng ở Nam Định, Cần Thơ và bể lắng ly tâm ( TháI Bình)
là 2 loại bể lằng ít được sử dụng.
Các công trình lọc: Bể lọc nhanh trọng lực ( lọc hở với vật liệu lọc là cát)
được dùng rộng rãi. Bể lọc AQUAZUR-V ( Công nghệ Pháp) được dùng khá
nhiều ở các dự án cấp tỉnh, thành phố ( Kiểu AQUAZUR-V, nhưng không mua bản
quyền của Degrémont)
Khử trùng: phổ biến dùng clo lỏng, một số trạm nhỏ dùng nước giaven hoặc
ôzôn.
Trạm bơm đợt 2: một số trạm dùng máy biến tần để điều khiển chế độ hoạt
động của máy bơm, một vài nơi có dùng đài nước trong trường hợp địa hình thuận
lợi, một số nơi tận dụng đài nước đã có trước.
Các công trình làm thoáng: Phổ biến dùng tháp làm thoáng tự nhiên ( Dàn
mưa), một số ít dùng thùng quạt gió ( làm thoáng cưỡng bức), một số trạm khác
dùng tháp làm thoáng tải trọng cao theo nguyên lý làm việc của Ejector.
Chất lượng nước sau xử lý hầu hết đạt tiêu chuẩn quốc gia hoặc tiêu chuẩn
cuả tổ chức y tế thế giới. Một số nhà máy còn một vài chỉ tiêu chưa đạt như măng
gan, amôni, arsenic.
Cấp nước nông thôn - Các loại mô hình cấp nước sinh hoạt nông thôn.
Người dân nông thôn Việt Nam tuỳ điều kiện của mình đã sử dụng cả 3 loại

nguồn nước (nước mưa, nước ngầm và nước mặt) cho nhu cầu cấp nước phục vụ
sinh hoạt.
Từ những đặc điểm riêng biệt từng vùng ở nông thôn Việt Nam hiện đang
tồn tại 2 loại hệ thống công trình cấp nước cơ bản:
+ Các công trình cấp nước phân tán: Các công trình cấp nước nhỏ lẻ truyền
thống phục vụ cho từng hộ gia đình, những nhóm hộ dùng nước hay các cụm dân
cư sống độc lập, riêng lẻ mật độ thấp..
9


+ Các công trình cấp nước theo kiểu công nghiệp tập trung: Hệ thống dẫn
nước tự chảy và hệ thống bơm dẫn nước phục vụ cho các thị trấn, thị tứ, các cụm
dân cư sống tập trung của xã...
Đánh giá về công nghệ và sự hoạt độngquản lý vận hành xử lý nước cấp
Các nhà máy nước ở các đô thị và công nghiệp được thiết kế, xây dưng với
công nghệ phù hợp. Trang thiết bị công nghệ ngày càng được hiện đại hóa.Tới nay
tất cả các đô thị loại III trở lên và khoảng 30% số đô thị loại IV và V (thị trấn
huyện lỵ) đều đã được đầu tư mới hoặc nâng cấp cải tạo, theo công nghệ-thiết bị
mới, hiện đại. Đã cấp nước máy cho trên 70% dân đô thị và 190 KCN tập trung.
Chất lượng quản lý, vận hành các nhà máy nước/các công ty Cấp nước địa
phương đã được nâng lên nhiều so với trước đây.
Tuy nhiên việc lập kế hoạch bảo dưỡng, vận hành cũng còn là lỗ hổng so
với các nước công nghiệp phát triển. Các nhà máy nước mặt chưa lường hết những
tình huống vận hành khác nhau như sự biến động chất lượng nước đầu vào vào
theo mùa, sự ô nhiễm nguồn nước ... Do vậy chất lượng nước sản xuất đôi khi chưa
đạt yêu cầu, khách hàng còn kêu ca.
Đối với các trạm cấp nước tập trung nông thôn, do nhiều nguyên nhân, trong
đó nguyên nhân quan trọng là cơ chế tổ chức quản lý, chưa tính đúng, tính đủ các
chi phí vận hành nên nhiều công trình với chi phí đầu tư lớn nhưng chỉ vận hành
được một thời gian ngắn là dừng không vận hành, hoạt động.

Vấn đề quản lý chất lượng nước cấp sinh hoạt nông thôn (QLCLNSHNT)
cũng là vấn đề cần lưu tâm. Hiện Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê
duyệt dự án và bắt đầu thực thi.
Hiện trạng công nghệ xử lý nước thải đô thị và công nghiệp.
Xử lý nước thải sinh hoạt đô thị.
Đối với nước thải đô thị, khu dân cư, hầu hết sử dụng bể tự hoại xử lý tại
chỗ thuộc các hộ gia đình. Các bể tự hoại được xây dựng thời Pháp thuộc đều có
10


ngăn lọc hiếu khí, sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng, người ta chỉ dùng bể
tự hoại không có ngăn lọc và được gọi là bể bán tự hoại. Tới nay có khoảng 10 nhà
máy xử lý nước thải đô thị đã được xây dựng và đưa vào hoạt động tại Hà Nội, Đà
Nẵng, Buôn Ma thuột, Đà Lạt và TP Hồ Chí Minh.
Đa số các các đô thị Việt Nam chưa có nhà máy/trạm xử lý nước thải tập
trung.
Hiện nay đã có một số thành phố khác đang thực hiện dự án thoát nước và
vệ sinh môi trường như TP Huế, Hạ Long, Việt trì, Thanh Hoá, Đồng Hới, Nha
Trang, Quy Nhơn. Công nghệ xử lý nước thải là công nghệ sinh học hiếu khí bằng
bùn hoạt tính hoặc áp dụng công nghệ xử lý đơn giản là hồ sinh học. Các đô thị
nhỏ hầu như chưa có dự án thoát nước và xử lý nước thải..
Xử lý nước thải bệnh viện, trường học hay cơ quan NCKH:
Tại các bệnh viện như BV Quân đội 108, BV Bạch Mai, BV Hai Bà Trưng,
Hà Nội (Xây dựng mới), BV Việt-Tiệp , BV Nhi TP Hải Phòng, BV Đa khoa TP
Huế,BV Nhi Thuỵ Điển Hà nội và BV Uông Bí, BV Nhi TP HCM ... có trạm xử lý
nước thải với công nghệ xử lý sinh học hiếu khí bằng bùn hoạt tính hoặc kết hợp
xử lý bằng phương pháp hóa học, Viện KHVN nay là Viện KH & CN Quốc Gia đã
xây dựng và vận hành trạm xử lý nước thải bằng hóa học và sinh học. Hiện có
khoảng 100-150 trong số 1100 bệnh viện (hay khoảng 10-15% số bệnh viện) có
trạm xử lý nước thải bệnh viện đưa vào hoạt động.

Xử lý nước thải công nghiệp.
Hiện tại ở nước ta ước tính đã có khoảng 60-70 nhà máy xử lý nước thải tập
trung tại các KCN-KCX, trong số 171 KCN-KCX đưa vào hoạt động (tổng số có
223 KCN-KCX có quyết định thành lập)
Cũng khoảng 60% số khu công nghiệp và nhiều cụm cụng nghiệp, nhà máy,
cơ sở sản xuất, các làng nghề chưa có trạm XLNT, có nơi đã xây dựng trạm XLNT
11


nhưng không hoạt động. Công nghệ XLNT thường dùng là phương pháp bùn hoạt
tính và lọc sinh học.
Công nghệ xử lý nước thải công nghiệp khá đa dạng và đặc biệt có xuất xứ
từ nhiều nước. Do đô các thiết bị cũng có xuất xứ từ nhiều nguồn cung cấp. Kết
quả sẽ gây nhiều khó khăn cho việc sửa chữa, thay thế khi cần thiết.
2.2.4.

Xử lý nước thải làng nghề

Trong vòng 10 năm lại đây vấn đề môi trường làng nghề đã được nhiều
chương trình NCKH quan tâm như Làng nghề Việt Nam và Môi trường [4] và
nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng khác. Cho đến nay một số cơ sở ở làng nghề dệt
nhuộm Dương Nội, Hà Đông, Giấy Yên Phong, Bắc Ninh, Cơ sở mạ kim
loại, dùng công nghệ hóa học-keo tụ, kết tủa + lắng nước thải. Một số cơ sở chế
biến giấy còn áp dụng keo tụ kết hợp tuyển nổi ... Một số cơ sở chế biến bún-bánh
đa đã áp dụng bãi lọc sinh học ngập nước, một số khác dùng bãi lọc trồng cây ...
Nhìn chung công nghệ xử lý nước thải các làng nghề, tùy thuộc từng ngành sản
xuất, tùy thuộc điều kiện từng làng xóm mà áp dụng các công nghệ đa dạng khác
nhau,
2.2.5. Đánh giá công nghệ và hoạt động vận hành xử lý nước thải.
Do khả năng kinh tế của Việt Nam còn có hạn, nên việc đầu tư xử lý nước

thải đô thị chưa được nhiều, như đã mô tả ở mục 2.2.1. Việc hút bùn từ bể tự hoại
cũng chưa thực hiện đúng thời hạn.
Trong khoảng 10-15 năm lại đây các cơ quan nghiên cứu và các trường đại
học đã nghiên cứu theo hướng công nghệ xử lý chi phí thấp và đang áp dụng ở một
số nơi và thu được kết quả ban đầu .
Việc quản lý vận hành và bảo dưỡng ở các nhà máy xử lý nước thải với mọi
cấp độ và quy mô đang là một vấn đề lớn không chỉ đối với nước ta mà cả các
nước đang phát triển. Đây không chỉ đơn thuần là quản lý kỹ thuật, mà còn liên
quan đến chi phí kinh tế. Do vậy nhiều nhà máy/trạm xử lý nước thải, khi xây dựng
12


với kinh phí đầu tư lớn nhưng không hoạt động. Hệ quả là hiệu suất xử lý rất thấp.
Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu đánh giá một cách nghiêm túc.
Hiện nay công nghệ, thiết bị xử lý nước thải ở nước ta có xuất xứ từ nhiều
nước như Nhật, Pháp, Ý, Hà Lan, Đan Mạch, Anh, Mỹ ... Trong khi nước ta còn
chưa có công nghiệp sản xuất, chế tạo thiết bị chuyên dụng. Đây sẽ là thách thức
lớn đối với nước ta trong những năm tới.
Đối với các làng nghề , đã đang áp dụng một số công nghệ khác nhau, tùy
thuộc lĩnh vực sản xuất và điều kiện cụ thể của địa phương. Vấn đề là với công
nghệ hóa học hay hóa lý các cơ sở có vận hành một cách thường xuyên hay không
hay vận hành có hiệu quả hau không lại là chuyện khác.

Nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực thoát nước tại Việt Nam gắn liền
với sự phát triển đô thị (Tình hình phát triển đô thị Việt Nam ). Theo báo cáo của
Bộ Xây dựng, trong những năm gần đây hệ thống các đô thị Việt Nam từng bước
phát triển: mở rộng về quy mô, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại;
diện mạo đô thị đã có nhiều thay đổi; chất lượng đô thị ngày càng được nâng cao;
trong đó có vai trò rất lớn của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thoát
nước và môi trường.

2.2.6.

Hiện trạng doanh nghiệp hoạt động xử lý nước thải.

Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thoát nước đã thực hiện nhiệm
vụ thoát nước ở hầu hết các đô thị: đô thị đặc biệt, đô thị loại I, II, III và loại IV.
Đến nay có khoảng trên 70 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thoát nước.

13


Do đặc thù của từng đô thị, số doanh nghiệp chuyên làm nhiệm vụ thoát
nước chỉ tập trung ở một số đô thị lớn (có 5 doanh nghiệp) có 17 doanh nghiệp
hoạt động trong cả lĩnh vực cấp và thoát nước; còn lại các doanh nghiệp hoạt động
mang tính chất đa ngành nghề, bao gồm cả môi trường, xây dựng, v.v…
Thực hiện chủ trương của Nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động trong
ngành nước đang tiến hành cổ phần hóa. Cho đến nay, đã có khoảng 30% các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thoát nước tiến hành xong cổ phần hóa và
đang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Số doanh nghiệp còn lại đang xây
dựng phương án cổ phần hóa toàn bộ công ty hoặc cổ phần hóa một bộ phần công
ty.
Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thoát nước những năm trước đây
chủ yếu tập trung vào vấn đề thoát nước, tránh ngập úng trong các đô thị.Vấn đề
xử lý nước thải hầu như chưa được chú ý. Thời gian gần đây, vấn đề xử lý nước
thải đang từng bước được các đô thị quan tâm. Theo báo cáo của Cục Hạ tầng Kỹ
thuật - Bộ Xây dựng, đến nay có khoảng 40 nhà máy xử lý nước thải tập trung đã
xây xong và đưa vào vận hành với tổng công suất thiết kế 800.000 m3/ngày.đêm và
có khoảng 50 nhà máy nước thải tập trung đang trong quá trình thiết kế, xây dựng
hoặc chuẩn bị hoàn thành (Hiện trạng các nhà máy xử lý nước thải tại Việt Nam ).
Xuất phát từ những đặc điểm và yêu cầu phát triển của các doanh nghiệp

hoạt động trong lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải, nguồn nhân lực hoạt động
trong lĩnh vực này phải tiếp tục tăng cao về số lượng, nâng cao trình độ quản lý,
chuyên môn, nghiệp vụ không chỉ đáp ứng cho nhu cầu trước mắt, đặc biệt là
nguồn nhân lực để quản lý, vận hành hiệu quả các nhà máy xử lý nước thải với
công nghệ xử lý đa dạng, hiện đại trong tương lai.
14


Từ kết quả tầm soát về tình hình đầu tư xây dựng và hoạt động của các Nhà
máy xử lý nước thải đô thị cho thấy:
Hiện nay có khoảng hơn 40 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung đã đi
vào hoạt động với tổng công suất thiết kế khoảng 800.000 m3/ngđ và,
Gần 50 nhà máy đang trong giai đoạn lập dự án, thiết kế hoặc đang xây dựng
nâng tổng công suất khoảng 2.100.000 m3/ngđ.
Các nhà máy đang hoạt động nhưng thực tế chỉ vận hành chưa đến 60%
công suất thiết kế.
Tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý khoảng 12% so với tổng lượng nước
thải phát sinh, còn thấp hơn rất nhiều so với yêu cầu đặt ra cho giai đoạn 2020 theo
Chiến lược về thoát nước đô thị và khu công nghiệp đã được Thủ tướng chính phủ
phê duyệt.
Để ngành thoát nước đô thị phát triển đáp ứng được nhu cầu của xã hội, cần
tiếp tục có những nghiên cứu đánh giá cụ thể về hiệu quả của các dự án đầu tư xây
dựng các công trình nhà máy xử lý nước thải đô thị hiện nay, từ đó đề xuất những
biện pháp khắc phục những điểm yếu kém.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, quy hoạch chuyên ngành và có những
giải pháp đột quá trong quản lý xây dựng và thu hút đầu tư cho lĩnh vực thoát nước
đô thị.
Cần có kế hoạch điều tra, khảo sát nguồn nhân lực đang làm việc tại các cơ
quan, doanh nghiệp thoát nước để biết được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này, đáp ứng cho nhu cầu trước mắt và cho cả

trong tương lai.
YÊU CẦU THỰC TẾ VÀ ĐỊNH HƯỚNG.
15


Đối với các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật của KCN.
Chỉ tiếp nhận các dự án có công nghệ sản xuất hiện đại, công nghệ cao
hoặc ít gây ô nhiễm; Các dự án áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn, công nghệ
thân thiện môi trường.
Dựa trên cơ sở quy chuẩn môi trường, chủ đầu tư xây dựng kinh doanh
và hạ tầng KCN xây dựng nội quy cụ thể về nước thải, khí thải, CTR áp dụng cho
các khách hàng trong KCN. Các doanh nghiệp thuê đất tại KCN đều phải tuân thủ
các quy định về XLNT sơ bộ. Tại các tuyến cống thu gom nước thải từ các nhà đầu
tư, cần có các giếng thăm cho phép tiếp cận và lấy mẫu, quan trắc lưu lượng và
chất lượng nước thải từ các nhà máy trong KCN. Chủ đầu tư hạ tầng KCN cần thỏa
thuận rõ ràng với các nhà thầu về chất lượng nước đầu vào trạm XLNT, các biện
pháp kiểm tra, xử lý sự cố.
Các doanh nghiệp định kỳ báo cáo kết quả quan trắc kiểm soát chất lượng
nước thải, khí thải, tình hình quản lý CTR và chất thải nguy hại cho cơ quan quản
lý môi trường địa phương và gửi báo cáo cho đơn vị quản lý hạ tầng KCN. Tiến
hành kiểm tra định kỳ 2 lần/năm toàn bộ hệ thống thoát nước, XLNT của các
doanh nghiệp, để có thông tin và đưa ra các giải pháp xử lý thiết thực.
Trạm XLNT KCN cần có nguồn phát điện dự phòng. Trạm cần được
thiết kế, xây dựng, vận hành với đầy đủ các giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu, khắc
phục sự cố. Quản lý, giám sát chặt chẽ, phát hiện, ứng phó tại chỗ và thông báo kịp
thời cho các đơn vị chức năng (Chi cục BVMT, Cảnh sát Môi trường...) phối hợp
giải quyết.
Về lâu dài, cần hướng tới việc thiết kế, xây dựng trạm XLNT tiên tiến, thân
thiện với môi trường và bền vững. Áp dụng các biện pháp như chọn vị trí và bố trí
mặt bằng các công trình hợp lý; Các giải pháp thay thế Clo để khử trùng nước thải

sau xử lý; Đặc biệt quan tâm đến việc xử lý và thải bỏ bùn, tái sử dụng/tuần hoàn
16


nước thải, tận dụng nhiệt và các dòng năng lượng khác trong trạm XLNT và trong
KCN; Đầu tư cho Phòng thí nghiệm hỗ trợ vận hành và kiểm soát XLNT; Chú
trọng đến việc chuẩn bị, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tiếp nhận và vận hành
trạm XLNT...
Đối với các cơ quan QLNN về BVMT.
Cần tập trung đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận
thức và ý thức của cộng đồng và chủ đầu tư các KCN, CCN, các doanh nghiệp về
BVMT, kiểm soát ô nhiễm. Theo dõi, thu thập thông tin thường xuyên. Phát triển
mạng lưới cộng tác viên, nhân dân, phát hiện kịp thời các hành vi sai phạm. Xây
dựng mối quan hệ đối tác, cùng chung tay bảo vệ sức khỏe cộng đồng và BVMT,
đồng thời bảo vệ quyền lợi, sự công bằng của những doanh nghiệp tuân thủ pháp
luật, bên cạnh việc kiên quyết xử lý các vi phạm.

Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về quản lý ô nhiễm nước thải công
nghiệp, khắc phục những chồng chéo và những khoảng trống. Xây dựng quy trình
cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn của lực lượng Cảnh sát Môi trường, sự
phối hợp với các cơ quan khác như: Thanh tra, Chi cục BVMT địa phương, các chế
tài xử lý vi phạm.
Xây dựng các chương trình, dự án tăng cường năng lực của đội ngũ cán
bộ quản lý môi trường một cách dài hạn, bài bản, có hệ thống, kết hợp với trang bị
các phương tiện và thiết bị phù hợp phục vụ quan trắc ô nhiễm nước thải công
nghiệp, ứng dụng các công nghệ hiện đại trong quan trắc môi trường, cảnh báo và
phát hiện sự cố ô nhiễm như GIS, SCADA... Khai thác, sử dụng dữ liệu các trạm
17



quan trắc tự động (AMS), lắp đặt tại các KCN theo quy định của Thông tư
08/2009-BTNMT và Thông tư 48/2011-BTNMT. Có cơ chế chia sẻ dữ liệu, khai
thác hệ thống trang thiết bị và các nguồn lực quản lý môi trường của địa phương,
các cơ sở đào tạo và nghiên cứu, các doanh nghiệp và các KCN, CCN một cách
hiệu quả nhất.
Kiểm tra thường xuyên việc chấp hành các quy định của các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các doanh nghiệp về kiểm soát ô nhiễm,
theo phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh".
Xây dựng bộ chỉ số, chỉ tiêu ô nhiễm đặc thù cho các loại hình sản xuất,
cho các KCN, CCN để có được thông tin xác thực về sự tuân thủ quy định và các
trường hợp vi phạm, với thời gian nhanh nhất và chi phí ít nhất. Sử dụng các chỉ thị
sinh học (nhất là ở khu vực nguồn tiếp nhận nước thải), các phương pháp đánh giá
nhanh, kết hợp với các phương thức quan trắc truyền thống. Bên cạnh các chỉ tiêu
về nước thải, cần quan tâm đến kiểm tra xử lý mùi, tiếng ồn, bùn và CTR các loại
từ trạm XLNT.
Khi kiểm tra, đánh giá hoạt động của trạm XLNT, bên cạnh việc lấy mẫu
phân tích chất lượng nước một cách có hệ thống và đúng tiêu chuẩn, còn có thể
nhận biết thực tế hoạt động của trạm XLNT thông qua các thông số như: sổ sách
ghi chép tại phòng thí nghiệm trong trạm XLNT, các số liệu về tiêu thụ điện, nước,
hóa chất, thông tin về vận chuyển bùn, hồ sơ vận hành, kết quả quan trắc, phân tích
mẫu, dữ liệu theo dõi vận hành hệ thống (nếu có) tại trạm XLNT; Quan sát các
thiết bị vận hành, đo lường, điều khiển... trong trạm XLNT để có thông tin về thời
gian vận hành, việc tuân thủ quy trình vận hành bảo dưỡng hệ thống, công trình và
thiết bị. Quan sát màu nước thải trong các bể xử lý, nhất là bể xử lý sinh học, nồng
độ bùn trong bể xử lý sinh học, mùi của nước thải.. .Quan sát thực tế hoạt động của
18


máy làm khô bùn, lượng bùn phát sinh. Một trạm XLNT có công trình làm sạch
sinh học hoạt động ổn định thường có lượng bùn phát sinh liên tục, với số lượng ổn

định; Phối hợp với cơ quan thuế, đơn vị cung cấp nước sạch, điện, thu gom chất
thải... tìm mối liên hệ giữa doanh thu, lượng điện, nước, nguyên vật liệu sử dụng,
lượng sản phẩm làm ra, lượng chất thải chở đi... với lượng nước thải xả ra môi
trường, làm cơ sở đối chứng, đánh giá sự xác thực báo cáo của doanh nghiệp.
Mục tiêu về cấp nước
Đến năm 2020:
Tỷ lệ bao phủ cấp nước đối với các đô thị loại IV trở lên đạt 90%, tiêu chuẩn
cấp nước là 120 lít/người/ngày đêm; các đô thị loại V đạt 70% được cấp nước từ hệ
thống cấp nước tập trung với tiêu chuẩn cấp nước 100 lít/người/ngày đêm; chất
lượng nước đạt quy chuẩn quy định.
Đến năm 2025:
Tỷ lệ bao phủ dịch vụ cấp nước sạch tại các đô thị đạt 100%, với tiêu chuẩn
cấp nước bình quân đạt 120 lít/người/ngày đêm, chất lượng nước đạt quy chuẩn
quy định.
Dịch vụ cấp nước ổn định, liên tục 24 giờ trong ngày, áp lực nước trên toàn
mạng đạt quy chuẩn quy định.
Mục tiêu Thoát nước
19


Đến năm 2020:
Các đô thị loại III trở lên có hệ thống thu gom và trạm xử lý nước thải sinh
hoạt tập trung; nâng tỷ lệ nước thải sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn
quy định lên 60%. Tại các đô thị loại IV, loại V và các làng nghề 40% nước thải
được xử lý đạt quy chuẩn quy định.
Đến năm 2025:
Các đô thị từ loại IV trở lên có hệ thống thu gom và trạm xử lý nước thải
sinh hoạt tập trung; tỷ lệ nước thải sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt 70 - 80%,
nước thải sau xử lý đạt quy chuẩn quy định. Tại các đô thị loại V, 50% nước thải
được xử lý đạt quy chuẩn quy định.

Các làng nghề có trạm xử lý tập trung hoặc phân tán, hoạt động thường
xuyên, chất lượng nước thải xả ra môi trường đạt quy chuẩn quy định.
Tái sử dụng từ 20 - 30% nước thải cho nhu cầu nước tưới cây, rửa đường và
các nhu cầu khác tại các đô thị, khu công nghiệp.
Mục tiêu về công nghiệp đến năm 2020
100% khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung
đạt TCMT/QCMT, trong đó 50% sử dụng thiết bị và công nghệ trong nước.
100% số cơ sở công nghiệp áp dụng CN xử lý nước thải.
20


Mục tiêu cấp nước và vệ sinh nông thôn đến 2020
80% dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn chất lượng quốc
gia, với số lượng tối thiểu 60 lít/người-ngày.
90% hộ gia đình nông thôn sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh.
90% các hộ chăn nuôi có chuồng, trại hợp vệ sinh.
100% các cơ sở công cộng: trường học, nhà trẻ mẫu giáo, UBND xã, trạm y
tế, chợ nông thôn được sử dụng nước sạch và nhà tiêu HVS, và có chỗ rửa tay.
Phát triển công nghiệp môi trường
Phát triển công nghiệp môi trường là một cách đáp ứng các nhu cầu dịch vụ
hiện nay trong các hoạt động BVMT. Ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ký
quyết định số 1030/QĐ-TTg ngày 20 tháng 7 năm 2010 phê duyệt đề án phát triển
ngành Công nghiệp Môi trường Việt Nam đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm
2025. Đây là bước tiến mới đối với ngành này. Trên thực tế, nhiều hoạt động của
nó đã có từ rất sớm.
Việt Nam cũng đang hình thành ngành công nghiệp tái chế nhằm giải quýết
nhu cầu phát sinh của công nghiệp và tiêu dùng.
Để đạt mục tiêu về cấp thoát nước -xử lí nước, nước thải đô thị, công
nghiệp, cần phát triển các công nghệ xử lý nước, nước thải đô thị, nông thôn thích
21



hợp, đặc biệt là các công nghệ chiếm ít mặt bằng, ít chi phí năng lượng, có kỹ thuật
vận hành thích hợp với trình độ công nhân.

KẾT LUẬN
Phát triển cấp thoát nước, xử lý nước, nước thải đô thị, công nghiệp, bệnh
viện, làng nghề, đáp ứng các mục tiêu đề ra là những cơ hội và thách thức rất lớn
Hướng tới phát triển công nghệ và công nghiệp môi trường trong đó có
ngành công nghệ và công nghiệp Nước.
Hoạt động môi trường, bên cạnh khu vực dịch vụ công nghệ môi trường,
trong đó có công nghệ xử lý nước, nước thải đã có sự tham gia của khối tư nhân
trong và ngoài nước, dưới nhiều hình thức cá nhân, tổ chức, công ty, liên danh, liên
kết với quy mô ngày càng lớn.
Các dịch vụ của ngành nước và công nghiệp môi trường của Việt Nam cũng
ngày càng đa dạng, năng lực và giá cả ngày càng cạnh tranh. Trong lĩnh vực xử lý
nước, nước thải, có nhu cầu rất lớn.

22


CHƯƠNG II. CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI TRÊN THẾ GIỚI VÀ
VIỆT NAM.

CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI TRÊN THẾ GIỚI.
23


Công nghệ xử lý nước thải AFBR
Giới thiệu chung


Công nghệ AFBR (Advance Fixed Bed Reactor) là một công nghệ được
GREE phát triển từ công nghệ FBR (Fixed Bed Reactor) được bổ sung hệ thống
sensor cảm biến DO và hệ thống điều khiển tự động hệ thống cung cấp dưỡng khí
gíup điều chỉnh hàm lượng oxi trong nước luôn ở nồng độ tối ưu đem lại hiệu quả
xử lý vượt trội đồng thời tiết kiệm điện năng tiêu thụ.
Công nghệ FBR (Fixed Bed Reactor) là một công nghệ của GREE được
ứng dụng để xử lý các chất hữu cơ hòa tan có trong nước thải cũng như một số chất
vô cơ như H2S, sunfit, ammonia, nitơ…
Dựa trên cơ sở hoạt động của vi sinh vật phân hủy chất hữu cơ gây ô
nhiễm làm thức ăn để sinh trưởng và phát triển, hệ thống FBR (Fixed Bed Reactor)
áp dụng tích hợp cả 3 quá trình sinh học bùn hoạt tính lơ lửng, quá trình tuỳ nghi
khử nitơ phốt pho và quá trình vi sinh vật sinh trưởng ở dạng dính bám trên vật
liệu tiếp xúc đặt trong hệ thống. Điều kiện để áp dụng quá trình FBR (Fixed Bed
Reactor) đòi hỏi cần có sự phân lập và phối hợp cộng sinh hiệu quả của 3 chủng vi
sinh:
Chủng vi sinh hoạt tính lơ lửng: achromobacter, alcaligenes, arthrobacter,
citromonas, flavobacterium, zoogloea…
24


Chủng vi sinh tuỳ nghi: nitrosomonas, nitrobacter, nitrosospira,
dethiobacillus, siderocapsa, methanonas, spirillum, denitrobacillus, moraxella,
thiobacillus, pseudomonas …
Chủng vi sinh dính bám: arcanobacterium pyogenes, staphylococcus aureus,
staphylococcus hyicus, streptococcus agalactiae, Corynebacterium
Trong quá trình vận hành một hệ thống xử lý nước thải, chi phí vận hành
đáng kể nhất của là chi phí điện năng và hoá chất tiêu thụ. Hệ thống phân phối khí
bọt mịn trong hệ thống AFBR được GREE thiết kế có thể tăng lượng ôxy hoà tan
trong nước lên đến 28%. Quá trình thực hiện đạt hiệu quả cao có thể tiết kiệm điện

năng tiêu thụ cho hệ thống cung cấp dưỡng khí khoảng 40%. Hơn nữa, AFBR có
thể giảm thiểu việc sử dụng hoá chất bằng cách tăng nồng độ MLSS của các chủng
vi sinh nuôi cấy.
Hệ thống AFBR của GREE có khả năng điều chỉnh giảm công suất máy
thổi khí trong thời gian đầu khi dự án đi vào quá trình hoạt động mà vẫn chưa hoạt
động hết công suất giúp tiết kiệm chi phí vận hành và bảo trì luôn ở mức thấp nhất.

Phạm vi ứng dụng.
Công nghệ AFBR thích hợp ứng dụng trong các lĩnh vực sau:

25


×