Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Âm thanh cơ bản Âm thanh cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.26 KB, 17 trang )

Âm thanh cơ bản
MỤC LỤC :
Lời nói đầu.
Chương 01 : Thiết bị và dụng cụ âm thanh.

I / Các loại dây, đầu nối tín hiệu.
II / Các thiết bị thu âm (Microphone).
III/ Các thiết bị Pre-ampli (tiền khuyếch đại).
IV/ Các thiết bị kỹ xảo (effect).
V / Các thiết bị tăng âm (amplifier).
VI/ Các thiết bị phát âm (loa)(speaker).
Chương 02 : Các lý thuyết cơ bản về âm thanh.
I / Định nghĩa về âm thanh.
II / Các thông số kỹ thuật.
III/ Cách vận hành các thiết bị.
Lời nói đầu :

Trong tất cả các hoạt động về sân khấu (ca nhạc,kịch v,v), âm thanh và ánh
sáng là những lãnh vực không thể thiếu được, nó hòa nhập vào chương trình
như xương sống và kịch bản là linh hồn của buổi biểu diễn vậy.
Thời gian gần đây, trình độ kỹ thuật của thế giới càng ngày càng tiến triển
vượt bậc. Các thiết bị nâng cấp mau chóng để đáp ứng nhu cầu thưởng thức
của quần chúng. Các kỹ thuật viên chúng ta phải học hỏi nhiều để nâng cao
nghề nghiệp. Vấn đề là ở VN chưa có trường lớp nào dạy bộ môn này cả,
sách vở cũng quá ít, hầu hết là sách ngọai ngữ. Tất cả chúng ta đều phải học
hỏi qua kinh nghiệm của người đi trước hay trong quá trình làm việc của bàn
thân. Gần đây, nhờ có Internet WWW nên ta có cơ hội học hỏi thêm những
tiến bộ kỹ thuật trong nghề nghiệp.
Nay tôi post lên trên blog này một số kinh nghiệm về những kỹ thuật trên.
Trong bài này là những kỹ thuật cơ bản nhất mà các bạn mới vào nghề cần
phải nắm bắt. Tôi sẽ post dần dần, những kỹ thuật nâng cao, xin mời các bạn


comment. Xin các bạn vui lòng bổ sung thêm cho những sai sót (nếu có)
trong post này vì trong kỹ thuật, không ai có thể hoàn hảo cả.
Chương 01 : Thiết bị và dụng cụ âm thanh.

Phần này, xin nói trước, chỉ giới thiệu sơ lược về các thiết bị âm thanh mà
thôi. Cho nên, trong khi đọc, các bạn có thể không hiểu một số vấn đề nào
đó. Nó sẽ được giải nghĩa thêm vào các phần sau.
I / Các loại dây , đầu nối thiết bị .
-Dây tín hiệu :

Trong lãnh vực âm thanh, giữa hai thiết bị với nhau ,đều được nối với nhau


bằng một loại dây tương tự như dây điện. Nhưng để tránh xảy ra hiện tượng
noise (nhiễu), dây này được thiết kế đặc biệt hơn các loại dây thông thường.
Đơn giản nhất là là một sợi dây điện nhiều sợi có bọc nhựa mềm được bao
quanh bởi một lớp giáp bằng những sợi dây diện nhỏ mềm kín tất cả chu vi.
Dây này được gọi là dây tín hiệu đồng trục (coaxial signal wire).Loại dây trên
chỉ được dùng trong các máy dân dụng vì khả năng chống noise kém và
không thể nối dài quá 3 mét (10 feet) mà không bị hao hụt tín hiệu.
Chuyên nghiệp hơn (Professional), loại dây chúng ta phải dùng là loại dây
cũng có 1 giáp nhưng bao quanh 2 sợi dây điện mềm (dây balance). Tính
năng loại này chống noise cao và có thể kéo dài tối đa 300 mét (1000 feet).
-Audio link :

Thông thường, bàn điều khiển âm thanh (sound console) đặt cách xa sân
khấu biểu diễn. Nếu chúng ta phải thiết kế vài chục sợi dây tín hiệu thì quá
bất tiện. Thế nên, chúng ta phải dùng một sợi dây gọi là audio-link có sẵn vài
chục sợi dây tín hiệu nhỏ bên trong, hai đầu là jack XLR3 đực và cái. Thường
là 12 input + 2 output hay 16 + 4, 20 + 4, 24 + 6 hoặc hơn nữa. Với chiều dài

100 feet, 200 feet v/v…
-Dây loa (speaker wire) :

Trên lý thuyết chúng ta có thể xử dụng bất kỳ loại dây dẫn điện đôi nào miễn
nó có tiết diện đủ lớn và phân biệt được 2 sợi với nhau là có thể làm dây loa
được rồi.
Trên thị trường trong nước hiện nay, thông dụng nhất cho chúng ta xử dụng
là loại dây đôi do Nhật sản xuất có lớp nhựa trong cho thấy lõi bên trong hai
loại dây kim loại màu trắng bạc ta gọi là – (cold) và màu đồng ta gọi là + (hot).
-Các loại đầu nối (jack, connector) :

Tất cả các loại jack đều có hai cái đi từng cặp male và female (đực và cái) .
Riêng tên gọi này tiếng Việt ta dịch sát nghĩa nhất (các bạn cứ việc tưởng
tượng là đủ hiểu).
-Phone jack (jack 6 ly) : còn gọi là ¼” connector ,khi hàn với dây tín hiệu ,các
bạn nhớ phân biệt ground (mát) , cold (trừ) , hot (cộng) theo hình kèm sau
đây. Riêng phone jack mono chỉ có hai cực thôi, trừ và mát nhập chung.
-RCA jack (jack hoa sen) : loại này thường dùng để nối các loại máy phát nhạc
(CD, Tape) với mixer ,ta chỉ cần dùng dây kèm theo máy là được.
-XLR3 jack (jack canon) : Jack thông dụng nhất trong các loại đầu nối tín hiệu.
Nó được dùng trong hầu hết các thiết bị âm thanh chuyên nghiệp. Từ
microphone, mixer , effect,amplifier đều phải xử dụng nó.
Cách nối nó với dây tín hiệu như sau :
Trong trường hợp đấu nối các loại jack có 3 cực , các bạn phải để ý tới cách
đấu balanced và unbalanced (sẽ giải thích rõ vấn đề này ở chương 02 phần
1).


-DIN jack (jack 5 chân) : Đó là một bộ jack đực, cái 5 cực (xem hình) dùng để
nối các tín hiệu âm thanh với nhau. Trong các hệ thống âm thanh dân dụng,

một cách tiện lợi và đơn giản, nó nối input output stereo của các thiết bị band,
đĩa với ampli chỉ bằng độc nhất một sợi dây tín hiệu.
-Jack speakon : Phần này nói tới đầu nối các thiết bị loa và amplifier. Ở các hệ
thống âm thanh cũ, thường nối các thiết bị này mà không cần đầu nối, nghĩa
là đằng sau amplifier và loa có những cọc điện và chúng ta chỉ cần lấy dây
loa nối chúng lại theo từng cặp có đánh dấu + - là xong hoặc dùng phone jack
đực cái làm đầu nối. Tuy nhiên cả hai cách này đều có những khuyết điểm :
khó làm và không an toàn. Gần đây các hãng sản xuất đều dùng jack
speakon vì những ưu điểm sau :
- Các chấu nối rất chắc , không thể tuột ra được.
- Một jack có thể từ 1 đến 3 way trong mỗi thùng loa
-An toàn và tiện lợi cho người sử dụng.
II / Các thiết bị thu âm (Microphone) :
Microphone có rất nhiều loại, nhưng khái quát, chúng ta có thể chia ra 3 loại
theo cách cấu tạo sau :
- Loại Dynamic (điện động) : Cấu tạo bởi một màng mỏng gắn vào một vòng
gồm nhiều lớp dây đồng, đặt trong một từ trường (nam châm vĩnh cửu) . Khi
có tác động của âm thanh lên màng sẽ tạo ra một tín hiệu điện xoay chiều.
Loại này được ngành âm thanh chúng ta sử dụng rộng rãi nhất.
-Loại Ruban (Ruybăng) : Cũng như trên, nó có một từ trường bằng nam
châm vĩnh cửu nhưng bao quanh giải nhôm thật mỏng có khi đựơc gấp nhún
để tăng độ nhậy cơ học. Loại này được xem là nhậy (sensitivity) nhất nhưng
rất dễ hư khi gặp chấn động mạnh, ngay cả khi thổi mạnh vào nó cũng có thể
gây ảnh hưởng chất lượng nên chỉ được sử dụng trong các phòng thu âm.
-Loại Condenser (Tụ điện) : Loại này gồm 2 màng kim lọai mỏng đặt lên
nhau, ở giữa là môt lớp cách điện tương tự như cấu tạo của một tụ điện. Khi
áp với nó một điện tích DC, nó sẽ gây ra một tín hiệu điện nếu có âm thanh
làm rung 2 màng kim loại đó, bằng cách thay đổi điện dung. Trong thực tế,
nguồn cấp điện này do Mixer cung cấp gọi là Phantom, nó đưa một nguồn
điện DC + 40 volt dòng rất nhỏ vào tất cả các Jack XLR3 input của mixer.

Microphone có rất nhiều kiểu dáng tuỳ theo các hãng nổi tiếng sản xuất như
Electro voice, Sennheiser, Shure, AKG,Neumann,RCA v/v… Nhưng chúng ta
chỉ lấy một nhãn hiệu Shure để làm mẫu vì trong lãnh vực âm thanh thế giới
và Việt Nam, nó rất thông dụng.
Model Shure thông dụng nhất là SM 58 sử dụng cho ca sĩ, nó thu giọng hát
trung thực và không bị tạp âm (xem hình).
SM 57 sử dụng cho hầu hết các nhạc cụ như Trống (drum), Guitar ampli v/v…
SM 87 là loại condenser , sử dụng Mixer phải có Phantom.
Ngoài series SM, Shure còn có series Beta, cấu tạo giống như SM, nhưng có
thêm một cuộn dây đồng có tác dụng chống hú (feed-back). Series này rất
hoàn hảo, nhưng giá bán thường gấp đôi series SM.


Để tiện lợi hơn, trên sân khấu chuyên nghiệp còn dùng một loại microphone
như các loại trên nhưng không có dây nối tín hiệu. Đó là micro không dây
(wireless microphone). Nó gồm một micro thường có gắn một máy phát sóng
nhỏ(transmitter) dùng pin khô, và một máy thu sóng (receiver). Ngõ ra
(output) của receiver có tín hiệu như mico thường để nối vào mixer. Tần số
phát sóng là VHF và UHF. Dĩ nhiên dùng UHF chất lượng sẽ cao hơn.
Hình trên là 2 loại wireless microphone của hãng Shure : Series UT cho UHF
va LX cho VHF. Trên lý thuyết của hãng Shure, khoảng cách giữa Microphone
va Receiver có thể đạt tới 100 mét, nhưng khi thực tế sử dụng ta nên đặt tối
đa 30 mét là vừa.
III / Các thiết bị pre-ampli (tiền khuếch đại).

Các thiết bị như microphone hay nhạc cụ đều có tín hịêu rất
nhỏ, khoảng –40 dB đến –20 dB. Bởi thế, chúng cần phải khuếch đại lên một
điện thế chuẩn để có thể chỉnh sửa lại một cách dễ dàng. Nhiệm vụ này là
của Mixing console (bàn điều khiển âm thanh) (Mixer).
-Mixing console :


Mixer có thể có từ 4 đến 64 ngõ vào (input) hay còn gọi là channel và khá
nhiều ngõ ra (output).
Ngõ input thông thường là một jack XLR3 cho microphone balanced hay một
phone jack cái cho tín hiệu line in. Có thể có thêm một phone jack cái stereo
có tên Insert làm nhiệm vụ ngắt tín hiệu mở đầu đưa sang một thiết bị khác
và lại đưa trở về cùng một phone jack. Nếu không xử dụng jack này, nó chỉ là
một điểm nối tiếp của tín hiệu. Kế đến là một biến trở Sens (sensitivity) hoặc
Gain (độ lợi) điều chỉnh độ nhậy của tín hiệu input từ –20 dB đến + 20 dB cho
mỗi ngõ vào. Sau đó là một tổ hợp biến trở dùng để điều chỉnh âm sắc
(equalizer) cho từng channel. Thông thường là 4 biến trở chính : High hay
Treble (chỉnh tần số cao), Mid hay Medium (chỉnh tần số trung bình) , Mid pos
(ấn định tần số Mid cần điều chỉnh), Low hay Bass (chỉnh tần số thấp). Sau
đó là 2 hay nhiều biến trở khác có tên Send 1, Send 2, 3 v/v … điều chỉnh âm
lượng của chính channel đó gởi (send) sang một hay nhiều thiết bị chỉnh sửa
khác. Một biến trở khác có tên là Panpot (pan) hay balance đưa tín hiệu sang
trái (left) hay phải (right) của ngõ ra stereo. Sau đó là một nút nhấn Mute
(câm) làm tắt lập tức tín hiệu của channel này, không chuyển sang bất kỳ một
thiết bị nào khác. Chung quanh nút này có thể có thêm một đèn led báo hiệu
channel đã bị khóa và một đèn báo đang có tín hiệu hoạt động (nhấp nháy).
Cuối cùng là một biến trở dạng gạt loại lớn gọi là Fader (volume) sẽ là nơi
điều chỉnh âm lượng chính cho từng channel. Bên cạnh và song song là
những nút nhấn đưa tín hiệu sang những track âm thanh (sub, group) ta
được chọn. Thí dụ: group 1-3, group 2-4 , nhấn group nào sẽ đưa sang track
tương ứng.
Tín hiệu âm thanh của tất cả các channel sẽ được trộn (Mix) và đưa sang
tầng Output. Có nhiều loại output : Stereo out (master out), Mono out, Track
out, Send out, Group out v/v…
Các mixer chuyên nghiệp đều có thêm nút Phantom. Nút này đưa một điện
thế +40VDC dòng rất nhỏ vào vào tất cả các channel input xử dụng jack



XLR3, khi dùng micro condenser. Loại cao cấp hơn thì mỗi channel có một
nút. Có thể cắm micro dynamic vào khi bấm Phantom, không sợ bị ảnh
hưởng
Thiết bị điều chỉnh âm sắc chính. Nó là một bộ khuếch đại 1/1
nhưng có khả năng tăng , giảm biên độ của từng loại tần số trong giải tần mà
chúng ta nghe thấy được trong khoảng từ 20 Hz đến 18 KHz. Mỗi loại tần số
ta gọi là 1 band. Tùy theo cần dùng, nó có nhiều qui cách : từ 5 đến 31 band
hay hơn nữa, stereo hay mono.
Hình chụp trên là một equalizer dạng 2031, 2 có nghĩa là 2 equalizer mono
trong một thiết bị, 31 là mỗi cái có 31 bands. Vậy 1015, 2015, 1020, 2020
cùng ý nghĩa trên, các bạn cứ việc suy nghĩ theo.
-Equalizer :

Chất lượng equalizer tùy thuộc vào số lựơng band nhiều hay ít, biên độ gia
giảm âm lượng mỗi band lớn, trung bình là ± 12 dB. Trong nhiều loại
equalizer pro (porfessional = chuyên nghiệp) có thêm filter (lọc) những âm
thanh ngoài giải tần nghe được như đã nói ở trên có thể nâng lên từ 40 Hz và
18 KHz. Điều này rất cần thiết vì nó sẽ loại ra được những tạp âm chúng ta
không cần nghe nhưng vẫn ảnh hưởng tới công suất phát âm, thí dụ như
những tiếng rít cao tần, tiếng noise của thiết bị khác. Đa số các trường hợp
cháy loa là do nguyên nhân này. Khi điện năng không sinh ra cơ năng (âm
thanh) sẽ sinh ra nhiệt năng (nguyên lý bảo toàn năng lượng) làm cháy các
thiết bị loa và ampli.
Ngày nay, nhờ kỹ thuật số (digital) tiến triển vượt bậc, người ta đã phát minh
ra Digital equalizer có chất lượng rất cao. Nhờ phân tích được tín hiệu âm
thanh ra thành số nhị phân tương ứng với 24 bit (nghĩa là nó có thể phân tích
được đến tần số 96 KHz) nên khi đưa qua bộ vi xử lý nó có thể làm tất cả
những gì mà các thiết bị Analog (tuyến tính) có thể làm được mà còn hay hơn

rất nhiều, khó có thể tưởng tượng nổi.
-Crossover (chia tần số cho loa) : Tín hiệu ngõ ra chúng ta chỉ có một, nhưng
để ra các loa phát âm thì lại có nhiều loại loa quá. Nào là loa lớn loa nhỏ, loa
màng mỏng loa màng dầy, lại có loại loa bằng kim loại nữa. Mỗi loa chỉ phát
ra được một giải tần số âm thanh nào đó thật tốt mà thôi.
Đối với các loại máy dân dụng (Hifi), hay các thùng loa đơn giản, chúng ta
thường áp dụng mạch LC (cuộn dây và tụ điện) để chia công suất phát ra từ
ampli thành hai hay nhiều ngõ, mỗi ngõ áp lên một loại loa phù hợp. Tổ hợp
này gọi là Mechanic Crossover (bộ chia loa cơ học). Tuy đơn giản và tiện lợi,
nhưng nó có những khuyết điểm lớn : Không chính xác và bản thân nó cũng
đã làm tiêu hao một phần công suất của ampli phát ra. Chính vì điều này,
người ta phải nghĩ ra cách khắc phục những khuyết điểm nêu trên, và
Electronic Crossover (bộ chia tần số điện động) và sau nữa Digital Crossover
(bộ chia tần số kỹ thuật số) ra đời.
Dù là Crossover Electronic hay Digital thì hai loại này đều có các đặc tính
ngoại vi giống nhau :
Một Input nếu là thiết bị mono và hai Input nếu là stereo.
Hai cho tới 4 way output. Nếu 2 thì có High và Low Output, 3 có High – Mid –
Low Output, 4 có High – HiMid – LoMid – Low Output. Thông thường một


thiết bị Crossover chỉ đáp ứng 2 way cho stereo (2 channel), còn nếu sử dụng
3 hay 4 way thì chỉ có mono mà thôi. Nếu muốn làm stereo phải có 2 thiết bị
giống nhau, mỗi cái cho một bên left, right channel. Mỗi way có một biến trở
chỉnh (adjust) tần số cắt (cut) thấp nhất và một biến trở chỉnh biên độ âm
lượng của giải tần được chọn, thoát ra khỏi thiết bị bằng một jack XLR3 male
tương ứng.
IV/ Các thiết bị kỹ xảo (effect).

Trong phần này, chúng ta xét đến các thiết bị ứng dụng điện tử để biến chất

âm thanh mục đích là làm tăng thêm hiệu quả tới người nghe. Xin nói khái
quát về các thiết bị này.
-Echo, delay : Thiết bị này là thành phần chính, không thể thiếu được trong
âm thanh sân khấu. Từ một âm thanh (voice) đơn giản, nó có thể tạo thêm
Echo (tiếng vọng), Delay (lập lại), Reverb (vang ra), Chorus (đồng ca) và
hàng trăm thứ tiếng khác (Multi effect).
Thông thường, chúng ta sử dụng trộn vào Mixer tạo cho tiếng hát của ca sĩ
thêm phong phú. Cũng có khi chúng ta cải tạo âm thanh của một loại nhạc cụ
nào đó. Thiết bị này hiện nay được làm theo kỹ thuật số (digital) , thay thế cho
loại Analog đã lỗi thời, cho nên người sử dụng nên có một trình độ về
computter tương đối khá để có thể lập trình được loại thiết bị này
(programable) .
-Compressor (bộ nén tiếng) : Khi một tín hiệu âm thanh hoạt động, đã được
khuyếch âm và ra tới loa, thường bị biến dạng ít nhiều tùy theo thiết bị sử
dụng. Sự dao động cơ học của màng loa gây ra nguyên nhân này. Nhất là âm
trầm, nó sẽ kéo dài âm thanh ramột chừng độ nhất định ngoài ý muốn của
chúng ta. Điều này tạo ra tiếng rền của loa, rất khó chịu. Để khắc phục khuyết
điểm này, người ta tìm cách xử lý tín hiệu trước khi tăng âm bằng cách cắt
bớt 1 phần biểu thị hình sin của tần số âm thanh. Các bạn hãy làm quen với
những từ biểu thị cách xử lý này : Attach (tấn công), Release (thả), Threshold
(ngưỡng), Limit (hạn chế) v.v.
-BBE (tên hãng sản xuất) hoặc Contour v.v : Cũng là thiết bị xử lý âm thanh.
Nó làm nở ra hoặc co vào 2 cạnh của đường biểu diễn hình sin, làm cho ta
cảm nhận âm thanh có vẻ dầy hơn hoặc mỏng hơn ở giải tần định trước.
Ngoài ra, còn những thiết bị effect khác đều có tác dụng tăng sự thẩm mỹ cho
âm thanh, người viết chưa tiện đề cập trong phần này.
V / Các thiết bị tăng âm (amplifier).
Các thiết bị tăng âm (amplifier) là những thiết bị điện tử cuối cùng trước khi ra
hệ thống loa. Nói đơn giản, nó là thiết bị chuyển tín hiệu AT từ 0 dB thành
năng lượng có thể rung được màng loa (biến đổi điện năng thành cơ năng)

để có thể nghe được. Trước đây, ampli thường được chế tạo bằng transistor
đơn thuần, hiện nay hầu hết làm bằng công nghệ mosfet nên chất lượng rất
cao. Công suất phát ra của dòng ampli pro từ vài trăm watt đến vài ngàn watt,


có thể lên tới 10.000w RMS (từ RMS sẽ giải nghĩa sau ở phần khác) như của
hãng Crest Audio.
Thông thường, ampli là stéreo nghĩa là 2 channel ampli trong 1 gọi là left,
right,1, 2hay A, B. Tín hiệu ngõ vào danh định là 0 dB, có thêm 1 biến trở để
có thể gia giảm. Tổng trở (Z) của ngõ ra loa là 8 Ω. Khi xử dụng loa có tổng
trở càng thấp thì công suất của ampli lại càng cao. Thí dụ ampli sẽ có công
suất 1.000w khi ở 8 Ω, nhưng nếu bạn dùng loa 4 Ω thì công suất ampli sẽ là
2.000w, tăng theo tỉ lệ nghịch. Thấp nhất tối thiểu là 2 Ω. Khi bạn đọc công
suất của ampli thì bạn phải biết rõ công suất RMS ở tổng trở nào mới là đúng.
Công suất danh định của ampli được tính bằng công thức P = U² ⁄ Z với độ
méo tiếng (distortion) nhỏ hơn 1‰, với tần số 1KHz. Trong đó U là điện thế
đo được ở ngõ ra ampli tính bằng volt, Z là tổng trở tải. Như vậy, khi nói công
suất của 1 ampli là 100w ở 4 Ω thì điện thế đo được ở ngõ ra loa bắt buộc
phải lớn hơn 20 volt.
Với SK hiện đại ngày nay thường sử dụng nhiều hệ thống loa cho 1 bên SK,
tương ứng cũng rất nhiều ampli được sử dụng. Thông thường thì 1 bên
(channel) của ampli dùng cho 1 loa gọi là cách stereo (stéreo mode). Nhưng
có thể khai thác tối đa công suất của ampli bằng cách đấu dây 2 loa song
song (parallel) làm hạ tổng trở Z ra của ampli. Cách này thường dùng cho hệ
đấu loa 4 Ω, thấp nhất là 2 Ω.
Hơn thế nữa, bạn có thể đấu dây của cọc xuất ra của ampli theo cách “cầu”
(bridge mode). Đây là cách làm cho 2 channels của ampli như là chồng nối
tiếp lên nhau, công suất có thể tăng gấp 4 lần so với 1 channel. Khuyết điểm
của cách này là tổng trở ngõ ra cao gấp đôi, hạ thấp nhất là 4 Ω nên khó giảm
tổng trở của loa.

Riêng chỉ có hãng Crown của Mỹ (còn có tên là Amcron) còn có thêm cách là
đấu song song (parallel mode) 2 channel của ampli làm một. Cách này có thể
hạ tổng trở xuống 2 Ω (có model tới 1Ω), ngược với đấu cầu. Với 2 cách
Bridge mode và Parallel mode, ngõ vào tín hiệu của amli chỉ xử dụng được 1
(left hay right, A hay B tùy hãng sản xuất) vì lúc này nó chỉ là 1 ampli mono.
Sau đây là 1 thí dụ sự thay đổi tương ứng giữa cách đấu channel ampli +
tổng trở loa và công suất đạt được :
Với ampli 500w stereo danh định ( 250w mỗi bên ở 8 Ω) sẽ có nhiều loại công
suất nếu bạn dùng cách thay tổng trở.
-Stereo mode : 500w at 4 Ω, 1.000w at 2 Ω.(per channel)
-Bridge mode : 1.000w at 8 Ω, 2000w at 4 Ω. (per ampli)
-Parallel mode : 2000w at 4 Ω, 4.000w at 2 Ω. (per ampli)
Các hãng sản xuất thường lấy công suất cách đấu lớn nhất làm công suất
của ampli nên khi xử dụng bạn phải coi kỹ.
Các cọc ra loa thường là cọc quả chuối (banana post) gồm hai cọc đỏ, đen
cho mỗi channel tương ứng +, - của từng channel. Bạn nhớ đấu dây đúng
cho hệ thống loa theo + - nhé. Dưới đây là hình minh họa 3 cách đấu
channel, và nhớ bật switch tương ứng.


Đến đây bạn phần nào hiểu rõ sự quan trọng giữa công suất ampli và tổng
trở loa rồi. Còn một phần quan trọng không kém là dây loa. Với dây loa tiết
diện 1 mm2, trên 1 mét dây đôi, điện trở trong R của nó đo được gần 0.5Ω.
Vậy nếu bạn dùng 8 mét dây loa cho loa 4Ω của bạn, coi như bạn đã bị mất 1
nửa công suất tải trên sợi dây loa rồi đó. Giảm thiểu khuyết điểm này, bạn
phải dùng dây loa tiết diện lớn nhất có thể có hoặc thu ngắn chiều dài lại, đặt
ampli càng gần loa càng tốt. Các thiết bị điều khiển khác, nối với ampli bằng
dây tín hiệu balance thì có dài cũng không sao. Vài mét dây loa làm sao sánh
được hàng trăm watt công suất phải không các bạn?
Như đã nói ở các bài trên, không có ampli nào đáp ứng được mọi giải tần

nghe được của AT. Có vài loại khá full như series CA của Crest Audio,
Dynacord v.v nhưng mắc tiền và hình như họ có filter nên công suất yếu. Với
SK chuyên nghiệp, hệ thống loa có nhiều way, bạn nên dùng loại ampli cho
từng loại loa mà hãng đó khuyến cáo. Thí dụ như với ampli Crown và loa
JBL, model 800 dùng cho loa high và super high, 2400 và 3600 cho mid và lo
mid, sub bass thì phải dùng 5000 là đúng nhất.
VI/ Các thiết bị phát âm (loa)(speaker).
Loa là thiết bị AT làm biến đổi điện năng từ amplifier thành cơ năng, dao động
màng loa phát ra âm thanh. Nó gồm một số vòng dây (coil) kim loại bọc emay
nằm giữa một từ trường do một nam châm vĩnh cửu (>16.000gausse) tạo ra.
Vòng dây này được gắn liền với một màng rung tạo âm, chất liệu màng này
có thể bằng giấy bồi, kim loại (nhôm), cao su v.v tùy thuộc hãng sản xuất. Khi
có dòng điện đa tần từ ampli làm vòng dây và màng rung theo. Tất cả được
một khung sườn làm cố định tất cả làm thành loa hoàn chỉnh.
Khi muốn đáp tuyến tần số của loa cao hơn, thì đổi chất liệu của màng loa
thành fiber hoặc nhôm. Đặc biệt có loại loa làm bằng gốm (ceramic) áp điện
phát ra tần số siêu cao nhưng công suất chịu đựng rất nhỏ nên không thông
dụng.
Loại super high :
Để tiện dụng, không chiếm không gian có hãng còn sản xuất loại loa 2, 3
trong 1 như sau:
Kích thước của một cái loa (chưa có thùng) thì vô chừng, nó có thể nhỏ bằng
đồng xu như loa gốm và lớn thì tới nỗi phải chở bằng xe tải 18 bánh. Tên gọi
bằng đường kính của khung loa tính bằng inch như 10”, 12”, 15”, 18” và ở VN
hay gọi tương ứng bằng 2,5 tấc, 3 tấc, 4 tấc và 5 tấc cũng chưa xác định hết
tất cả các loại loa.
Công suất chịu đựng của loa ấn định bởi lực từ trường của nam châm vĩnh
cửu và sức chịu nhiệt của vòng dây. Khi quá tải, điện năng áp vào vòng dây
không còn sinh thêm ra cơ (động) năng nữa sẽ sinh ra nhiệt năng (nguyên lý
bảo toàn năng lượng) làm coil tăng nhiệt và cháy.

Công suất của loa pro thường được tính theo công suất thực RMS (Root
Mean Square). Như đã viết ở phần amplifier, công suất danh định theo công


thức P = U² / Z chỉ là công suất đo được với độ méo tiếng < 1‰. Nhưng vì nó
là dòng điện xoay chiều hình sin, nên công suất thực tế RMS tính bằng watt
chỉ bằng khoảng 0.774 công suất đo được (danh định). Nhiều nhà sản xuất
còn phân biệt 2 loại công suất RMS của loa là Continuous (liên tục) và Peak
(đỉnh).
Thông số của loa được tính bằng tổng trở Z (impedance), thường là 4, 8 và
16Ω. Cần phân biệt giữa Z (tổng trở) và R (điện trở). Z được đặt bởi nhà sản
xuất tính theo chất liệu của coil và độ từ thông của nam châm. Khi nói loa có
tổng trở 8Ω, thật sự điện trở R đo được dao động khoảng 5, 6Ω. Tổng trở
càng cao, loa dễ đáp ứng tần số thấp hơn, và ngược lại.
Chuẩn giá trị chất lượng của loa được tính bằng số dB đo được ở khoảng
cách xa loa 1mét, khi truyền vào loa 1 tín hiệu có công suất 1 watt RMS với
tần số 1 KHz, không có thiết bị cộng hưởng AT kèm theo. Cách tính này chỉ
đúng một cách tương đối, không thể căn cứ để đánh giá trị của loa được.
Nói về các loại loa. Loa có màng càng lớn thì sẽ cho ra âm trầm nhiều hơn và
ngược lại. Loa đáp ứng được dải tần số rộng gọi là loa full- range, thực tế ít
có loa nào đáp ứng được điều này. Loại loa hình Oval (bầu dục, hột xoài) vì
hình dáng của nó vừa có cạnh hẹp lại có cạnh rộng, nghĩa là vừa có treble lại
có bass. Nhưng công suất của loại này thấp nên chỉ dùng cho dòng Hi-Fi, TV
và xe ôtô thôi.
Thiết bị quan trọng không kém loa là thùng loa. Đây là thiết bị hỗ trợ cho loa
tăng thêm công suất phát âm và cố định loa. Trước hết thùng loa phải chắc
chắn, có tính thẩm mỹ, cộng hưởng với loa trầm tốt. Mẫu mã là do các nhà
sản xuất tạo ratùy theo công dụng. Loa mid-range thường có thêm chóa (còi)
còn gọi là Horn hình dáng như cái tù và để định hướng và khuyếch đại AT.
Loại có AT cao hơn là tweeter hay super high. Đôi khi có thêm một màng kim

loại chắn trước loại này để dịu bớt những âm sắc khó chịu.
Riêng loại thùng dùng cho monitor đặt trên SK thì có thể đặt theo nhiều góc
độ để người nghe được thuận tiện nhất.
Trong một thùng loa có thể có nhiều loại khác nhau. Như đã nói ở bài trên, có
thể dùng Electronic Crossover (bộ chia tần số điện động) chia công suất
ampli cho từng loại loa. Đơn giản hơn thì dùng Mechanic Crossover (bộ chia
loa cơ học). Mạch LC gồm những linh kiện cuộn dây và tụ điện kết hợp. Sau
đây là hình chụp một mạch crossover chia 3 way (1 input -> 3 output) tự chế.
Khi đấu dây loa, nhớ gắn đúng 2 cực dương và âm (+ -) mà nhà sản xuất đã
đánh dấu bằng 2 màu đỏ và đen. Trường hợp mất dấu, không xác định được
2 cực, có thể dùng nguồn pin 9 VDC quẹt nhẹ vào cực loa và đổi chiều dòng
điện. Chiều nào nguồn điện tác động vào màng loa đẩy ra thì theo hai cực (+
-) của pin mà đánh dấu. Riêng loa từ mid trở lên vì màng cứng, không phân
biệt được chiều màng đẩy ra, chi còn cách dùng thiết bị chuyên dùng đo
phase mà thôi (phase detector).
Việc đấu dây đúng cực rất quan trọng. Nếu chỉ có 1 loa hoặc loa đặt xa nhau,
nếu có đấu sai cực cũng không ảnh hưởng gì nhiều. Nhưng trong SK chuyên


nghiệp, việc sử dụng rất nhiều loa giống nhau, đặt gần nhau, và phát cùng
một tần số là thông dụng. Một nguyên lý về âm học : Khi hai âm thanh có tần
số giống nhau nhưng nghịch phase đặt gần sát bên nhau, âm lượng phát ra
sẽ cộng hưởng đối xứng và sẽ bị “triệt tiêu”. Các bạn thấy điều này cực kỳ
quan trọng phải không? Vậy khi đấu dây loa, bạn nhớ chú ý nhé.
Đến đây là hết chương 1 giới thiệu những thiết bị AT SK. Chương kế tiếp là
những phần thông số và hướng dẫn một số kỹ thuật AT. Hết loạt bài về AT cơ
bản này, tôi xin giới thiệu với các bạn 1 đĩa DVD dài 75 phút hướng dẫn
những thao tác thực tế để setup một dàn AT chuyên nghiệp. DVD này có tựa
đề : “How to run your PA system” do nhiều hãng sản xuất thiết bị AT như JBL,
Shure, Soundcraft, ART, v.v hợp tác làm. Mời các bạn nhớ đón xem.

Chương 02 : Các lý thuyết cơ bản về âm thanh.
I / Định nghĩa về âm thanh.
Âm thanh trong thế giới tự nhiên (natural sound), đường biểu diễn bắt buộc
phải là một hình sin cơ bản. Đó là những voice chúng ta nghe được chung
quanh ta như những tiếng động, lời nói v.v , không phải do những thiết bị điện
tử phát ra. Giải tần số mà con người nghe được nằm trong khoảng từ 20Hz
đến 18KHz, nhưng cũng có ngoại lệ (tôi đã từng thử nghiệm thực tế có một
soundman VN có thể nghe tới 24,5 KHz, rất hiếm có). Nhiều sinh vật khác
như chó, mèo có thể nghe được giải tần cao hơn nhiều so với con người
(siêu âm).
Âm thanh hình sin là AT đơn giản, giống như phát ra ở máy phát sóng hạ tần.
Những AT ta nghe thật ra là do nhiều họa tần chồng lên tạo thành. Bạn có thể
vào window media player, nghe một bài nhạc bất kỳ rồi chọn bar and waves =
Scope sẽ thấy được hình biểu diễn của những sóng AT này.
Từ khi có những thiết bị điện tử, âm thanh nhân tạo bắt đầu hình thành.
Khoảng đầu thập niên 70 những nhà sản xuất organ như hãng Yamaha đã
dùng công nghệ chỉnh sửa âm thanh gốc tạo thành những AT không thể có
trong thế giới tự nhiên. Từ những model organ như IC 30, rồi tới series SK
bắt đầu tạo thành những lãnh vực âm thanh mới gọi là Synthesizer. Vậy là tùy
hứng, ta có thể chỉnh, sửa, bẻ cái hình sin thành những hình bất kỳ nào, nếu
muốn. Vuông, tròn, nhọn, răng cưa hoặc trên tròn dưới nhọn v.v đều ra một
voice khác nhau, nhưng âm vực đều giống nhau là vì nó cùng chung một tần
số. Bạn nào là nhạc công, nhạc sĩ có lẽ đã biết sự tương ứng giữa tần số AT
và các nốt nhạc. Các nhạc cụ điện tử hiện đại hoặc những AT trong những
bài disco là áp dụng của phương thức này, hoàn toàn không có trong thế giới
tự nhiên.
Từ khi có kỹ thuật số ra đời, thì việc chỉnh sửa AT lại càng dễ dàng hơn,
muôn hình vạn trạng. Nhưng chưa chắc sửa lại thì nghe hay hơn đâu. Các
hãng sản xuất phải dày công nghiên cứu, thỉnh thoảng mới đưa ra được một
công nghệ mới được.Thí dụ, bạn muốn AT nghe có cảm giác “dầy” hay

“mỏng” hơn, thì có thể lấy BBE chỉnh cho cái hình sin có hai cạnh biên mập ra
hay ốm bớt là xong. Còn muốn nghe “bén” một tí thì vuốt cái đầu hình sin cho
nó nhọn hơn bằng một thiết bị khác. Còn nhiều cách khác, nhưng chung qui
chỉ là xoay quanh chuyện chỉnh sửa cái hình sin đó thôi. Và cũng chính vì có
thể chỉnh sửa được, mà có nhiều ca sĩ trong studio thì hát rất hay mà khi ra


hát live thì nghe khác hẳn, là do AT live hầu như ít khi sửa, chỉ khuếch đại và
điều tiết âm sắc.
Độ sái giọng (méo tiếng) (distortion) là so sánh giữa tín hiệu hình sin chuẩn
input và output ra. Kỹ thuật cao cần độ distort dưới 1‰. Nếu bạn nhìn bằng
oscilloscope mà thấy hình sin vừa hơi méo một tí là đã méo cả vài chục % rồi,
phải có máy chuyên dùng mới đo được chính xác. AT mà nghe bể, rè, nghẹt
là đã có sự distort ở tầng nào đó rất nhiều rồi, phải khắc phục nhược điểm
này trước tiên.
Một thiết bị khác rất quan trọng là dây dẫn tín hiệu. Nếu sử dụng dây
unbalance (1 giáp+1 ruột) thì không thể truyền đi xa được. Kéo dài sẽ bị giảm
biên độ và giảm nhiều hơn ở tần số cao. Giảm biên độ còn xử lý được bằng
cách nâng khuếch đại, nhưng giảm giải tần thì bó tay. Chưa kể còn dễ bị
nhiễu (noise) bởi những thiết bị khác và ngay cả trong sợi dây như tiếng vỗ
dây chẳng hạn. Chỉ có thể giảm bớt khuyết điểm trên bằng cách hạ tổng trở Z
của nguồn tín hiệu. Tuy tổng trở của microphone đã hạ thấp tới 200Ω và tín
hiệu là 600Ω nhưng cũng chỉ giới hạn độ dài tối đa là 50 feet (16 mét). Về sau
phát minh ra cách sử dụng dây balance (1 giáp+ 2 ruột) thì khuyết điểm trên
mới hoàn toàn được khắc phục.
Tín hiệu đi trong dây balance gồm 1 phase + dẫn tín hiệu bình thường như
dây 1 ruột. Dây còn lại là phase – có tín hiệu ngược phase đối xứng với
phase +. Vì mang cùng lúc 2 tín hiệu này nên nếu có những tín hiệu lạ khác
với 1 trong hai (như là noise), sẽ bị triệt tiêu. Sợi dây nào giảm biên độ sẽ có
sợi kia bù lại khi dẫn tới thiết bị khác. Vì vậy, trên lý thuyết, dây balance có

thể kéo dài tối đa tới 1000 feet (300 mét).
Trước đây, thiết bị điện tử AT phải dùng biến áp loại nhỏ để tạo buffer balance
cho các ngõ in out, sau này nhờ có op-amp nên đơn giản hóa đi nhiều. Trong
một hệ thống âm thanh cũng cần chú ý khi hàn dây tín hiệu giao tiếp. Chỉ cần
1 sợi dây hàn ngược cực 2, 3 của jack XLR3 sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng của cả hệ thống.
Lý thuyết về âm thanh thì đơn giản chỉ có vậy, nhưng rất quan trọng. Là
soundman, bạn phải tìm hiểu thêm âm thanh là gì, rồi khi qua thiết bị này,
thiết bị kia thì nó sẽ biến đổi ra sao ? Bạn hãy tự tập suy nghĩ có logic và
sáng tạo. Lúc đó, bạn sẽ tự mình giải quyết được nhiều vấn đề về những kỹ
thuật âm thanh khác mà tôi chưa thể viết ra ở đây.
II / Các thông số kỹ thuật.
Phần này bao gồm những thông số của các thiết bị AT giao tiếp với nhau nên
cũng rất đơn giản, nhưng bạn cũng phải nắm rõ để setup hệ thống AT cho
chính xác.
Trước hết là microphone. Tổng trở Z ấn định cho hầu hết các loại micro xử
dụng cho AT là 200Ω, với độ nhậy (sensitivity) khoảng từ -40dB đến -20dB
(có thể gia giảm chút ít). Có vài loại micro đặc biệt (thường dùng trong studio)
có tổng trở là 600Ω. Tần số đáp tuyến (frequency response) từ 40Hz đến
15KHz, loại condenser có thể lên tới 18KHz. Microphone xử dụng cho ampli
đèn (tube amplifier) thì phải có Z bằng 50KΩ mới phù hợp.
Tín hiệu nhập của mixer ở ngõ mic input có độ nhạy rất cao, ở 200Ω vào
khoảng -130dB đến + 20dB. Ngõ nhập line in thì lại khác : Z = 10KΩ nếu dùng


unbalance, 20KΩ nếu dùng balance, độ nhạy từ -10 đến + 40dB. Các ngõ
Tape/CD in cũng vậy, Z = 10KΩ, độ nhạy +20dB (tín hiệu output của player
vào khoảng 100mV, 10KΩ). Ngoài ra, tất cả các giao tiếp khác đều dùng
chuẩn 0dB làm mốc.
Nói qua về định nghĩa của chuẩn giao tiếp các thiết bị AT 0dB : 0dB là tín hiệu

có điện áp 0.774 V RMS, tức là đo được 1 VAC khi đặt ở tổng trở Z = 600Ω.
Và một cách gọi khác là .001w (1miliwatt) khi Z = 600Ω. Chuẩn này dùng
chung cho tất cả các thiết bị AT pro. Nhiều khi các bạn đọc manual thấy có sự
khác biệt như Z chẳng hạn (các hãng SX hay làm vậy cho có sự khác biệt),
có thể thấp hoặc cao hơn một chút. Nhưng bù lại, số dB cũng tăng hoặc giảm
theo tỉ lệ nghịch tương ứng, nên vẫn tương thích kỹ thuật. Nếu có thể được,
bạn nên dùng tất cả các thiết bị chung một hãng sản xuất, tránh phải lo nghĩ
về vấn đề này.
Qua những thông số trên, các bạn đã thấy có sự khác biệt rất lớn giữa hai
dòng máy pro sound và HiFi. Nếu vô tình dùng lẫn lộn, chẳng hạn lọt vào hệ
thống một thiết bị EQ của HiFi, hậu quả sẽ không lường được.
III/ Cách vận hành các thiết bị

Trong phần này, có rất nhiều thiết bị nên phải chia làm nhiều đoạn, mỗi post
chỉ viết về một vài mục.
Trước hết, các bạn hãy xem sơ đồ dưới đây để hiểu về cách vận hành của hệ
thống AT SK cơ bản.
Qua sơ đồ trên, tín hiệu input đưa vào mixer sẽ được trộn đều và xuất ra
bằng 2 ngã main out (stereo out) xuống Equalizer, 2 cái đơn hoặc 1 cái đôi.
Sau khi rời EQ, tín hiệu nhập thẳng vào crossover ( các loại effect khác, nếu
có, cũng mắc rẽ nối tiếp ở đây, trước khi vào crossover).
Từ crossover, tín hiệu chia làm 2, Hi được đưa vào ampli của loa full-range.
Nếu hệ thống dùng nhiều way thì cũng đấu ampli như vậy. Ngã ra Lo thì lấy 1
channel của compressor và nối xuống sub bass ampli. Bạn muốn loa sub
chạy stereo thì dùng cả 2 chnls của compressor. Nhưng ở sơ đồ trên, theo
kinh nghiệm chung của giới AT, bạn nên cho sub chạy theo chế độ mono,
nghĩa là chỉ xử dụng 1 bên của crossover và compressor đưa xuống ampli,
đấu chung 2 chnls lại và xuất ra loa. Điều này để tránh tiếng ồn do cộng
hưởng bởi 2 chnls sub nếu tín hiệu khác nhau mang lại. Còn dư 1 bên của
compressor để dùng cho chuyện khác, insert vào mixer để chỉnh tiếng kick

của trống chẳng hạn.
Ở trên mixer, bạn lấy tín hiệu từ ngã aux out đưa vào 1 EQ đơn và dùng
ampli monitor làm công suất cho các loa monitor trên SK. Nếu dùng 2 hệ
thống monitor, ca sĩ và ban nhạc riêng, bạn dùng thêm một đường aux 2 nữa,
cũng qua EQ và ampli như aux 1.
2 effect thì dùng đường aux send và aux return của 2 aux kế tiếp 3 và 4.
Noise- gate thì dùng đường insert phonejack ¼” của mỗi input chnl của mixer.


Thiết bị này chuyên dùng để chỉnh sửa tiếng trống jazz cho rõ tiếng, gọn
gàng.
-Mixer:
Như tên gọi, mixer (nếu có trên 20 chnls thì thường gọi là mixing console) là
thiết bị dùng để trộn tất cả các tín hiệu AT, khuếch đại, chỉnh sửa và xuất sang
những thiết bị khác bằng nhiều ngã khác nhau. Vì đã giới thiệu những tính
năng của mixer trong phần trước, trong phần này chỉ nói về cách vận hành.
Sau khi đã set tất cả các thiết bị AT đúng theo sơ đồ nguyên lý trên, bạn kiểm
tra lại cho thật chắc rồi bắt đầu khởi động hệ thống.
Trên mixer, bạn tắt tất cả những biến trở chỉnh âm lượng (gain, aux send,
chnl fader, groups, aux return, master v.v) về zéro. Những biến trở chỉnh âm
sắc và panpot (balance) thì set ở giữa, flat hay 0dB. Tất cả EQ, Effect,
Crosover, Compressor, Amplifier cũng vậy, biến trở âm lượng đều tắt.
Bạn nối một player (CD, MD) vào một channel stereo tape in trên mixer, cho
disk sound check mà bạn quen dùng nhất vào rồi cấp nguồn cho mixer và tất
cả các thiết bị, ngoại trừ ampli sẽ cấp nguồn sau cùng.
Bạn set fader của chnl tape in ở mức 0dB, bấm sw on (mute) và bấm sw
stereo (chưa xử dụng sw group), sau đó set 2 (có thể chỉ 1) fader của Master
out ở mức 0dB.
Cho disk player chạy, từ từ nâng biến trở gain (trim), theo dõi đồng hồ (LED)
hiển thị master VU metter cho đến khi nó dừng ở mức 0dB, không để lố qua

vạch đỏ. Nếu hai bên left, right không cân bằng, có thể điều chỉnh lại bằng
biến trở panpot.
Sang EQ và các thiết bị khác, tuần tự từng cái một. EQ thì set tất cả các band
giải tần ở giữa, mức flat, có thể bấm bypass để vô hiệu hóa phần chỉnh sửa.
Volume thì nâng lên cho tới khi đèn VU báo ở 0dB. Nếu EQ chuẩn thì mức tín
hiệu sẽ ở giữa 0dB, có thể gia giảm đôi chút. Crossover cũng vậy, chỉnh
volume ở 0dB, cả hai giải Hi và Lo. Riêng tần số cut của sub bass, bạn set ở
mức trung bình = 100 Hz.
Những thao tác trên cốt yếu là để set cho tất cả các thiết bị đều có tín hiệu
Input và Output nằm trong mức chuẩn. Sau khi đã kiểm tra chắc chắn, bạn
cấp nguồn cho ampli. Đợi 10 giây cho mạch protect hoạt động, từ từ nâng
biến trở âm lượng của từng ampli lên tới mức vừa đủ nghe tùy theo không
gian nơi bố trí loa. Tất cả ampli nào cùng chung 1 way thì biến trở đều ở cùng
1 mức. Nên nhớ nếu set lên mức 0dB là ampli đã xử dụng hết tải công suất,
nên set tối đa ở -10dB là là tối đa. Ampli nào không có mức 0dB thì xem đèn
báo peak level, tuyệt đối không để sáng đèn này.
Trở lại mixer, sau tắt player, bạn cắm micro chính vào 1 trong những chnls
nào tùy ý. Cũng như ở chnls tape-input, bạn set fader lên 0dB rồi thử nói vào
micro và nâng biến trở gain cho loa bắt đầu kêu và đến khi đèn VU metter lên
dưới ngưỡng 0dB. Sau khi chỉnh âm sắc cho micro, bạn cắm tất cả micro còn
lại vào mixer và set tất cả cũng như micro chính. Nên xử dụng micro cùng loại
để khỏi mất thời gian chỉnh riêng rẽ từng cái một. Micro dùng cho bộ trống
jazz sẽ viết trong phần dưới.


Các nhạc cụ cũng làm theo thao tác như chỉnh micro chính, vì độ nhậy của
từng loại nhạc cụ khác nhau nên fader cũng giữ mức 0dB, chỉ chỉnh biến trở
gain thôi, khi vào chương trình mới chỉnh fader. Như thế tín hiệu nhập sẽ
được cân bằng trong mixer nhất.
Đến phần set group. Tùy theo hãng sản xuất, bên cạnh fader chnls có từ 2

đến 4 sw bấm để chọn group cho từng chnl. Nếu không dùng group, thì phải
bấm sw stereo, lúc này tín hiệu chì effect theo fader master. Nếu bấm sw
group 1-3 và tắt sw stereo chẳng hạn, tín hiệu sẽ chia 2 và đi vòng sang 2
fader 1 và 3 và out ra ngõ group out 1 và 3. Bên cạnh group fader có thêm sw
stereo, nếu bấm sw này, tín hiệu sẽ nối thêm sang fader master, group 1 nối
sang left, group 3 nối sang right. Sw 2-4 cũng vậy, efect cho group 2 và 4.
Cũng như mọi fader khác, fader cho group cũng set ở mức 0dB.
Công dụng của group là để nâng và hạ một số chnls đã chọn trước trong khi
biểu diễn, lúc đó không thể nhanh chóng tăng giảm nhiều chnls một lúc được.
Thí dụ bạn set group 1-3 cho nhạc cụ, group 2-4 cho những micro của trống
jazz chẳng hạn. Những mixer cao cấp có thể có tới 8 groups, việc xử lý sẽ trở
nên dễ dàng hơn.
Phần Aux out (auxiliary out) là để quản lý những loa monitor trên SK và
những effect đấu paralell (đôi khi còn gọi là FX) như delay, reverb v.v. Tuỳ
theo có chia ra nhiều line loa monitor hay không, bạn có thể cho từng chnl
đưa qua những line đó. Chỉ thị từng line này là aux 1, 2, 3 v.v. out ra ngoài
bằng aux out (aux send) tương ứng 1, 2, 3 v.v. Muốn cho chnl nào phát ra line
nào thì vặn biến trở của aux đó lên, thường là set ở mức giữa, đều nhau. Thí
dụ ca sĩ chính thì được cho nghe loa monitor đặt ngay trước mặt tiếng của
chính mình đang hát, nhạc công trống jazz thì nghe toàn thể AT ngoại trừ
tiếng trống của mình (vì sẽ bị feed back nếu đặt gần micro trống), ban nhạc
thì nghe tiếng nhạc cụ của mình (nếu không có instrusment amplifier) và tiếng
ca sĩ. Nói chung là người nào muốn nghe gì, có đó. Trên những SK lớn, số
lượng loa monitor rất nhiều, phải có thêm một mixer chuyên dùng gọi là
monitor mixer đặt bên hông SK, do một soundman khác quản lý những loa
này. Tất cả các tín hiệu trên SK đều được đưa vào mixer monitor và rẽ nhánh
song song xuống mixer FOH bằng 1 bộ cable chuyên dùng. FOH soundman,
vì vị trí ở xa quá, không thể xử lý tốt được những gì trên SK.
Ở mỗi chnl, bên cạnh dãy biến trở aux thường có 1 sw gọi là pre hay EQ. Sw
này có tác dụng cho tín hiệu khi ra ngã aux có qua phần tone chỉnh sửa âm

sắc hay không, thông thường thì nhấn xuống để cho qua tone. Riêng những
nhạc cụ nếu đã có qua ampli chỉnh sửa âm sắc rồi thì bạn nên để nguyên.
Đôi khi loa monitor cho ca sĩ chính cũng được yêu cầu này vì họ muốn nghe
giọng thật chưa chỉnh sửa.
Sau đây là hình chụp của 1 mixer PA dòng cao cấp hiện nay, rất trung thực và
chính xác.
MIDAS series Verona, 40 channels, 8 groups.
-Delay, reverb:
Thiết bị effect đấu nối với mixer qua 2 ngã: input nối với aux-out (aux-send)
và output nối với aux return (còn gọi là FX) của mixer. Thường thì dùng 2 thiết


bị, 1 làm tiếng delay (lập lại), 1 làm tiếng reverb (vang). Hai thứ tiếng này khi
mix lại sẽ làm tiếng hát đầy và sáng hơn. Những thiết bị sản xuất gần đây cao
cấp hơn, có thể tạo cùng lúc 2 thứ tiếng effect, cho nên có thể chỉ cần dùng 1
thiết bị. Bạn nên set effect sao cho nó bỏ tiếng đầu tiên, để khi mix vào mixer
sẽ không chồng lên nhau làm sái tiếng normal. Theo kinh nghiệm của nhiều
soundman, bạn nên lấy 1 chnl stereo nếu còn dư của mixer dùng thay cho
aux return. Cách này có đặc điểm là có tiếng efect stereo và khi qua phần
tone của chnl, bạn sửa âm sắc lại một chút sẽ hay hơn.
-Crossover:

Hình trên là 1 dynamic crossover đơn giản nhất. Khi xử dụng chế độ stereo (2
input), nó sẽ chia ra cho mỗi channel 2 ways, khi xử dụng chế độ mono (1
input), nó sẽ chia làm 3 way. Đặc biệt trong thiết bị này là thêm phần cho
subbass, 2 ngã tín hiệu vào được đấu chung thành mono và chỉ có 1 ngã
output duy nhất.
Cách chỉnh cũng rất đơn giản, bạn nên set biến trở input và những gain
output đều ở mức chuẩn 0dB. Biến trở Xover freq của subbass set ở mức
trung bình là 100Hz, nếu loa sub tốt và ampli mạnh có thể hạ xuống 80Hz.

Những way còn lại là tùy thuộc vào thông số của loa bạn đang dùng
-Compressor:

Như tên gọi, compressor chuyên dùng để nén tín hiệu AT. Thiết bị này thường
tích hợp thêm một tính năng nữa là limiter (hạn chế).
Limiter dùng để hạn chế âm lượng theo ngưỡng peak do người dùng cài đặt.
Quá ngưỡng này, thiết bị tự động điều chỉnh âm lượng nhỏ lại (auto level)
không cho vượt ngưỡng, nhưng âm sắc hoàn toàn không thay đổi.
Trái lại, compressor cũng hạn chế âm lượng nhưng bằng cách nén lại. Bạn có
thể hình dung đường biểu diễn hình sin của AT, khúc nhỏ bên trên bị đè
xuống cho bẹt đầu tới mức ngưỡng, gần như là bị hớt phía trên, nếu ngưỡng
thấp quá và nén cực mạnh thì thành ra gần giống như sóng vuông. Effect này
làm cho AT phát ra nghe có vẻ gọn và chắc hơn trước khi nén. Dùng riêng
cho từng nhạc cụ thì rất tốt, nhưng khi dùng cho toàn bộ hệ thống thì
soundman phải rất cẩn thận.
Limiter cũng có khuyết điểm của nó, nếu trong hệ thống có 1 AT bất kỳ nào đó
đột nhiên quá âm lượng vượt mức peak đã set (như nhạc cụ rò rè, feed back
chẳng hạn), auto level sẽ tự động giảm tức thì âm lượng toàn bộ của hệ
thống dù cho những AT khác hoàn toàn không bị over. Mức giảm này mạnh
hay nhẹ tùy theo tín hiệu vượt peak nhiều hay ít.
Biểu đồ biểu diễn của hình sin AT khi qua từng tính năng:
Sau đây là những hiệu ứng cơ bản để chỉnh compressor.
Expander/gate: Lựa chọn mức tín hiệu sẽ vào thiết bị. Set ở mức nào, tất cả
tín hiệu nhỏ hơn sẽ bị filter, không vào được thiết bị. Expander cho phép có
thời gian trễ, nhưng gate thì effect tức thì.
Threshold: Đây là điểm ngưỡng mà tín hiệu bắt đầu bị nén. AT khi qua mức


này sẽ bị nén theo các chế độ mà bạn sẽ cài đặt. Nếu bạn set ở 0dB thì coi
như âm thanh sẽ không bị tác động bởi thiết bị.

Ratio: Định mức giảm âm lượng theo tỉ lệ. Thí dụ ở tỉ lệ 4:1, tín hiệu khi vượt
qua mức ngưỡng, cứ mỗi 4dB sẽ bị giảm xuống còn 1dB so với ngưỡng. Nếu
set ở 1:1, tín hiệu sẽ không bị nén. Tỉ lệ này tối đa có thể lên tới 10:1.
Attack: Ấn định thời gian sẽ bắt đầu nén khi tới ngưỡng, thường tính bằng
m/second.
Release: Ấn định thời gian khi đã nén và trở lại mức ban đầu, cũng tính bằng
second.
Trong 1 số thiết bị có thêm tính năng auto cho attack và release. Khi bấm nút
này, thiết bị sẽ tự động chỉnh thời gian attack và release tùy thuộc tín hiệu
input.
Soft/hard knee: Khi set sang soft knee, chế độ nén sẽ diễn ra mềm và chậm
hơn, từ trước cho đến sau mức ngưỡng. Hard knee dứt khoát nén từ mức
ngưỡng.
Limiter: Hạn chế biên độ tối đa của âm lượng. Khi set ở mức nào thì không có
tín hiệu nào có thể vượt qua được. Khi chỉnh lên mức max, coi như vô hiệu
hóa tính năng này.
Có thể kiểm tra âm lượng bằng hệ thống đèn báo VU LED. Nhấn Sw In/Out
để đổi sự hiển thị giữa 2 tín hiệu input và output để xác định có bị giảm biên
độ khi qua compress và limit. Đặc biệt là thiết bị này ít khi có biến trở input (có
lẽ không cần thiết vì lấy từ thiết bị khác output ra đã chuẩn rồi), biến trở
output dùng để nâng bù âm lượng cho cân bằng khi qua thiết bị khác.
Ngoài ra còn có thêm đèn LED Gain Reduction. Hệ thống đèn LED này báo
mức âm lượng đã bị nén là bao nhiêu dB. Có thể hiểu rằng, khi không có đèn
nào sáng là tín hiệu không hề suy giảm, càng sáng nhiều đèn là càng bị nén
nhiều.
Có nhiều loại compressor có thêm chức năng Link hoặc Stereo Link. Tùy theo
hãng sản xuất có loại chức năng này nối hiệu ứng của 2 chnls của
compressor và lấy mức trung bình, có loại thì vô hiệu hóa chức năng chỉnh
của 1 chnl, chỉ cần chỉnh 1 bên là sẽ xảy ra hiệu ứng của cả 2 bên.
Compressor còn nhiều tính năng nữa, nhưng trong những bài AT cơ bản này

chưa tiện nói thêm.
Qua phần trên, các bạn đã có thể phần nào hiểu được kỹ thuật của 1 thiết bị
compressor đơn giản nhất. Về áp dụng, bạn có thể đặt nó ở bất cứ tầng nào
của hệ thống AT. Nếu chỉnh toàn bộ, bạn set nó sau EQ. Cũng có thế set
saucrossover để chỉnh riêng cho từng way. Ngoài ra còn có cách insert vào
từng chnl để chỉnh riêng cho từng nhạc cụ, vocal v.v. Rồi nếu muốn, bạn
insert vào stereo group của nhạc cụ để chỉnh sửa riêng toàn bộ group này.
Còn có loại tích hợp 4 compressor trong 1 thiết bị, vậy rất dễ dàng cho bạn
tùy nghi xử lý.


Riêng các bạn mới vào nghề, khi áp dụng, lúc đầu nên chỉ dùng compressor
cho phần sub bass thôi, như tôi đã vẽ trong (1). Và dùng noise gate (giống
compressor, nhưng đơn giản hơn) insert vào giàn micro của trống jazz.
Khi chỉnh sửa, bạn set tất cả nút hiệu chỉnh về vị trí flat, không tác dụng. Thí
dụ biến trở output và threshold ở 0dB, gate min (off), limiter peak ở max (off),
ratio ở min (1:1), attack và release ở min (nhanh nhất), có thể dùng auto nếu
mới chỉnh lần đầu, knee ở hard (cho dễ nghe tác dụng).
Ở compressor, bạn nâng ratio lên 1 mức ấn định, thí dụ 4:1, rồi giảm dần
threshold cho tới -15dB chẳng hạn. Trong giai đoạn chỉnh sửa này, bạn để ý
nghe AT thay đổi như thế nào rồi tìm mức set theo ý bạn. Gate cũng vậy, bạn
nâng dần cho tới khi được AT vừa ý.
Gợi ý:

Bạn dùng gate để cut các tạp âm nhỏ, để làm gọn tiếng lại, như tiếng trống
tom, snare. Loa sub bass qua gate sẽ mất tiếng rền thùng.
Compress dùng để nén tiếng bass và kick cho có lực thêm vào, nếu nén ít và
soft knee sẽ cho tiếng bass mềm, ngược lại, nếu nén mạnh và hard knee sẽ
ra tiếng bass sâu, pha thêm gate vào như thế nào tùy ý bạn.
Limiter dùng để hạn chế quá tải ampli và loa, nâng tín hiệu lên cho đến khi

đèn peak trên ampli sáng, trả ngược biến trở limiter cho đến khi đèn vừa tắt
là được (để ý lúc thay đổi gain của ampli, phải check lại).
Cuối cùng, xin nói, tôi không phải là 1 soundman nên không thể hướng dẫn
các bạn thêm nhiều chi tiết về cân chỉnh được nữa. Nhưng khi bạn đã hiểu
hết về kỹ thuật, tính năng của compressor ở trên cộng với tai nghe AT và thời
gian tìm tòi học hỏi kinh nghiệm của bạn, tôi tin rằng bạn sẽ có cơ hội nắm rõ
thiết bị này.



×