LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ thầy cô,
bạn bè và những người thân.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo Triệu Văn Thịnh, người
đã trực tiếp hướng dẫn tôi, chỉ bảo tận tình, sửa chữa cho đề tài của tôi trong suốt quá
trình thực hiện. Kết quả của luận văn chính là nhờ sự chỉ bảo, giúp đỡ của thầy.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo trong bộ môn Ngữ văn và
các thầy cô giáo trong toàn trường cùng các bạn sinh viên lớp Sư phạm Ngữ văn
K12 đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện thành công luận văn, động viên, khích lệ tôi
trong những lúc khó khăn nản chí.
Kính dâng lên cha mẹ suốt đời mang nặng nghĩa sinh thành.
Bước đầu chập chững nghiên cứu đề tài khoa học – Khóa luận tốt nghiệp,
không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, rất mong nhận được sự bao dung,
đóng góp của quý thầy cô và mọi người.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Đắk Lắk, ngày….tháng…năm 2016
Sinh viên
Vũ Thị Tuyết
1
MỤC LỤC
2
PHẦN THỨ NHẤT. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Du, nhà thơ lớn của dân tộc đã đi vào cõi vĩnh hằng gần hai thế kỷ,
những sáng tác của ông để lại cho đời không hề nhỏ. Thường thì theo dòng lịch sử
tác phẩm văn chương luôn chịu sự chọn lọc khắc nghiệt của dòng thời gian. Nhưng
dường như ngược với quy luật ấy, Nguyễn Du và các tác phẩm của ông lại không
ngừng được luận bàn qua các thời kỳ lịch sử.
Cuộc đời và tác phẩm của ông mang nhiều tâm tư sâu sắc, quy tụ được nhiều
vấn đề xã hội và có thể dự báo một điều gì cho mai sau. Thế hệ kế tiếp, những kẻ
hậu sinh tha thiết muốn hiểu ông và đã phần nào hiểu ông qua những sáng tác ông
để lại. Khi nói đến di sản của Nguyễn Du phải nói đến Truyện Kiều – Một tuyệt tác
nghệ thuật đã đi vào tâm hồn của mỗi người dân đất Việt.
Là người Việt Nam, ai cũng thuộc vài câu Kiều, thậm chí có người không biết
chữ còn thuộc toàn bộ tác phẩm và vận dụng vào đời sống trong việc đối đáp, ngâm
vịnh. Truyện Kiều đã trở thành một kiệt tác vô song được sáng tạo trên cơ sở cốt truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả Trung Quốc sống ở thế kỉ XV. Ban đầu Nguyễn
Du đặt tên cho tác phẩm của mình là “Đoạn trường tân thanh”, sau này người ta hay
gọi là Truyện Kiều. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ của mình về
một tình yêu lứa đôi tự do, hồn nhiên, trong sáng mà nhất mực thủy chung. Ở đó
Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng về công lý, dân chủ cho con người giữa một xã
hội bất công tù túng đầy ức chế, tàn bạo. Đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt
đẹp của con người.Truyện Kiều là tuyên ngôn về quyền sống của con người, với
những khát vọng về tình yêu và công lý. Đồng thời nó cũng là bản cáo trạng bằng
thơ lên án xã hội phong kiến mục nát, xấu xa, tàn bạo đã chà đạp lên nhân cách con
người, dập tắt ước mơ đẹp đẽ của con người.
Có thể nói, Nguyễn Du đã đưa nhân vật của mình từ trang văn mà bước ra
cuộc đời. Ông đã xây dựng những hình tượng rất sống động, rất chân thực. Chính vì
vậy mà không biết tự khi nào Truyện Kiều đã trở thành bộ phận không thể tách rời
trong đời sống tâm hồn người Việt Nam nói chung và văn học nói riêng.
Trong chương trình giáo khoa ở trường phổ thông, Nguyễn Du được đưa vào
giảng dạy với tư cách là một tác gia lớn của nền thơ ca trung đại Việt Nam. Vì vậy
việc tìm hiểu, phân tích nhân vật Thúy Kiều và nhân vật Hoạn Thư để thấy được tài
3
năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả, khắc họa tính cách nhân vật nói chung,
nhân vật Thúy Kiều và nhân vật Hoạn Thư nói riêng. Đồng thời việc nghiên cứu về
hai nhân vật Thúy Kiều và nhân vật Hoạn Thư – hai nhân vật đại diện cho hai tuyến
chính diện và phản diện để từ đó giúp cho độc giả có cái nhìn chi tiết hơn và có sự
đối sánh giữa hai nhân vật Thúy Kiều và Hoạn Thư. Điều này cũng rất cần thiết cho
chúng tôi - sinh viên ngành Ngữ văn sẽ trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông
trong thời gian sắp tới.
Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu nhân vật Thúy Kiều và Hoạn Thư
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu của đề tài là tìm hiểu và phân tích hai nhân vật Thúy Kiều và
Hoạn Thư qua cái nhìn so sánh để thấy được sự khác biệt độc đáo giữa hai
nhân vật này, qua đó khẳng định được tài năng, bút pháp thiên tài của Nguyễn
Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
4
PHẦN THỨ HAI. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Sáng tác của Nguyễn Du đã được lưu hành từ rất sớm, có lẽ ngay từ lúc
nhà thơ còn sống, đặc biệt là Truyện Kiều. Song song với việc lưu hành cũng
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Truyện Kiều.
Truyện Kiều có vị trí rất quan trọng trong nền văn học Viêt Nam. Nó
đánh dấu sự xuất hiện của thi ca nghệ sĩ, kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn
ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học và đã biến Truyện Nôm thành một thể loại
nghệ thuật. Trong số các nhà văn trung đại Việt Nam có lẽ Nguyễn Du xứng
đáng nhất với danh hiệu nghệ sĩ.
Đã có nhiều nhà thơ, nhà văn như: Chu Mạnh Trinh, Xuân Diệu, Hoài
Thanh, Đào Duy Anh, Nguyễn Thạch Giang,… đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu
Truyện Kiều và xem đó như là sự nghiệp của đời mình. Về nội dung xã hội
thì Hoài Thanh là người đầu tiên nêu vấn đề quyền sống của con người ở
trong Truyện Kiều.
Dưới thời phong kiến, các nhà nho đứng trên lập trường phong kiến và
quan điểm nhân sinh có sự khen, chê khác nhau.
Đứng trên lập trường đạo đức phong kiến, Minh Mệnh có bài: Thánh Tổ
nhân hoàng đế ngự chế tổng thuyết; Nguyễn Văn Thắng có bài Kim Vân Kiều
Án; Tự Đức có bài Dục Tông Anh hoàng đế ngự chế tổng tử; Mộng Liên Đường
chủ nhân có bài Thanh Tâm Tài nhân thi tập tự; Vũ Tông Phan có bài Quan tiểu
thuyết Vương Thúy Kiều ngẫu hứng; Nguyễn Xuân Ôn có bài Độc Thúy Kiều
Truyện, cảm tác.
Sang thế kỷ XX, việc đánh giá về nhân vật trong Truyện Kiều có nhiều
bước tiến mới. Hoài Thanh có bài tiểu luận Một phương tiện của thiên tài
Nguyễn Du (Thanh Nghị, số 36,1943), quyền sống của con người trong
truyện Kiều của Nguyễn Du (1949), Xuân Diệu có bài Bản cáo trạng cuối
cùng trong Truyện Kiều (Văn nghệ , số 135, ngày 6/11/1965), Lưu Trọng Lư
có bài Tấn bi kịch của Thúy Kiều (Tạp chí văn học, tháng 11/1965), Tế Hanh
5
có bài Bình luận về Kiều (1984), trong cuốn Kiều và những lời bình Lê Đình
Kỵ có viết về nhân vật trong Truyện Kiều ở đó hiện lên rõ nét tính cách, thủ
đoạn của Hoạn Thư…
Song ở khía cạnh Nghiên cứu về Thúy Kiều và Hoạn Thư trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du thì chưa nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Trên cơ sở
tiếp thu những nhận xét và ý kiến quý báu của những người đi trước, chúng
tôi mạnh dạn đưa ra một hướng nghiên cứu mới để làm nổi bật lên hình ảnh,
tính cách cũng như có cái nhìn so sánh giữa nhân vật Thúy Kiều và nhân vật
Hoạn Thư.
6
PHẦN THỨ BA. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật Thúy Kiều và nhân vật Hoạn Thư trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác phẩm Truyện Kiều và những bài nghiên cứu về nhân vật Thúy
Kiều và nhân vật Hoạn Thư.
3.3. Nội dung nghiên cứu
Đi sâu nghiên cứu toàn bộ tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du cùng
những bài nghiên cứu về nhân vật Thúy Kiều và nhân vật Hoạn Thư, qua đó
thấy rõ được những nét độc đáo của hai nhân vật Thúy Kiều và Hoạn Thư.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp tiếp cận văn bản
Đọc tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du để tìm hiểu đặc trưng, tính
cách của hai nhân vật Thúy Kiều và Hoạn Thư.
3.4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây là phương pháp căn bản của khóa luận để chúng tôi tiến hành phân
tích hai nhân vật Thúy Kiều và Hoạn Thư. Từ đó khái quát, tổng hợp nên
những nét đặc trưng của hai nhân vật này.
3.4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp này cho thấy được nét đặc sắc, độc đáo mang tính đặc
trưng của Thúy Kiều và Hoạn Thư trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn
Du.
3.4.4. Phương pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê, phân loại nhằm tìm và xác
định những đặc điểm của nhân vật.
Trong quá trình triển khai đề tài, người viết sử dụng các phương pháp
7
nêu trên trong mối liên quan bổ trợ lẫn nhau. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng
một số phương pháp khác: Phương pháp bình giảng tác phẩm văn học, phân
tích nhân vật – hình tượng văn học.
8
PHẦN THỨ TƯ. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. NHÂN VẬT THÚY KIỀU VÀ NHÂN VẬT
HOẠN THƯ
1.1. Nhân vật văn học
1.1.1. Khái niệm
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng
phương tiện văn học. Những con người này được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động
hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai
trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “nhân vật” là người giữ vai trò gì trong một vở
kịch hay một tác phẩm văn học?. Còn theo nhóm tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ
văn học (1992), Nxb Giáo Dục cho rằng: “Nhân vật văn học là những con người cụ
thể được miêu tả trong tác phẩm văn học”.
Nhân vật văn học có thể là người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy
Kiều, Từ Hải, Kim Trọng…), có thể là không có tên (như thằng bán tơ, viên quan,
mụ quản gia…) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật
xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình – ta trong ca dao…).
Hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu
tả số phận của con người. Dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỷ nhưng lại gán cho
nó những phẩm chất của con người.
Nhân vật văn học là một hiện tượng văn học có tính ước lệ, có những dấu hiệu
để nhận biết như: Tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm
riêng…Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường, sự
phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu ban đầu đó.
Việc giới thiệu Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau nhưng dường như cũng báo trước
về số phận của mỗi người sau này:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
9
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh [9, 35]
Nhân vật văn học không giống như nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật
khác. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện riêng bằng chất liệu của ngôn từ. Vì
vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng
để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.
Như chúng ta cũng đã thấy rõ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tác giả đã
miêu tả các nhân vật mang một tính cách riêng, đặc trưng riêng cho từng nhân vật.
Nguyễn Du đi sâu và chi tiết hơn đối với những nhân vật trọng yếu như: Thúy Kiều;
Kim Trọng; Thúy Vân; Hoạn Thư; Hồ Tôn Hiến; Từ Hải. Còn những nhân vật
không phải là nhân vật trọng yếu, không đi chi tiết, tỉ mỉ nhưng Nguyễn Du mô tả ai
cũng thấu rõ tâm lý từng người. Như Mã Giám Sinh từ diện mạo, quần áo, đến cách
“cò kè bớt một thêm hai”, tính toán lợi hại ở trú phường, đều tỏ ra một anh điếm
đàng buôn bán, kiếm ăn ở nghề hèn mạt. Tú Bà thì sắc da nhờn nhợt, thân thể đẫy
đà, đã khiến ta ngờ ngợ mà đến khi nghe những lời mụ khấn trước bàn thờ tổ, và
thấy cử chỉ của mụ vắt nóc ngồi trên thì ta biết rõ là một mụ trùm. Đến như mưu
mẹo sắp đặt để bắt Thúy Kiều tiếp khách thì thực là phải có tay buôn thịt người mới
làm như thế được.
Như vậy ta thấy rằng đối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó
con người luôn giữ vị trí trung tâm. Trong Truyện Kiều, con người được xây dựng
theo mô hình “con người vũ trụ”. Nói đẹp thì “hoa ghen, liễu hờn”, nói chí thì “đội
trời, đạp đất”, nói tình thì “non nước, mây mưa” nói tài thì “mạch đất, tính trời”.
Khi muốn đổi thay thì nói “động lòng bốn phương”, “chọc trời khuấy nước”, mà cả
khi chỉ làm một bài thơ “tay tiên gió táp mưa sa”, khi khóc một người tình “vật
mình vẫy gió tuôn mưa”, khi đỗ đạt “cửa trời rộng mở đường mây”, con người đều
được hình dung trong một quy mô vũ trụ, đứng giữa đất trời. Theo quan niệm này
tính chỉnh thể của con người không thể hiểu một cách bề ngoài, trực quan. Khi miêu
tả về chân dung của Kiều, “thu thủy, xuân sơn” không chỉ là những nét thanh tú và
trong sáng, mà còn thể hiện một cốt cách đa tình hàm chứa trong hai yếu tố non –
nước. Con người vũ trụ cũng là mô hình cơ bản chi phối sự miêu tả con người trong
thơ văn Việt Nam cho tới đầu thế kỷ XX.
10
Xét trên nhiều góc độ những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh
thiên nhiên, những lời bình luận,…đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho
tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng
nhân vật. Đọc một tác phẩm, cái cô đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc
là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện.
Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi cho rằng: “Nhân vật văn học là nơi duy nhất tập trung
hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác”.
1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học trong tác phẩm
Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc
sống và thể hiện quan niệm của các nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật,
nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến
trong tác phẩm. Vì vậy tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh xác định những
nét trong tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm
của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật,
nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân
vật đó. Ví dụ: Gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ nữ tài sắc trong xã hội
cũ; gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc; gắn
liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự do, công lí,…Đằng
sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và
xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người…
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và
thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên quá trình mô tả nhân vật, nhà
văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết bộc lộ được
quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy, không nên đồng nhất
nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật,
việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để làm rõ thêm về nhân vật, nhất là nhân vật
có nguyên mẫu ngoài cuộc đời (anh hùng Núp trong đất nước đứng lên; Chị Sứ
trong Hòn Đất;…) nhưng phải luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo
nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề
của hiện thực cuộc sống. Bertolt Brecht cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ
thuật không phải giản đơn là những bản dập của những người sống mà là những
hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”. Như vậy, với đề
11
tài Nghiên cứu về nhân vật Thúy Kiều và Hoạn Thư trong Truyện Kiều của Nguyễn
Du thông qua việc đi sâu tìm hiểu hai nhân vật Thúy Kiều và Hoạn Thư cũng sẽ
phần nào cho chúng ta thấy được hình ảnh người phụ nữ phong kiến trong xã hội
xưa.
1.2. Nhân vật Thúy Kiều
1.2.1. Tài sắc của Thúy Kiều
Từ xưa đến nay, nhan sắc người con gái đã được biết bao cây bút ca ngợi Đó
là những giai nhân “Thân phận như liễu yếu, mặt tựa phù dung, một đóa anh đào
xinh xẻo chưa lộ hai hàm răng ngọc, hai đôi cánh sen, buông chùng tám lớp quần
tượng. Khi thẹn thùng ba thu khe khẽ, khi buồn rầu biếng chải tóc mai, mày ngài
mới xanh, má đào mới đỏ, nếu không phải là thần nữ chốn Dao đài cũng là thiên
nga xuống tắm vậy” (Xảo Liên Chu) [12; 43]. Hay có khi là một vẻ đẹp đậm chất
dân gian:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
(Cung oán ngâm khúc – Đoàn Thị Điểm)
Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng xuất hiện những cô gái sắc nước
hương trời. Trong đó tiêu biểu là Thúy Vân, Thúy Kiều mang trong mình vẻ đẹp
toàn thiện, toàn mĩ:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười [9, 35]
Vân có khuôn mặt xinh đẹp, đầy đặn, tươi sáng như vầng trăng tròn:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang [9, 35]
Vẻ đẹp sang trọng toát ra từ khuôn mặt với hàng lông mày nhỏ mà dài, cong
thanh mà đậm:
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da [9, 36]
Nụ cười tươi như đóa hoa, tiếng nàng thốt ra nhẹ nhàng trong trẻo, mái tóc
như làn mây bồng bềnh trên bầu trời xanh thẳm, làn da mịn màng trắng như tuyết.
Từ đó ta thấy rằng dưới ngòi bút của Nguyễn Du, vẻ đẹp của Thúy Vân hiện lên
12
thật thùy mỵ, đoan trang phúc hậu và khiêm nhường. Vân có vẻ đẹp hài hòa khiến
hoa cũng phải cười, ngọc cũng phải thốt lên và mây, tuyết phải nhường, phải chịu
lép vế. Nhan sắc Thúy Vân dường như khó có ai bì kịp nhưng khi Thúy Kiều xuất
hiện, ngay lập tức nhan sắc Thúy Vân bị lu mờ, trở thành cái bóng, cái nền cho vẻ
đẹp của Thúy Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Vẻ đẹp của Thúy Kiều sắc sảo hiếm người có được, cái sắc đó cũng rất đằm
thắm. Kiều hơn Vân về cả tài và sắc. Nguyễn Du đã đặc tả vẻ đẹp Thúy Kiều:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn. Đôi mắt Kiều trong veo như làn nước mùa
thu “làn thu thủy”, nhìn vào đôi mắt ấy phản chiếu cả con người Kiều, một tâm hồn
trắng trong của một thiếu nữ tuổi mười tám. Đó là “một đôi mắt sáng, đẹp lạ lùng,
cặp mắt ấy có nhãn lực tuyệt vời nhìn được mọi chiều sâu thẳm tưởng chừng vạch
được mùa xuân tươi tốt soi thấu vào tận đáy để thấy được niềm cô độc xót xa của
một kiếp người” [2; 570]. Còn nét mày của đôi mắt ấy xanh tươi nhẹ nhàng như
dáng núi mùa xuân “nét xuân sơn”, đôi mắt và hàng lông mày thanh nhẹ tạo thành
một chỉnh thể toàn mĩ làm mê đắm lòng người tạo cho Thúy Kiều một vẻ đẹp của
một tuyệt thế giai nhân:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Kiều đẹp đến mức chỉ cần nhìn cái thứ nhất thì thành đổ, liếc cái thứ hai thì
nước nghiêng. Ý thơ này xuất phát từ điển cố của Lí Diên Niên đời Hán:
Bắc phương hữu giai nhân
Tuyệt thế nhi độc lập
Nhất cố quốc nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc
Khởi bất tri
Khuynh thành dữ khuynh quốc
Giai nhân nam tài đắc
Dịch nghĩa:
Phương bắc có giai nhân
Tuyệt vời đứng riêng bực
13
Một liếc, người nghiêng thành
Hai liếc, người nghiêng nước
Lẽ nào không biết được
Người đẹp thành nước nghiêng
Người đẹp khó tìm gặp
Nếu vẻ đẹp của Thúy Vân là “mây thua, tuyết nhường”, thiên nhiên cũng phải
nhường nhịn, thì vẻ đẹp đó như đã ngầm báo trước một cuộc đời êm đềm, yên ổn, bình
lặng, một cuộc sống yên vui, một tương lai hạnh phúc của Thúy Vân. Trái lại vẻ đẹp
sắc sảo, mặn mà của Thúy Kiều làm cho hoa, liễu phải hờn ghen, nước thành nghiêng
đổ như báo trước một cuộc đời đầy sóng gió, bất ổn của cuộc đời Kiều sau này.
Kiều có trí thông minh của trời phú, giỏi cầm, kì, thi, hoạ và biết đủ mùi ca
ngâm, Kiều có hiểu biết sâu sắc về nhạc lý. Đặc biệt Kiều có tài đánh đàn, tiếng đàn
rung động lòng người sau này đã khiến cho Kim Trọng trong buổi gặp gỡ đầu tiên
phải “nao nao lòng người”:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu
Thúc Sinh nghe tiếng đàn của Thúy Kiều mà “tan nát cõi lòng”:
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng
Và tiếng đàn của nàng cũng khiến cho trái tim sắt đá vô tình của Hồ Tôn Hiến
cảm thương mà rơi châu, nhỏ lệ:
Một cung gió thoảng mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm vượn hót nào tày
Lọt tai, Hồ cũng nhăn mày rơi châu [9, 226]
Không chỉ đánh đàn giỏi, Thúy Kiều còn sáng tác cả một “thiên bạc mệnh”.
Kiều mơ thấy Đạm Tiên và nàng làm thơ theo lời Đạm Tiên:
Này mười bài mới, mới ra
14
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời
Kiều vâng lĩnh ý đề bài
Tay tiên một vẩy đủ mười khúc ngâm [9, 76]
Đạm Tiên vốn là một người tài hoa cũng phải ngợi khen tài thơ của Kiều:
Xem thơ nức nở khen thầm:
Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường
Ví đem vào Tập đoạn trường
Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai [9, 54]
Thúy Kiều còn đề thơ vào tranh của Kim Trọng:
Tay tiên gió táp mưa sa
Khoảng trên dừng bút thảo vào bốn câu [9, 54]
Thơ hay đàn giỏi là thế nhưng trong lời thơ, tiếng đàn ấy luôn chất chứa một
nỗi buồn da diết. Đó là tài năng của nàng và phải chăng đó cũng là một thiên bạc
mệnh ai oán về một cuộc đời đầy bi kịch của Kiều về sau? Sắc đẹp của nàng hiếm
có ai sánh kịp còn tài năng may chăng mới có thể có người thứ hai:
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Và trí tuệ đã làm tôn thêm sắc đẹp của Kiều “Tinh anh phát tiết ra ngoài”.
Cũng chính vì thế, cả ba người đàn ông đi qua cuộc đời Kiều là Kim Trọng, Thúc
Sinh, Từ Hải đều bị lôi cuốn mạnh mẽ không chỉ vì sắc đẹp và phẩm cách mà còn vì
trí tuệ sắc sảo, tài thơ mẫn tiệp và tiếng đàn quyến rũ lòng người của nàng. Thật
đúng như Đặng Thanh Lê nhận xét: “Một sắc đẹp rực rỡ đằm thắm bởi sự phong
phú của tâm hồn, sự thông tuệ và tấm lòng giàu cảm xúc đã ngời sáng dung nhan
Thúy Kiều – Cô thiếu nữ đương tuổi xuân cài trâm hôm nay còn chất chứa một viễn
cảnh về cuộc đời bi kịch mai sau” [5; 30].
1.2.2. Tính cách của Thúy Kiều
Kiều là hiện thân của một giai nhân phong kiến. Nàng đạt những chuẩn mực
của người xưa về cái đẹp toàn thiện, toàn mĩ ở nữ giới. Nàng hội tụ cả bốn phẩm
chất: Công, dung, ngôn, hạnh. Kiều có một dung nhan khó ai bì, tài đàn, tài thơ khó
ai sánh nổi. Lời nói cử chỉ của nàng đều dịu dàng, thanh thoát trong khuôn phép,
trong gia phong của một thiếu nữ khuê các.
Kiều là một cô gái có trái tim đa sầu, đa cảm, có một tâm hồn sâu sắc, dễ rung
động, giàu yêu thương đối với con người. Trong buổi du xuân nàng đã khóc cho
15
một kiếp tài hoa bạc mệnh, nàng thực sự đồng cảm và thổn thức, thực sự đau đớn và
chia sẻ với nỗi đau của cô gái hồng nhan bạc mệnh – Đạm Tiên.
Buổi du xuân ấy, bao nam thanh nữ tú, bao người đi tảo mộ, nhưng có mấy ai
là người “dư nước mắt” khóc cho thân phận một ca nhi? Có mấy ai là người lưu
tâm tới nấm mồ vô chủ bên đường? Sự day dứt và những cảm nghĩ của Thuý Kiều
chứng tỏ một trái tim nhân hậu, chan chứa tình đời. Đây là một phần rất quý trong
nét đẹp của “Thiên tính nữ” từ ngàn xưa và đáng được ca ngợi trong mọi thời đại. .
Một người có khuôn phép, Kim – Kiều dù đắm say trong mối tình đầu nhưng
chưa bao giờ vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến. Những buổi hẹn hò cùng nhau tình
tự, thề nguyền, đính ước. Song điều đó đã khẳng định và nâng cao chữ “Lễ” ở Thúy
Kiều.
Quen sống trong cảnh “Êm đềm chướng rủ màn che” nên khi gia đình xảy ra
tai biến Kiều rất sợ hãi, yếu đuối. Nhưng Kiều là một người con có hiếu, luôn nghĩ
cho người khác trước khi nghĩ về bản thân mình. Tai họa xảy đến bất ngờ nàng đau
đớn lựa chọn giữa hiếu và tình “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Cuối cùng Kiều
đã chọn cách làm tròn chữ hiếu nên đã “trao duyên” cho Thúy Vân. Theo lời của
Nguyễn Du kể lại, sau khi nhờ Vân kết duyên với Kim Trọng. Kiều ngất đi, kẻ
thang người thuốc xúm lại, cha mẹ vật vã kêu lên và Kiều đã lấy lại tất cả sự bình
tĩnh, sửa khăn búi tóc, thưa với cha mẹ. Những lời cao đẹp ấy chỉ có thể xuất phát
từ một người con giàu lòng hy sinh, trọn niềm hiếu thảo:
Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây
Phận sao đàng vậy cũng vầy
Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh [9, 103]
Vì bởi lẽ “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nói như Kim Trọng thì
Kiều đã lựa chọn “lấy hiếu làm trinh”.
Mười lăm năm lưu lạc, mười lăm năm quằn quại đấu tranh. Trải qua bao đau
đớn, tủi hổ, bị đánh đập tàn nhẫn, chịu bao thăng trầm của cuộc đời đen bạc cũng đã
phần nào làm thay đổi tính cách trong con người Kiều. Kiều mạnh mẽ hơn, có ân trả
ân, có oán trả oán. Nhưng chỉ có một điều không hề thay đổi là lòng vị tha và đức
hy sinh luôn vẹn nguyên trong con người nàng. Chính vì vậy đã đem đến cho hình
tượng nhân vật một vẻ đẹp đáng được lưu truyền.
16
17
1.2.3. Số phận bất hạnh của Thúy Kiều
Thúy Kiều xinh đẹp, tài hoa, thông minh, nàng mong muốn và xứng đáng có
một cuộc đời êm đềm, hạnh phúc nhưng con tạo xoay vần đã vùi dập cuộc đời nàng
xuống tận cùng của khổ đau. Khi viếng mộ Đạm Tiên, Kiều cũng đã mơ hồ được
một tất yếu nghiệt ngã về cuộc đời của những con người tài hoa:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Kiều có một cuộc đời bất hạnh, đầy oan nghiệt như lời dự báo khi còn nhỏ:
Nhớ từ năm hãy thơ ngây
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời
Anh hoa phát tiết ra ngoài
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa [9, 77]
Chuỗi bi kịch cuộc đời Kiều bắt đầu từ khi gia đình nàng bị vu oan bởi thằng bán
tơ. Cha và em Thúy Kiều thì bị tra tấn một cách dã man dù chưa rõ thực hư tội trạng
ra sao:
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi
Rường cao rút ngược dây oan
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người [9, 93]
Chứng kiến cảnh gia đình gặp cơn tai biến, thương cha và em bị đánh đập,
Kiều là chị cả và là người có ý thức trách nhiệm cao nên nàng đã quyết định hy sinh
hạnh phúc bản thân để cứu gia đình khỏi nguy cơ chia lìa, ly tán:
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao
Một cây gánh vác hết bao nhiêu cành
Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây [9, 103]
Quyết định chịu phần thiệt thòi về mình, Kiều phải từ bỏ tình yêu đẹp đẽ, sâu
sắc của nàng với Kim Trọng. Mới ngày nào nàng sống trong hương vị ngây ngất,
ngọt ngào của tình yêu đầu đời với những lời thề non hẹn biển:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tắc lòng
18
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương [9, 80]
Giờ đây, tình yêu đó chỉ còn là quá khứ, một quá khứ đời nàng, Kiều rơi vào
bi kịch tình yêu. Nghĩ đến hạnh phúc Kim Trọng, Kiều biết mình có lỗi vì đã không
giữ đúng lời thề của hai người nên Kiều đã nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng.
Nhưng trao duyên cho em mà lòng Kiều nào có vui gì, vì tình yêu của nàng với Kim
Trọng đã quá sâu nặng:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung [9, 111]
Trao vật tín ước của nàng với Kim Trọng cho Thúy Vân nhưng Kiều vẫn
vương vấn khôn nguôi vì những kỷ vật đó gắn liền với tình yêu chứa đựng tâm hồn
của cả hai người. Duyên trao cho em đó mà tình yêu thì không thể trao. Kiều biết
khi phụ tình với Kim Trọng, nàng sẽ đi theo con đường nghiệt ngã của định mệnh
đó là con đường mà Đạm Tiên đã đi. Hạnh phúc không còn, Kiều coi mình đã chết:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về [9, 112]
Kiều đau đớn đến tột cùng, nàng ngất lịm đi:
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng
Với Thúy Kiều, Kim Trọng mãi là người yêu đẹp nhất, lý tưởng nhất, nàng
không bao giờ quên mối tình đầu tuyệt đẹp của nàng, tình yêu sẽ mãi theo nàng suốt
mười lăm năm lưu lạc chốn giang hồ:
Chân trời gốc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Hạnh phúc rực rỡ đột ngột tan biến, những giây phút tươi đẹp mới mẻ đã trở
thành một ảo ảnh vô cùng xa xôi, nhưng những chuỗi bất hạnh của Thúy Kiều mới
chỉ là khởi đầu. Bán mình chuộc cha phải lìa xa cuộc sống gia đình, lìa xa hạnh
phúc tuổi trẻ mà nàng khao khát, Kiều dấn thân vào cuộc đời gió bụi. Khi biết mình
bị Mã Giám Sinh lừa và cướp đi sự trinh tiết mà bấy lâu nàng vẫn gìn giữ, nàng đau
đớn, tủi nhục và muốn quyên sinh:
Tuồng chi là giống hôi tanh,
19
Thân nghìn vàng để ô danh má hồng.
Thôi còn chi nữa mà mong?
Đời người thôi thế là xong một đời
Giận duyên tủi phận bời bời,
Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh
……
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau. [9, 123]
Đau đớn về thể xác và tinh thần khiến Kiều phải thốt lên những lời cầu xin
thảm thiết:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ nay xin chừa
Thật đau xót biết bao, Kiều ví thân mình chẳng khác nào thân loài vật. Và trận
đòn đó khiến nàng vô cùng khiếp sợ. Kiều bị bắt phải tiếp khách chốn làng chơi và
chịu cảnh thân xác bị dày vò:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh [9,160]
Kiều nhận ra tình cảnh và tự xót xa cho bản thân:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa [9, 161]
Kiều nhớ cha mẹ da diết, khôn nguôi và lo không biết cha mẹ có ai chăm sóc?
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà
Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình? [9, 163]
Và hơn thế, nàng nhớ về Kim Trọng với nỗi đau phụ tình chàng:
Nhớ lời nguyện ước ba sinh
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ, cho người chuyên tay![9, 164]
20
Kiều đã phản kháng, vùng vẫy thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ nhuốc nhưng
nàng vẫn mắc lừa Bạc Bà, Bạc Hạnh, và phải vào lầu xanh một lần nữa:
Cũng nhà hành viện xưa nay
Cũng phường bán thịt cũng tay buôn người
Thoắt trông nàng đã biết tình
Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao
Kiều đau đớn nguyền rủa số phận bất hạnh của mình:
Chém cha cái kiếp đào hoa
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi
Nghĩ đời mà ngán cho đời
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen! [9, 256]
Số phận đưa đẩy Kiều phải hai lần đi tu nhưng không phải do nàng tự nguyện
mà do số phận bắt buộc. Lần đầu là ở Quan Âm các của Hoạn Thư:
Sẵn Quan Âm các vườn ta
Có cây trăm thước có hoa bốn mùa
Nhưng Kiều nào đã dứt duyên trần, nàng vẫn còn lưu luyến cuộc sống trần gian:
Quan phòng then nhặt lướt mau
Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người
Lần thứ hai khi nàng trốn khỏi nhà Hoạn Thư đến chiêu ẩn am của sư Giác Duyên:
Gửi thân được chốn am mây
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong
Nhưng việc ngày đêm tụng kinh đâu phải một lòng hướng đến Phật mà đó như
là một thói quen của nàng:
Kệ kinh câu cũ thuộc lòng
Ngọn đèn việc cũ trai phòng quen tay
Cuộc đời Kiều bao lần lên xe hoa mà có lần nào hạnh phúc trọn vẹn. Làm lẽ
Mã Giám Sinh, nàng bị lừa vào lầu xanh hai lần. Còn với Thúc Sinh, lúc đầu Thúc
Sinh đến với Kiều chỉ là khách làng chơi tìm hoa:
Miệt mài trong cuộc truy hoan
Càng quen thuộc nết càng dan díu tình
21
Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi chốn lầu xanh và cưới nàng làm lẽ, nhưng để
được Thúc Ông – Cha của Thúc Sinh chấp nhận thì nàng đã phải chịu nhiều đòn roi
đau đớn của tên quan vô tình:
Một là cứ phép gia hình
Hai là lại cứ lầu xanh phó về
Kiều chấp nhận đòn roi vì nàng không thể chịu cảnh nhơ nhuốc của lầu xanh:
Dạy rằng cứ phép gia hình
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn
Phận đành chi giám kêu oan
Đào hoen quen má, liễu tan tác mày
Một sân lấm cát đã đầy
Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc xương
Nhưng vì sự nhát gan của Thúc Sinh mà Kiều đã phải chịu sự đau đớn về thể
xác và tinh thần do mẹ con Hoạn thư gây ra:
Nào là gia pháp nọ bay
Hãy cho ba chục biết tay một lần
Trúc lên ra sức đập vào
Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh
Đau đớn nhất là cảnh Thúy Kiều biến thành con ở của Hoạn Thư, nàng phải
hầu rượu và gảy đàn cho vợ chồng Hoạn Thư – Thúc Sinh nghe. Đến lúc này Kiều
mới vỡ lẽ sự tình và thấu hiểu được sự thâm độc của Hoạn Thư:
Vợ chồng chén tạc chén thù
Bắt nàng đứng trực trì hồ hai nơi
Bây giờ mới rõ tâm hơi
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen [9, 224]
Gặp được Từ Hải là người tri kỉ, tưởng rằng hạnh phúc đã mỉm cười với Thúy
Kiều khi Từ Hải cứu nàng thoát khỏi trốn lầu xanh và cưới nàng về làm vợ, được
hưởng cuộc sống hạnh phúc:
Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng
Nhưng hạnh phúc không bền, Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến và gây ra cái chết
của Từ Hải. Kiều đau đớn tột cùng:
22
Khóc rằng: “Chí dũng có thừa
Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
Kiều hai lần tìm đến cái chết, lần đầu là ở lầu xanh của Tú Bà, lần thứ hai là khi Hồ
Tôn Hiến bắt ép nàng lấy tên thổ quan và Kiều tìm đến cái chết như một sự tất yếu:
Giết chồng mà lại lấy chồng
Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời
Thôi thì một thác cho rồi
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông
Nhưng số phận chưa cho nàng chết mà cho nàng gặp lại cha mẹ và người xưa
của nàng – Kim Trọng. Tuy vậy cuộc hôn nhân của nàng với Kim Trọng không thể
hạnh phúc vì nàng cảm thấy thân nàng đã bị ô uế, bị vùi dập. Mười lăm năm lưu lạc
nàng đã chịu biết bao nhiêu đau đớn, nhơ nhuốc. Lấy Kim Trọng là do sự thúc ép
của gia đình và lòng thủy chung của Kim Trọng. Thúy Kiều không có hạnh phúc
trọn vẹn, cả hai người phải vật lộn với chữ tình một cách đau đớn. Dù Kim Trọng
có biện minh cho nàng đi chăng nữa:
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay
Nhưng bản thân Kiều ý thức rất rõ về hoàn cảnh của mình:
Thiếp từ ngộ biến đến giờ
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa
Bấy chầy gió táp mưa sa
Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn
Đúng như nhận xét của Hoài Thanh: “Truyện Kiều không phải là bài ca hân
hoan về giá trị của con người mà trở thành một câu chuyện thê thảm về vận mệnh
của con người” [8; 352]. Thúy Kiều là hiện thân của một vận mệnh có tính chất bi
kịch. Ánh sáng và bóng tối giằng xé qua hình tượng người thiếu nữ tuyệt vời, xinh
đẹp và cũng đáng yêu nhất trong văn học trung đại Việt Nam.
1.2.4. Nguyên nhân dẫn đến số phận bất hạnh của Thúy Kiều
Cuộc đời Kiều là một chuỗi dài những bi kịch nối tiếp nhau, mỗi lần nàng cố
cất đầu ra khỏi bùn nhơ lại là một lần vùi xuống sâu thêm một tầng nữa. Phải chăng
đó là thiên mệnh của người phụ nữ tài sắc. Theo thuyết “thiên mệnh của Nho giáo,
người ta ở đời thế nào, giàu nghèo, sướng khổ, may rủi là do số phận định trước, ở
23
đời “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”. Người quân tử phải biết nghe theo ý trời
mà nhận biết số phận của mình cho nên Thúy Kiều chỉ là cái đồ chơi của số mệnh:
Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Thúy Kiều bất hạnh là do sự ghen ghét của tạo hóa, người có tài sắc sẽ bị trời
đất bắt chịu kiếp phong trần. Ông trời cho ai cái này sẽ bớt lại cái kia, đó là quy luật
bù trừ của tạo hóa. Thúy Kiều tài sắc thì phải chịu lưu lạc, đày đọa là bởi trời đất
ban cho mười phần tài sắc thì bắt nàng phải chịu mười phần khổ đau:
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
…
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
…
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Nhưng cuộc đời Kiều không chỉ hoàn toàn do tạo hóa gây ra còn bởi Kiều
vướng phải chữ “Nghiệp” của tư tưởng Phật giáo. Theo thuyết “Nhân quả”, cái
“Nghiệp” chính là cái quả của kiếp trước và lại làm cái nhân cho kiếp sau. Nguyễn
Du cho rằng Thúy Kiều đã mang sẵn cái nghiệp chướng của kiếp trước nên kiếp này
nàng phải ghánh lấy sự khổ đau:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Theo nguyễn Du, ngoài ông trời, ngoài cái “Nghiệp” thì Kiều bất hạnh còn do
Kiều vướng vào chữ “Tình”:
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
24
Vậy nên những chốn thong dong
Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng
Nhưng mặt khác ta thấy, thủ phạm gây bao tai họa cho Kiều chính là cái xã
hội phong kiến thối nát. Chính cái xã hội bất công ấy đã vùi dập, chà đạp không
thương tiếc lên một người con gái tài sắc như Kiều chứ không phải do ông trời nào
hết. Trong Truyện Kiều thực sự có một xã hội, chà đạp lên cuộc đời Kiều không
phải là một vài con người cá biệt nào mà là cả một xã hội. Đại diện cho xã hội ấy là
bọn quan lớn, quan bé, gia đình quan lại đến bọn thừa hành như đám nha lại, đến
những kẻ sống bằng nghề buôn bán nhan sắc của phụ nữ .
Chuỗi bi kịch đầu tiên của Kiều là do bọn quan lại gây ra. Khi gia đình Kiều bị
tên bán tơ vu cáo “phải tên xưng xuất là thằng bán tơ”, tên quan xét xử vụ án này
không cho gia đình Kiều có cơ hội minh oan, không cần biết thực hư ra sao, không tra
hỏi gì mà mặc sức cho bọn sai nha cướp bóc, hành hạ tra tấn cha và em Thúy Kiều:
Người nách thước kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi
Rường cao rút ngược dây oan
Dẫu là đá cũng nát gan lòng người
Kiều phải chấp nhận làm vợ lẽ Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha và em và
bị lừa vào chốn lầu xanh của Tú Bà.
Tên quan thứ hai là người xét xử vụ kiện của Thúc Ông kiện Thúy Kiều. Tên
này trông qua thì có vẻ rất uy nghiêm, liêm khiết:
Trông lên mắt sắt đen sì
Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời
Nhưng cách hắn xét xử thật nực cười, phép công của hắn đưa ra thật kỳ quặc:
Phép công luận án chiếu vào
Hai con đường ấy muốn sao mặc mình
Một là cứ phép gia hình
Hai là lại cứ lầu xanh phó về
Pháp luật không hề đứng về phía người bị áp bức mà chỉ dồn Kiều vào bước
đường cùng, buộc nàng phải lựa chọn hoặc là chịu bị đánh đập hoặc là phải trở về
chốn lầu xanh. Một điều lạ là viên quan này không hề động lòng trước một cô gái
yếu liễu đào tơ, bị tra tấn mà lại động lòng trước những giọt nước mắt của Thúc
25