VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
K
ĐÀO THỊ HỒNG QUYẾT
ĐẶC ĐIỂM CỦA THÀNH NGỮ CÓ CHỨA THÀNH TỐ
“ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số
: 60.22.02.40
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI – 2017
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: TS.NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH
Phản biện 1: PGS.TS. PHẠM VĂN HẢO
Phản biện 2: PGS.TS. HOÀNG ANH THI
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội
hồi
giờ
ngày tháng năm 2017.
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội chúng ta thường sử dụng thành ngữ để làm
cho lời nói sinh động, tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc, người
nghe. Thành ngữ được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội.
Quá trình tạo ra nghĩa hình tượng liên quan đến các thành ngữ biểu
thị nội hàm văn hóa ăn và văn hóa mặc. Tuy nhiên để giải thích ngữ
nghĩa của thành ngữ có chứa thành tố ăn trong tiếng Việt chưa có
một công trình nào đề cập đến một cách có hệ thống. Đề tài này tập
trung vào tìm hiểu những cơ sở ngôn ngữ học liên quan đến bản chất
ngữ nghĩa của thành ngữ có chứa thành tố ăn trong tiếng Việt.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thành ngữ là một bộ phận quan trọng trong kho tàng văn hóa của
mỗi quốc gia. Thành ngữ hình thành và phát triển cùng với sự phát
triển của tiếng nói dân tộc. Việc nghiên cứu thành ngữ không chỉ góp
phần vào nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ mà còn góp phần bảo tồn
văn hóa dân tộc.
Trong vài chục năm trở lại đây, giới nghiên cứu Việt ngữ học
ngày càng đi sâu vào tìm hiểu các vấn đề thuộc bản chất ngữ nghĩa
của thành ngữ cũng như mối quan hệ của nó với các ngành khoa học
khác, đặc biệt là mối quan hệ ngữ nghĩa của thành ngữ với đặc trưng
tri nhận và các thành tố văn hóa của người Việt. Các nhà nghiên cứu
đã hướng đến kho tàng thành ngữ, xem đó như là những nguồn cứ
liệu phong phú và sống động về phong tục, tập quán, tín ngưỡng
cũng như nhân sinh quan, thế giới quan của người Việt.
2.1. Nghiên cứu thành ngữ trong Việt ngữ học nói chung
Trong Việt ngữ học truyền thống, thành ngữ mới chỉ thực sự trở
thành đối tượng của các nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ học
1
vào khoảng giữa thế kỉ XX, sau khi Dương Quảng Hàm trong cuốn
Việt Nam văn học sử yếu (1943) phân biệt và tách khái niệm thành
ngữ khỏi tục ngữ. Từ đó, thành ngữ được giới Việt ngữ học nghiên
cứu đều khắp ở nhiều bình diện như: cấu trúc hình thức, ngữ nghĩa,
cú pháp, v.v…
Nghiên cứu thành ngữ theo hướng từ vựng học, ngữ pháp học có
các tác giả: Trương Đông San (1974), Đái Xuân Ninh (1978), Cù
Đình Tú (1976), Nguyễn Thiện Giáp (1985, 1996), v.v…
Nghiên cứu về nguồn gốc hình thành và phát triển, các vấn đề về
ngữ nghĩa hoặc các bình diện về văn hóa của thành ngữ, tiêu biểu
như các tác giả: Bùi Khắc Việt (1978), Đỗ Hữu Châu (1981),
Nguyễn Đức Dân (1986), Hoàng Văn Hành (1987), Phan Xuân
Thành (1990, 1992, 1995), Nguyễn Như Ý (1992), Nguyễn Văn
Khang (1994), v.v…
Hướng nghiên cứu mới nhất là tiếp cận thành ngữ theo quan điểm
của ngôn ngữ học tri nhận. Trong công trình “Đặc trưng Văn hóa Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy”, Nguyễn Đức Tồn đã nghiên cứu
về “Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận trong thành
ngữ” và rút ra kết luận ẩn dụ tri nhận trong thành ngữ tiếng Việt
thuộc tiểu loại ẩn dụ cấu trúc. Vì vậy, tác giả cho rằng khi xét ẩn dụ
cấu trúc của một thành ngữ chính là xét ý nghĩa biểu trưng của thành
ngữ, cũng tức là xét mối quan hệ giữa nguồn và đích quy chiếu của
ẩn dụ cấu trúc trong thành ngữ. Trần Bá Tiến (2012) trong “Nghiên
cứu thành ngữ biểu thị tâm lý tình cảm trong tiếng Anh và tiếng Việt
từ bình diện ngôn ngữ học tri nhận” đã đi sâu phân tích bình diện
ngữ nghĩa, cụ thể là ẩn dụ và hoán dụ trong các thành ngữ chỉ trạng
thái tâm lí tình cảm trong tiếng Anh và tiếng Việt thuộc 5 phạm trù
tình cảm: tức giận, vui, buồn, sợ, xấu hổ. Đây là những vấn đề quan
trọng nhất, phản ánh đặc trưng tư duy, ngôn ngữ và văn hóa của cộng
2
đồng sử dụng chúng. Từ đó, tác giả đã tìm ra nét phổ quát và đặc thù
ngôn ngữ, văn hóa của thành ngữ chỉ trạng thái tâm lí tình cảm trong
tiếng Anh và tiếng Việt, chỉ ra những tương đồng và khác biệt của
các yếu tố tri thức, ngôn ngữ và văn hóa tác động đến việc hình
thành và sử dụng thành ngữ.
2.2. Nghiên cứu thành ngữ có chứa thành tố “ăn” trong tiếng
Việt
Hoạt động ăn trong thành ngữ tiếng Việt xuất hiện khá nhiều,
phản ánh quan niệm của ông bà ta xưa về việc ăn uống trên các
phương diện: văn hóa; đạo đức, nhân cách của con người bộ lộ qua
nết ăn uống; tập quán, thói quen sinh hoạt ăn, uống; và văn hóa cộng
đồng thể hiện qua hoạt động ăn, uống.
Trong Việt ngữ học, nghiên cứu về thành ngữ có chứa thành tố ăn
của con người rất ít, gần như chỉ xuất hiện ở một vài bài viết đơn lẻ.
Nguyễn Hữu Đạt (2010) trong bài viết “Con đường tạo nghĩa của
các thành ngữ liên quan đến ‘văn hóa ăn’ và ‘văn hóa mặc’ trong
tiếng Việt” [7] đã đi sâu phân tích quá trình tạo ra nghĩa hình tượng
liên quan đến các thành ngữ biểu thị nội hàm văn hóa ăn và văn hóa
mặc của người Việt. Từ đó, bài viết đưa ra nhận xét về mối quan hệ
khăng khít giữa văn hóa ăn và văn hóa mặc trong tiếng Việt – đây
được xem là cơ sở hình thành nên nét đẹp truyền thống trong văn hóa
Việt Nam. Tác giả Nguyễn Văn Chiến và Đặng Thị Yến Thu trong
Một công trình tiếng Việt (Tiếp cận nhân học – ngôn ngữ nghiên cứu
tính cách tộc người) đã cho rằng, các biểu thức ẩn dụ ẩm thực Việt
ngữ nằm sâu trong hệ thống cấu trúc ngôn ngữ và hiện rõ ở các chủ
đề giao tiếp liên cá nhân. Ý niệm ẩn dụ ẩm thực thể hiện ở các thành
ngữ chứa những đơn vị biểu nghĩa ẩm thực, đặc biệt là những thành
ngữ có yếu tố “ăn” chiếm đa số. Các biểu thức ẩm thực thành ngữ có
cơ chế hoạt động riêng, được phân thành hai vế theo kiểu Đề-
3
Thuyết. Giữa hai vế tồn tại nhiều kiểu quan hệ: quan hệ nối tiếp-nhân
quả; quan hệ nối tiếp song song; quan hệ song song đồng chiếu…
trong đó hình ảnh ẩm thực luôn là hình ảnh dẫn xuất góp phần tạo
nên nghĩa ẩn dụ cả biểu thức thành ngữ. Nguyễn Đức Dân trong bài
viết “Ăn, một từ kỳ thú” đã khẳng định ăn là một từ cơ bản và có
trong ngôn ngữ của mọi dân tộc. Ăn là một từ điển hình có nghĩa
được mở rộng. Khởi thủy, ăn là một hành động của con người, nghĩa
của từ ăn được mở rộng dần theo cách lấy khuôn mẫu con người để
nhận thức vũ trụ. Con đường phát triển ngữ nghĩa của từ ăn vô cùng
phong phú, ăn từ nghĩa đen đến nghĩa ẩn dụ, rồi các nghĩa chuyển,
nghĩa phái sinh là thiên biến văn hóa, nó diễn tả mọi nhận thức của
con người về vũ trụ và cuộc sống quanh mình. Nguyễn Thị Bích Hợp
[17] khi nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm “ăn” đã có sự phân loại “ăn”
thành các nhóm nghĩa nhỏ hơn, theo đó từ “ăn” trong Tiếng Việt có 7
nghĩa gồm cả nghĩa gốc và nghĩa phái sinh, và ngoài nghĩa gốc, mỗi
nghĩa phái sinh này có thể có thêm nhiều tầng bậc cấp dưới vô cùng
phong phú. Bên cạnh đó, luận án còn nghiên cứu mô hình tỏa tia của
“ăn” với các lớp nghĩa phái sinh của “ăn” vô cùng phong phú, với
nghĩa “ăn” là hoạt động tiếp nhận (gồm các tầng bậc như: thu nạp
vào; tiêu thụ; thụ hưởng; hứng chịu; giành đoạt; hấp thu); là hòa hợp;
lan ra; thực hiện hành động; và quan hệ thân xác…
Điểm qua lịch sử nghiên cứu về thành ngữ nói chung và thành
ngữ có chứa thành tố ăn trong tiếng Việt nói riêng, có thể nhận thấy
việc nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt là tương đối toàn diện, những
vấn đề như khái niệm thành ngữ, đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của
thành ngữ đã được các nhà ngôn ngữ học giải quyết triệt để. Tuy
nhiên, nghiên cứu thành ngữ có chứa thành tố ăn trong tiếng Việt là
một hướng đi vẫn còn bỏ ngỏ, chưa dành được nhiều sự quan tâm
nghiên cứu của giới Việt ngữ. Điều đó là một gợi ý cho chúng tôi
4
thực hiện đề tài “Ngữ nghĩa của thành ngữ có chứa thành tố ‘ăn’
trong tiếng Việt”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
⁃ Mục đích nghiên cứu: làm sáng tỏ ngữ nghĩa của thành ngữ có
chứa thành tố ăn trong Tiếng Việt, qua cơ chế tạo nghĩa của từ ăn
trong thành ngữ nói riêng, của thành ngữ nói về hoạt động ăn nói
chung, làm sáng tỏ đặc trưng tư duy văn hóa của người Việt, đặc biệt
là quan niệm, tư duy về văn hóa ăn được thể hiện qua thành ngữ.
⁃ Nhiệm vụ nghiên cứu: tìm hiểu ngữ nghĩa của từ ăn trong thành
ngữ hiểu theo nghĩa đen, nghĩa phái sinh, nghĩa biểu trưng, cơ chế
tạo nghĩa của thành ngữ; tìm hiểu quan niệm sống, nhân sinh quan
của người Việt về văn hóa ăn uống, mà sâu sắc hơn là cách nhìn
nhận, đánh giá con người được thể hiện qua thành ngữ về hoạt động
ăn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
⁃ Đối tượng nghiên cứu: Ngữ nghĩa và cơ chế tạo nghĩa của từ ăn
trong thành ngữ Tiếng Việt.
⁃ Phạm vi nghiên cứu: luận văn chỉ nghiên cứu những thành ngữ
tiếng Việt có chứa thành tố ăn được hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa
phái sinh, nghĩa biểu trưng, còn những thành ngữ không chứa thành
tố ăn nhưng lại chỉ hoạt động ăn của con người không thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài. Ngữ liệu khảo sát của luận văn được lấy trong
cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học
năm 2014 của tác giả Nguyễn Lân; Từ điển giải thích thành ngữ
tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục năm 1995, Nguyễn Như ý (chủ
biên). Ngoài ra, luận văn còn khảo sát ngữ liệu dựa trên các trang
web về thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt và từ một số bài viết của các
nhà nghiên cứu quan tâm đến thành ngữ tiếng Việt đã được xuất bản.
5
Tổng số câu thành ngữ có chứa động từ ăn được xét (bao gồm cả
thành ngữ biến thể) là 353 đơn vị thành ngữ
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
⁃ Phương pháp thống kê
⁃ Phương pháp miêu tả
⁃ Phương pháp phân tích ngữ nghĩa
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
-Ý nghĩa lí luận: : Nghiên cứu ngữ nghĩa và sự tạo nghĩa của từ “ăn”
trong thành ngữ Tiếng Việt theo hướng tiếp cận ngữ nghĩa học sẽ góp
phần làm sáng rõ hơn sự tạo nghĩa trong thành ngữ, đặc biệt là sự
hiện diện của các nhân tố văn hóa trong các đơn vị thành ngữ tiếng
Việt được thể hiện trong hành chức.
⁃ Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp cho
việc giảng dạy và học tập về ngữ nghĩa của thành ngữ có chứa thành
tố “ăn” cũng như các nghĩa phái sinh của chúng được sâu sắc và toàn
diện hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận.
Chương 2: Ngữ nghĩa và cơ chế tạo nghĩa của từ “ăn” trong thành
ngữ Tiếng Việt.
Chương 3: Đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện qua văn hóa “ăn”
trong thành ngữ tiếng Việt.
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm về thành ngữ
Thành ngữ là cụm từ cố định hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa. Ý
nghĩa của thành ngữ không được tạo thành từ ý nghĩa của các từ cấu
tạo nên nó và ý nghĩa thành ngữ thường có tính hình tượng và biểu
cảm.
Thành ngữ được hình thành trong quá trình giao tiếp, trong
sinh hoạt ăn uống và trong quá trình lao động sản xuất của con
người.Trong hệ thống ngôn ngữ ngoài chức năng là công cụ tư duy
và giao tiếp của con người, thành ngữ còn có chức năng phản ánh
liên quan phong tục tập quán, thói quen, nếp cảm nếp nghĩ của mỗi
cộng đồng. Chính vì vậy, thành ngữ tiếng Việt từ lâu đã trở thành đối
tượng nghiên cứu không chỉ của ngôn ngữ học mà còn của nhiều
ngành khoa học khác như văn hóa học, folklore học, dân tộc học…
Trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ, chúng
ta thường sử dụng thành ngữ để làm cho lời nói sinh động, tạo ấn
tượng sâu sắc đối với người nghe, người đọc.
Thành ngữ là những cụm từ cố định được đúc sẵn, hoạt động
trong câu với tư cách tương đương với một từ, có thể được sử dụng
thay thế cho một từ. Thành ngữ khi sử dụng trong hành chức bao giờ
cũng kèm theo sắc thái bình giá, cảm xúc nhất định. Nghĩa của thành
ngữ không phản ánh nghĩa của tổng số các từ cấu tạo nên nó mà là
nghĩa biểu trưng được nhào nặn nên từ tổ hợp từ trong thành ngữ.
Nói tóm lại, thành ngữ là một cụm từ cố định được dùng để định
danh cho các sự vật, hiện tượng, tính chất, hành động. Thành ngữ có
nội dung và hình thức khá hoàn chỉnh. Tính hình tượng, tính gợi cảm
7
và hình thức diễn đạt có tính bóng bẩy là những tính chất cơ bản của
thành ngữ.
1.2. Đặc điểm ngữ nghĩa và cơ chế tạo nghĩa của thành ngữ
Thành ngữ có tính hoàn chỉnh, bóng bẩy và tính gợi cảm cao.
Trên cơ sở nghĩa của các yếu tố cấu thành mà nghĩa của thành ngữ
không phải là nghĩa đen trực tiếp của các yếu tố cấu thành cộng lại
mà là nghĩa biểu trưng , nghĩa toàn khối. Nghĩa của thành ngữ là kết
quả của quá trình biểu trưng hóa.
Quá trình biểu trưng trong thành ngữ được thực hiện theo hai con
đường: liên tưởng tương đồng và tương cận. Nếu theo con đường
liên tưởng tương đồng, ta có các thành ngữ ẩn dụ hoặc so sánh; còn
nếu theo con đường tương cận, ta có các thành ngữ hoán dụ. Dựa vào
hình thức cấu tạo mà có thể phân ra thành ngữ có kết cấu chủ vị và
thành ngữ có kết cấu cụm từ.
1.3. Ranh giới giữa thành ngữ và các đơn vị lân cận
1.3.1. Mối quan hệ giữa thành ngữ và từ ghép
Hầu hết các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đều phân biệt rõ ranh
giới giữa thành ngữ và từ ghép dựa vào tiêu chí về nội dung, cấu trúc
và thành tố cấu tạo. Theo Nguyễn Văn Mệnh (1986), thành ngữ và
từ ghép có một số điểm giống nhau: chúng đều là những đơn vị ngôn
ngữ cố định, có sẵn, có tính thành ngữ và đều có chức năng định
danh. Thành ngữ và từ ghép có thể phân biệt ở một số điểm như: ở
phạm vi rộng hẹp và ở mức độ nông sâu trong nội dung ý nghĩa của
chúng, ở mức độ phức tạp của chức năng định danh, mức độ phức
tạp trong mối quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố v.v...
Từ ghép chỉ nêu lên khái niệm chung về sự vật, hiện tượng, hoạt
động, tính chất, trạng thái, còn thành ngữ không chỉ nêu lên một khái
niệm về sự vật, về hoạt động, về tính chất trạng thái mà còn nói rõ
8
thêm về những sự vật, những hoạt động đó như thế nào và những
tính chất, trạng thái ấy đến mức độ nào.
Có hai cách nhìn khác nhau về trường hợp trên. Quan điểm thứ
nhất cho rằng, nếu chỉ dựa vào đặc điểm có ý nghĩa bóng bẩy thì
không thể phân biệt được thành ngữ và từ ghép mà phải dựa vào hai
tiêu chí là chức năng và hình thức ngữ pháp. Thành ngữ thường miêu
tả những trạng thái, hình ảnh… phức tạp hơn từ ghép. Quan điểm thứ
hai gồm các tác giả như Nguyễn Thiện Giáp, Phan Văn Quế... đã coi
những tổ hợp từ như trẻ măng, dẻo kẹo... là thành ngữ vì chúng có từ
so sánh (ở đây, từ so sánh trong quá trình sử dụng đã bị ẩn đi: trẻ như
mặng, dẻo như kẹo, dẻo như kẹo kéo). Đó cũng là nét phân biệt với
những từ ghép có quan hệ so sánh như mắt lá dăm, mặt trái xoan.
1.3.2. Mối quan hệ giữa thành ngữ và cụm từ tự do
Nguyễn Văn Mệnh (1986) cho rằng, thành ngữ và cụm từ tự do
có ranh giới khá rõ ràng. Thành ngữ thuộc bình diện ngôn ngữ còn
cụm từ tự do thuộc bình diện lời nói. Thành ngữ và cụm từ tự do đều
là những đơn vị lớn hơn từ, do các từ tạo nên. Tuy nhiên, giữa chúng
lại có một số điểm khác biệt sau: cụm từ tự do được tạo ra do nhu
cầu giao tiếp, chúng gắn kết nhau thành một khối; khi ở trạng thái
tĩnh chúng là những từ riêng biệt. Còn thành ngữ gồm các từ gắn kết
với nhau chặt chẽ ngay cả khi ở trong trạng thái tĩnh lẫn trong hoạt
động giao tiếp. Cấu tạo của thành ngữ có tính ổn định, chặt chẽ, còn
cụm từ tự do có cấu tạo dài ngắn khác nhau tùy vào mục đích diễn
đạt. Xét về nghĩa, nghĩa của cụm từ tự do là do cấu trúc và nghĩa của
các từ tạo nên nó, còn nghĩa của thành ngữ được hình thành từ các
biện pháp tượng trưng, ẩn dụ, hoán dụ… Nhiều thành ngữ có nghĩa
khác hẳn nghĩa tường minh của các yếu tố cấu tạo nên nó.
1.3.3.
Mối quan hệ giữa thành ngữ và tục ngữ
9
Khi phân biệt thành ngữ và tục ngữ hầu hết các nghiên cứu
đều dựa vào đặc điểm nội dung, cấu trúc và chức năng. Thành ngữ và
tục ngữ có những điểm khác biệt về nội dung và hình thức ngữ.
Hoàng Văn Hành (2008) đã nhận xét: “Thành ngữ tuy có nhiều nét
tương đồng với tục ngữ (như tính bền vững về mặt cấu tạo, tính bóng
bẩy về nghĩa…) nhưng lại khác tục ngữ về bản chất. Sự khác biệt ấy
thể hiện ở chỗ: thành ngữ là những tổ hợp từ đặc biệt, biểu thị những
khái niệm một cách bóng bẩy, còn tục ngữ là những câu-ngôn bản
đặc biệt, biểu thị những phán đoán một cách nghệ thuật” [10; 10].
Sự khác nhau của các hình thức tư duy trên đây thể hiện ra ở
sự khác nhau về chức năng của các hình thức ngôn ngữ dùng để hiện
thực hoá trong hành chức. Thành ngữ gọi tên sự vật, tính chất, hành
động, diễn đạt khái niệm nên thành ngữ có chức năng định danh, còn
tục ngữ biểu thị các phán đoán, kết luận, kinh nghiệm nên nó có
chức năng thông báo.
1.4. Biến thể của thành ngữ
Xuất phát từ đặc điểm thể loại, thành ngữ vừa gần gũi, ngắn gọn,
vừa dễ nhớ, mà lại phản ánh hiện thực xã hội có hiệu quả. Trong
hành chức, thành ngữ có những khác biệt so với khi chúng đứng tách
biệt ngữ cảnh ở chỗ: khi hành chức trong những văn bản thuộc những
thể loại khác nhau thì thành ngữ mang phong cách chức năng khác
nhau, và thành ngữ trong sử dụng chịu ảnh hưởng của phương ngữ
vùng, miền. Tác giả Hoàng Văn Hành cho rằng nghiên cứu thành ngữ
theo hướng này (trong hành chức) sẽ rất hữu ích, nếu chú ý nghiên
cứu và miêu tả kĩ các biến thể của thành ngữ, bởi lẽ ở các biến thể
của thành ngữ hàm chứa những quy tắc biến đổi về hình thái - cấu
trúc, những quy tắc tạo nghĩa.
Trong thực tế sử dụng, các thành ngữ thường không xuất
hiện ở một hình thức duy nhất mà thường có nhiều dạng thức khác
10
nhau. Một số nghiên cứu cho rằng, biến thể thành ngữ có thể chia
làm ba loại: biến thể ngữ âm, biến thể từ vựng, và biến thể cấu trúc.
1.5. Phân loại thành ngữ
Có rất nhiều cách phân loại thành ngữ, dựa vào nhiều tiêu chí nên
kết quả phân loại cũng khác nhau. Trước hết, dựa vào cơ chế cấu tạo,
có thể chia thành ngữ tiếng Việt ra thành hai loại là thành ngữ so
sánh và thành ngữ miêu tả ẩn dụ.
1.6. Mối quan hệ giữa thành ngữ và văn hóa
Tìm hiểu mối quan hệ giữa thành ngữ và văn hóa cho thấy thành ngữ
không chỉ là một đơn vị ngôn ngữ đặc biệt có chức năng tư duy và là
công cụ giao tiếp quan trọng mà thành ngữ còn có chức năng phản
ảnh và lưu giữ những dấu ấn, di sản văn hoá của dân tộc.
Thành ngữ cũng phản ánh tính cách của người Việt. Đặc điểm
tính cách của người Việt Nam được nói đến trong thành ngữ bao
gồm cả những tính cách tốt, tích cực và những tính cách xấu, tiêu
cực. Một biểu thức ngôn ngữ có hàm ý đánh giá tích cực về người,
vật, thuộc tính, hoặc hành vi cho rằng như thế là tốt, đẹp, giỏi, là đạt
yêu cầu, đáng được được coi là biểu thức ngôn ngữ có hàm ý khen/
đánh giá cao.
Tiểu kết chương 1
Thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý
nghĩa, xuất hiện trong câu dưới dạng làm sẵn và hoạt động với tư
cách như một từ. Nghĩa của chúng có tính hình tượng và gợi cảm.
Thành ngữ có tính hoàn chỉnh, bóng bẩy và tính gợi cảm cao. Trên cơ
sở nghĩa của các yếu tố cấu thành mà nghĩa của thành ngữ không
phải là nghĩa trực tiếp của các yếu tố cấu thành cộng lại mà là nghĩa
bóng, nghĩa toàn khối. Nghĩa của thành ngữ là kết quả của quá trình
biểu trưng hóa.
11
Quá trình biểu trưng hoá được thực hiện theo hai con đường,
đó là liên tưởng tương đồng và tương cận. Hầu hết các nhà nghiên
cứu ngôn ngữ học đều phân biệt rõ ranh giới giữa thành ngữ và từ
ghép dựa vào tiêu chí về nội dung, cấu trúc và thành tố cấu tạo.
Thành ngữ phân biệt với từ ghép ở phạm vi rộng hẹp và ở mức độ
nông sâu trong nội dung ý nghĩa của chúng.
Thành ngữ và cụm từ tự do là những đơn vị lớn hơn từ, do các từ
tạo nên. Tuy nhiên giữa chúng lại có một số điểm khác biệt sau: cụm
từ tự do được tạo ra do nhu cầu giao tiếp, chúng gắn kết nhau thành
một khối; khi ở trạng thái tĩnh chúng là những từ riêng biệt.
Nét văn hóa trong lời ăn tiếng nói cũng được thể hiện qua thành
ngữ. Cách đối nhân xử thế thông qua lời ăn tiếng nói được người Việt
rất coi trọng. Thông qua việc tìm hiểu thành ngữ dưới góc nhìn ngôn
ngữ - văn hoá, chúng ta thấy được phác họa được đôi nét về bức
tranh văn hoá Việt Nam. Đó là nét đặc trưng trong đời sống nông
nghiệp trồng lúa nước, là văn hoá trong giao tiếp và đặc biệt là những
đặc điểm trong tính cách của người Việt chúng ta.
12
CHƯƠNG 2
NGỮ NGHĨA VÀ CƠ CHẾ TẠO NGHĨA CỦA TỪ ĂN
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
Ngữ nghĩa của từ “ăn” trong thành ngữ tiếng Việt
Luận văn đã thu thập được 353 đơn vị thành ngữ có chứa
thành tố “ăn”, không kể một số lượng khá lớn các vị thành ngữ nói về
hành động ăn uống nhưng không chứa thành tố “ăn”. Trong đó, thành
ngữ chứa thành tố “ăn” được hiểu theo nghĩa trực tiếp là 132 đơn vị
(chiếm 37,4%), thành ngữ chứa thành tố “ăn” được hiểu theo nghĩa
bóng, nghĩa biểu trưng là 221 đơn vị (chiếm 62,6%).
Trong đó có số lượng lớn những kết hợp có từ “ăn” mà không
dính dáng gì đến chuyện đưa thức ăn vào miệng và thực hiện động
tác nhai và nuốt cả, mà “ăn” lại chỉ hành vi, lối sống, phẩm chất,
nhân cách, tác phong của con người
2.1.
2.1.1. Ngữ nghĩa của từ “ăn” trong thành ngữ hiểu theo nghĩa
trực tiếp
Trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt, số lượng các câu thành ngữ
có chứa thành tố ăn được hiểu theo nghĩa đen là 140/374 câu, (chiếm
37,4 %). Có thể thấy, ông cha ta chủ yếu dùng miếng ăn để bàn về
các vấn đề khác thuộc về phạm trù con người chứ không nhất thiết để
nói về miếng ăn theo nghĩa nguồn năng lượng được đưa vào cơ thể
nhằm duy trì sự sống. Trong số ít các thành ngữ có chứa thành tố
“ăn” được hiểu theo nghĩa đen này, ngữ nghĩa của chúng chia thành
hai tiểu phạm trù, một là các thành ngữ có hàm ý tích cực (dương) và
một là các thành ngữ mang hàm ý tiêu cực (âm).
Như vậy, trong phạm vi các thành ngữ tiếng Việt nói về đặc
điểm, thuộc tính, phẩm chất, hành vi của con người (kể cả một số ít
13
những thành ngữ được lựa chọn, du nhập, vay mượn từ nguồn gốc
khác) người Việt rất chú ý đến việc phát hiện, miêu tả, định danh
kèm theo ý bình giá khen, chê, đồng thời tỏ ý chê bai, phê phán đối
với những cái xấu, cái dở trong lối sống, nếp sinh hoạt, hoặc nhân
cách sống của con người.
2.1.2. Ngữ nghĩa của thành ngữ chứa thành tố: “ăn” hiểu theo
nghĩa bóng
Trong nhóm thành ngữ có chứa thành tố ăn được hiểu theo nghĩa
bóng, có 221/353đơn vị thành ngữ loại này. Các nghĩa biểu trưng của
thành ngữ chứa thành tố “ăn” được chia thành nhiều nhóm như: kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm nhìn nhận đánh giá con người; cách ứng
xử của con người với gia đình, với xã hội; thói hư tật xấu, cố tật của
con người…
Thành ngữ chứa thành tố “ăn” đa phần không nói trực tiếp về việc
ăn uống được hiểu theo nghĩa là đưa thức ăn vào cơ thể qua đường
miệng, hay theo nghĩa là nạp nguồn năng lượng vào cơ thể, mà chủ
yếu thông qua việc ăn uống, ông bà ta muốn nói về phẩm cách, nhân
cách con người, đặc biệt là cách ứng xử, đối nhân xử thế của con
người trong cuộc sống gia đình và xã hội.
Dễ nhận thấy, trong khối liệu thành ngữ chứa thành tố “ăn” được
hiểu theo nghĩa bóng này, đa phần là các thành ngữ ẩn dụ, trong đó,
loại thành ngữ ẩn dụ chứa hai sự kiện là nhiều hơn cả, mỗi thành ngữ
loại này cũng nêu ra hai sự kiện, hai hiện tượng tương phản nhau
hoặc chí ít cũng không tương hợp nhau, bên cạnh đó, các thành ngữ
ẩn dụ chứa một sự kiện cũng xuất hiện nhiều, trong đó chỉ có một sự
kiện, một hiện tượng nào đó được nêu. Chính vì vậy, cũng chỉ một
hình ảnh được xây dựng và phản ánh thường nói về bài học làm
người, về nhân cách hay bản chất con người.
14
Sự tạo nghĩa của thành ngữ có chứa thành tố “ăn”
Con đường tạo nghĩa của các thành ngữ có chứa thành tố
“ăn” gắn liền với những đặc điểm nổi bật của các thành ngữ loại này,
nghĩa của thành ngữ đều hướng vào tình trạng, hành động hoặc tính
chất của hoạt động “ăn” của con người. Do đó, hầu hết, nghĩa của cả
thành ngữ phần nhiều còn gắn với nghĩa đen, nghĩa trực tiếp của toàn
tổ hợp khiến người ta có thể dễ dàng nhận diện chúng.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.
2.2.6.
Ăn + sung sướng/hưởng thụ
Ăn + khổ cực/thiếu thốn
Ăn + vị trí/không gian
Ăn + cách thức
Ăn + hành vi
Ăn + thái độ
15
Tiểu kết chương 2
“Ăn” là một chủ đề được nhắc tới nhiều trong thành ngữ
tiếng Việt. Cũng như thành ngữ tiếng Việt nói chung, thành ngữ chứa
thành tố “ăn” là những đơn vị ngôn ngữ đặc biệt biểu thị những nhận
xét, sự đánh giá về sự vật, hiện tượng khách quan, về phẩm chất con
người. Ngữ nghĩa của thành ngữ chứa thành tố ăn có thể được hiểu
theo nghĩa trực tiếp với nghĩa tích cực, nhưng phần lớn là nghĩa phê
phán, tuy nhiên, đa phần thành ngữ loại này được hiểu theo nghĩa
phái sinh với các nhóm nghĩa biểu trưng cơ bản như: nói về cách ứng
xử, tính cách, lối sống, phẩm chất, bản chất con người. Ở nhóm nghĩa
trực tiếp hay nghĩa phái sinh thì các thành ngữ mang thuộc tính âm
cũng chiếm ưu thế hơn nhóm mang thuộc tính dương. Tính phê phán
ở thành ngữ mang thuộc tính âm mạnh mẽ hơn, có tác dụng cải tạo,
phê phán những thói hư tật xấu, những nét tính cách xấu mang tính
cố hữu của con người. Tính châm biếm ở một số thành ngữ đã góp
phần tạo nên tiếng cười thẩm mỹ, góp phần ca ngợi, cổ vũ lối sống
mẫu mực, lên án những thói tật xấu.
Sự tạo nghĩa của thành ngữ chứa thành tố “ăn” có thể khái
quát thành 6 nhóm cơ bản, trong đó hạt nhân là động từ “ăn” hoặc
danh từ chỉ “sự ăn” kết hợp với các từ/tổ hợp từ chỉ sự sung sướng/
hưởng thụ; chỉ sự khổ cực/thiếu thốn; chỉ vị trí/không gian; chỉ cách
thức; chỉ hành vi; chỉ thái độ… để qua đó đánh giá cao hoặc phê phán
lối sống, tính cách, phẩm cách, thái độ ứng xử của con người trong
đời sống cộng đồng. Những thành ngữ mang thuộc tính dương hay
âm đều dựa trên nền tảng văn hóa truyền thống của cộng đồng người
Việt. Vì thế, những đơn vị thành ngữ chứa thành tố ăn thực chất lại
rất ít nói về hành vi ăn uống theo nghĩa gốc, mà chủ yếu thông qua
việc ăn, hành động ăn để răn dạy, giáo dục nhân cách, cách đối nhân
16
xử thế cho con người theo chuẩn mực văn hóa truyền thống của
người Việt.
CHƯƠNG 3
ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC THỂ HIỆN QUA VĂN
HÓA “ĂN” TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
3.1. Dẫn nhập
Trong kho tàng thành ngữ của người Việt, hoạt động “ăn” phản
ánh đặc trưng văn hóa dân tộc vô cùng rõ nét. Miếng ăn vừa thể hiện
tính cộng đồng xã hội, vừa nói lên triết lý về đạo sống, miếng ăn
cũng phản chiếu phép tắc xã hội, bên cạnh đó, miếng ăn cũng thể
hiện nghệ thuật sống và quy luật sống của con người. Sự vận dụng ý
niệm “ăn” vào việc mô tả tính tình, tâm lý, cách cư xử của con người
trong những khía cạnh và tình huống khác nhau của đời sống là một
hiện tượng đặc biệt, có thể coi như độc đáo của ngôn ngữ và văn hoá
Việt Nam.
3.2. Miếng ăn thể hiện tính cộng đồng xã hội
Trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt, thông qua ngữ liệu khảo sát
trên 300 câu thành ngữ có chứa thành tố ăn, chúng tôi nhận thấy có
tới ¼ trong số đó có nội dung phản ánh nét văn hóa truyền thống của
người Việt, mà ở đó, miếng ăn thể hiện tính cộng đồng xã hội.
Văn hóa ăn uống của người Việt được hình thành từ hàng nghìn
năm, từ cuộc sống làng xã và gắn liền với tính cộng đồng cao. Tính
cộng đồng trong bữa ăn của người Việt thể hiện trong cách ăn chung
đã trở thành nếp, thành lệ, thành thói quen ở mỗi gia đình.
Người Việt hay ăn uống tổng hợp, ăn chung cho nên các thành
viên trong bữa ăn phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Tính tổng hợp trong
17
lối ăn của người Việt còn thể hiện trong cách chế biến đồ ăn cũng
mang tính tổng hợp.
Tính cộng đồng trong bữa ăn của người Việt thể hiện tập trung
qua nồi cơm và chén nước mắm. Theo quan niệm của người Việt, nồi
cơm ở đầu mâm và chén nước mắm ở giữa mâm còn là biểu tượng
cho cái đơn giản mà thiết yếu: cơm gạo là tinh hoa của đất, mắm
chiết xuất từ cá là tinh hoa của nước - chúng giống như hành Thủy
và hành Thổ là cái khởi đầu và cái trung tâm trong Ngũ hành.
3.3. Miếng ăn nói lên triết lý về đạo sống
Người Việt với truyền thống đạo lý tốt đẹp là trọng ân nghĩa, sống
thủy chung, luôn cố kết cộng đồng và sống hướng thiện. Với nền văn
minh nông nghiệp, người Việt phải vất vả trong cuộc đấu tranh sinh
tồn và mưu sinh nên kiếm được cái ăn cái mặc thực khó khăn, vì vậy
mà miếng ăn luôn được trọng thị, và miếng ăn không chỉ là cái bản
năng sinh tồn mà cùng với sự phát triển của xã hội, miếng ăn đã trở
thành phương tiện để ông cha ta gửi gắm những triết lý về đạo sống,
những bài học làm người đắt giá.
Trong kho tàng thành ngữ người Việt, triết lý về đạo sống của
người Việt được thể hiện rất phong phú. Cái ăn cũng góp phần phản
ánh đạo sống của người Việt. Miếng ăn được xem như “thuốc thử”
đức hạnh của con người.
Qua miếng ăn trong kho tàng thành ngữ Việt, con người thể hiện
nhân cách, cách cư xử văn hóa của mình rõ rệt nhất: “Miếng ăn là
miếng nhục”. Bản chất con người bộc lộ qua cách ăn, kiểu ăn, và
mục đích ăn, qua đó, với vẻ đạo mạo bên ngoài, thành ngữ đã lột mặt
nạ cho mọi người thấy rõ con người thực bên trong: nhỏ nhen, ích
kỷ, thiếu văn hóa... "Ăn" như một quả cân để đo các giá trị văn hóa
khác, để phân định phẩm chất tốt-xấu, khinh-trọng, sang-hèn; hoặc
18
gợi ra những lời khuyên chân thực để con người cùng nhau vươn tới
giá trị chân - thiện – mỹ.
3.4. Miếng ăn nói lên phép tắc xã hội
Ở mỗi vùng đất khác nhau, đi cùng với nền văn hóa đặc trưng lại có
những chuẩn mực, nguyên tắc riêng trong việc ăn uống. Ăn là hoạt
động quan trọng trong đời sống, nhưng đối với người Việt, phong
cách ăn uống đôi khi còn quan trọng hơn miếng ăn, chất lượng bữa
ăn. Bữa cơm trong gia đình người Việt luôn thể hiện phép tắc xã hội,
văn hóa ứng xử của các thành viên trong bữa ăn. Cách xử thế trong
văn hóa ăn uống chính là những hiểu biết về các phong tục, tập quán
của đời sống xã hội. Một người có cách xử thế đúng đắn, khi giao
tiếp với xã hội cộng đồng phải tuân theo những chuẩn mực nhất định,
hành động theo khế ước cộng đồng
Người Việt Nam có truyền thống tôn sư trọng đạo, kính lão đắc thọ
nên trong bữa cơm gia đình, với quy tắc kính trên nhường dưới, tiền
chủ hậu khách, người lớn tuổi luôn được ưu tiên ngồi mâm trên, ngồi
trước, con cháu phải đợi ông bà cha mẹ có mặt đầy đủ rồi mới được
ăn. Thức ăn sẽ được gắp tiếp cho người già, trẻ em hoặc khách từ bát
đĩa chung trong mâm. Nếu được mời làm khách thì nên đợi chủ nhà
có lời rồi khách mới ăn. Khi ăn, người ít tuổi hơn phải mời người lớn
tuổi hơn trước để thể hiện lòng hiếu thảo. Tới bữa ăn đợi khi cả nhà
vào mâm đông đủ, con cháu sẽ lần lượt mời từ trên xuống rồi mới
được phép cầm đũa. Với người Việt, lời mời là biểu hiện của thái độ
kính trọng, lễ phép. Người Việt khi ăn cơm rất chú ý đến cách ăn bởi
nó còn quan trọng hơn cả món ăn.
Bữa ăn gia đình và đặc biệt là bữa ăn gia đình nhiều thế hệ là một
môi trường văn hóa, một không gian văn hóa thể hiện một quá trình
tiếp nối và bảo lưu văn hóa khá độc đáo của người Việt. Ở đây, mọi
19
yếu tố văn hóa không chỉ chuyển tải trong chuyện ăn gì mà còn luôn
luôn được gìn giữ trong khuôn phép cổ truyền, một lối ăn theo trật tự
truyền thống.
3.5. Miếng ăn thể hiện nghệ thuật sống
Đối với người Việt, ăn không chỉ là một cách sống, là một lối
sống, mà ăn còn là một nghệ thuật sống. Một lối sống có ý nghĩa là
một lối sống đầy nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật ăn uống. Đối với
người Việt bữa cơm chung còn là hoạt động giao tiếp, cộng cảm của
các thành viên trong gia đình với nhau, nơi họ có thể chia sẻ với
nhau mọi niềm vui, nỗi buồn sau một ngày cật lực làm việc vất vả.
Nghệ thuật sống của người Việt thể hiện qua bữa ăn không chỉ
nói lên cách sống chân tình, mộc mạc, thỏa mãn ngũ vị mà còn hơn
thế nữa, nó biểu tả những cảm tình sâu đậm nhất của mọi người
trong gia đình với nhau. Qua bữa ăn, ta có thể tìm thấy được sự thỏa
mãn tình cảm, những biểu lộ tình yêu, tình thương, hay sự quan tâm
của mọi người trong gia đình với nhau. Vì thế, niềm hạnh phúc gia
đình được đong đếm khi người nấu dụng công, cầu kỳ chế biến các
món ăn cho người thân thưởng thức, và những người thưởng thức
món ăn cố gắng ăn với cảm giác thật ngon đồ ăn thức uống, kèm
theo những lời khen ngợi khích lệ động viên hay đáp lại tình cảm của
người nấu. Qua đây, ta thấy người Việt diễn tả nghệ thuật sống qua
chính nghệ thuật ăn uống, với mục đích không chỉ nhằm tăng khẩu
vị, không chỉ để thỏa mãn dạ dày, mà còn để biểu lộ tình cảm, gắn
kết tình cảm của các thành viên trong gia đình với nhau.
Tiểu kết chương 3
Đề tài ăn uống có nội dung phong phú thể hiện trong thành
ngữ có thành tố “ăn”. Hầu như không có hoạt động nào hay khía cạnh
nào của cuộc sống mà không thể mô tả được bằng một từ ngữ có ý
20
nghĩa“ăn” hoặc trong các thành ngữ có thành tố “ăn”. Sự kiện từ
“ăn” có nghĩa bóng nhiều hơn nghĩa trực tiếp và thói quen sử dụng
thường làm ta quên hẳn cả nghĩa trực tiếp của nó cũng bao hàm một
ý nghĩa đặc biệt về vai trò của “ăn” trong văn hóa ẩm thực. Có thể
nói “ ăn” đã đi vào tiềm thức trở thành một thứ ám ảnh trong tâm lý
của dân tộc chúng ta.
Mỗi nền văn hóa trong quá trình hình thành, đều chịu sự chi
phối của một hoàn cảnh lịch sử, địa lý, và môi sinh nhất định. Dân
tộc Việt Nam với truyền thống cần cù, nhẫn nại, bền bỉ chịu đựng là
cũng do kết quả của một cuộc sống khó khăn, chật vật, tạo nên bởi
địa bàn sinh hoạt và ảnh hưởng của thiên tai như lũ lụt diễn ra hàng
năm. Thêm vào đó là hiểm họa xâm lăng triền miên của láng giềng từ
phương Bắc, và hoàn cảnh đó đã tạo cho dân tộc ta một bản lĩnh tinh
thần, một sức chịu đựng kiên cường. Trải qua quá trình giữ nước lâu
dài , đề tài có nội dung “ăn” đã trở thành mối quan tâm thường
xuyên, ghi lại dấu ấn trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt, trong đó
có các thành ngữ có chứa thành tố “ăn”.
21
KẾT LUẬN
1. Luận văn đã tiến hành khảo sát khối ngữ liệu thành ngữ tiếng
Việt và tìm ra 353 đơn vị thành ngữ có chứa thành tố “ăn”, trong đó
có 132 thành ngữ được hiểu theo nghĩa trực tiếp với nét nghĩa gốc chỉ
sự ăn hoặc nét nghĩa phái sinh chỉ hoạt động liên quan đến ăn uống
nói chung, có 221 thành ngữ được hiểu theo nghĩa bóng, với động từ
“ăn” hoặc danh từ chỉ sự ăn uống nói chung. Các nét nghĩa phái sinh
của thành ngữ chứa thành tố “ăn” rất phong phú, có thể quy vào một
số hướng nghĩa cơ bản như chỉ cách ứng xử, lối sống, bản chất, hoặc
nhân cách của con người. Ngữ nghĩa của các thành ngữ chứa thành tố
“ăn” bao hàm cả thuộc tính dương và âm, trong đó, các thành ngữ
mang thuộc tính âm chiếm đa số, với hàm ý phê phán, chê trách, lên
án những thói hư, tật xấu trong nếp sinh hoạt, ăn uống của con người,
rộng ra là phê phán, lên án những thói tật xấu trong tính cách, cách
cư xử trong quan hệ xã hội, cách sống trong cộng đồng, đặc biệt là
phê phán những cái xấu mang tính bản chất, liên quan đến nhân cách
của con người… được bộc lộ qua miếng ăn, và cách ứng xử khi “ăn
uống”.
2. Sự tạo nghĩa của thành ngữ có chứa thành tố “ăn” rất đa dạng và
phong phú, luận văn đã chỉ ra 6 phương thức tạo nghĩa cơ bản của
thành ngữ loại này, trong đó, mô hình tổng quát nhất là Ăn + X, trong
đó, biến số X có thể thay đổi, từ những tổ hợp từ chỉ sự hưởng thụ
sung sướng đến tổ hợp từ chỉ sự thiếu thốn, cực khổ; hay cách thức
ăn, thái độ đối với miếng ăn, vị trí, không gian ăn…qua đó, các nghĩa
biểu trưng của các thành ngữ được bộc lộ rõ.
3. Luận văn đã chỉ ra đặc trưng văn hóa dân tộc được thể hiện qua
các thành ngữ có chứa thành tố ‘ăn”, trong đó, những nét văn hóa
mang đặc trưng tư duy dân tộc Việt như tính cộng đồng trong bữa ăn;
khế ước cộng đồng; miếng ăn thể hiện đạo lý trọng tình, kính trên
22
nhường dưới. Có thể thấy, văn hóa “ăn” của người Việt luôn được
gắn với văn hóa “mặc” và văn hóa “ở” của con người, nó phản ánh
bộ ba nhu cầu tối thiểu nhất trong đời sống con người, và con người
chỉ thực sự cảm thấy cuộc sống ổn định và hạnh phúc khi cơm no, áo
ấm, và có một nếp nhà ấm áp, có như vậy gia đình mới có thể sum
vầy để quan tâm và chăm lo cho nhau theo đúng nghĩa một cuộc sống
đầy đủ trọn vẹn. Những nhu cầu này được phản ánh qua nhiều thành
ngữ chứa thành tố “ăn” trong kho tàng thành ngữ Việt./.
23