Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Ngữ nghĩa của thành ngữ có chứa thành tố ‘ăn’ trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.54 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THỊ HỒNG QUYẾT

ĐẶC ĐIỂM CỦA THÀNH NGỮ CÓ CHỨA THÀNH TỐ “ĂN”
TRONG TIẾNG VIỆT

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ

: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sĩ này do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS.Nguyễn Thị Bích Hạnh. Để hoàn thành luận văn này,
ngoài các tài liệu tham khảo đã liệt kê, tôi cam đoan không sao chép các
công trình hoặc nghiên cứu của người khác

Hà Nội, ngày…tháng…năm….
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đào Thị Hồng Quyết




LỜI CẢM ƠN
Học viên Đào Thị Hồng Quyết xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
TS.Nguyễn Thị Bích Hạnh- người đã hết lòng hướng dẫn, động viên, giúp đỡ
em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài này.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Ngôn Ngữ - Học viện
KHXH đã nhiệt tình truyền đạt nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu
trong quá trình học tập
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn gia đình, Học viện và các bạn đã ủng
hộ và tạo điều kiện giúp em trong học tập và nghiên cứu
Hà Nội, ngày…tháng…năm….
Tác giả

Đào Thị Hồng Quyết


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN .............................................. 12
1.1. Khái niệm về thành ngữ ........................................................................... 12
1.2. Đặc điểm ngữ nghĩa và sự tạo nghĩa của thành ngữ ................................ 14
1.3. Ranh giới giữa thành ngữ và các đơn vị lân cận ..................................... 14
1.4. Biến thể của thành ngữ ............................................................................ 22
1.5. Phân loại thành ngữ ................................................................................. 24
1.6. Mối quan hệ giữa thành ngữ và văn hóa.................................................. 26
CHƯƠNG 2: NGỮ NGHĨA VÀ CƠ CHẾ TẠO NGHĨA CỦA TỪ ĂN TRONG
THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT ................................................................................. 31
2.1. Ngữ nghĩa của từ “ăn” trong thành ngữ tiếng Việt .................................. 31
2.2. Sự tạo nghĩa của thành ngữ có chứa thành tố “ăn”.................................. 45

CHƯƠNG 3: ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC THỂ HIỆN QUA VĂN
HÓA “ĂN” TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT ............................................... 51
3.1. Dẫn nhập .................................................................................................. 51
3.2. Miếng ăn thể hiện tính cộng đồng xã hội ................................................ 53
3.3. Miếng ăn nói lên triết lý về lối sống ........................................................ 55
3.4. Miếng ăn nói lên phép tắc xã hội ............................................................. 57
3.5. Miếng ăn thể hiện nghệ thuật sống .......................................................... 59
KẾT LUẬN............................................................................................................ 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 64
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 70


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội chúng ta thường sử dụng thành ngữ để làm
cho lời nói sinh động, tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc, người nghe.
Thành ngữ được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội. Quá trình
tạo ra nghĩa hình tượng liên quan đến các thành ngữ biểu thị nội hàm
văn hóa ăn và văn hóa mặc. Tuy nhiên để giải thích ngữ nghĩa của
thành ngữ có chứa thành tố ăn trong tiếng Việt chưa có một công trình
nào đề cập đến một cách có hệ thống. Luận văn này tập trung vào tìm
hiểu những cơ sở ngôn ngữ học liên quan đến bản chất ngữ nghĩa của
thành ngữ có chứa thành tố ăn trong tiếng Việt.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thành ngữ là một bộ phận quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ
mỗi dân tộc. Thành ngữ hình thành và phát triển cùng với sự phát
triển của tiếng nói dân tộc. Việc nghiên cứu thành ngữ không chỉ
góp phần vào nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ mà còn góp phần bảo
tồn văn hóa dân tộc.

Trong vài chục năm trở lại đây, giới nghiên cứu Việt ngữ học ngày
càng đi sâu vào tìm hiểu các vấn đề thuộc bản chất ngữ nghĩa của thành
ngữ cũng như mối quan hệ của nó với các ngành khoa học khác, đặc

1


biệt là mối quan hệ ngữ nghĩa của thành ngữ với đặc trưng tri nhận và
các thành tố văn hóa của người Việt. Các nhà nghiên cứu đã hướng đến
kho tàng thành ngữ, xem đó như là nguồn cứ liệu phong phú và sống
động về phong tục, tập quán, tín ngưỡng cũng như nhân sinh quan, thế
giới quan của người Việt.
Trong Việt ngữ học, thành ngữ là đối tượng được nghiên cứu rất
sâu rộng trên nhiều bình diện khác nhau: cấu trúc, ngữ nghĩa, thi pháp,
tri nhận… Dưới đây, chúng tôi sẽ điểm qua tình hình nghiên cứu về
thành ngữ trong Việt ngữ học những năm qua.
2.1. Nghiên cứu thành ngữ trong Việt ngữ học
Trong Việt ngữ học truyền thống, thành ngữ mới chỉ thực sự trở
thành đối tượng của các nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ học vào
khoảng giữa thế kỉ XX, sau khi Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt
Nam văn học sử yếu (1943) phân biệt và tách khái niệm thành ngữ khỏi
tục ngữ. Từ đó, thành ngữ được giới Việt ngữ học nghiên cứu ở nhiều
bình diện như: cấu trúc hình thức, ngữ nghĩa, cú pháp, v.v…
Nghiên cứu thành ngữ theo hướng từ vựng học, ngữ pháp học có
các tác giả: Trương Đông San (1974), Đái Xuân Ninh (1978), Cù Đình
Tú (1976), Nguyễn Thiện Giáp (1985, 1996), v.v…
Nghiên cứu về nguồn gốc hình thành và phát triển, các vấn đề về
ngữ nghĩa hoặc các bình diện giao tiếp của thành ngữ, có các tác giả

2



tiêu biểu như: Bùi Khắc Việt (1978), Đỗ Hữu Châu (1981), Nguyễn
Đức Dân (1986), Hoàng Văn Hành (1987), Phan Xuân Thành (1990,
1992, 1995), Nguyễn Như Ý (1992), Nguyễn Văn Khang (1994),v.v…
Một số tác giả quan tâm đến nghĩa biểu trưng của thành ngữ như:
Bùi Khắc Việt (1978) nghiên cứu tính biểu trưng của thành ngữ tiếng
Việt, Trịnh Cẩm Lan (1995) lấy các đặc điểm của cấu trúc ngữ nghĩa và
giá trị biểu trưng của các thành ngữ để nghiên cứu trên nền cứ liệu
thành ngữ có thành tố là tên gọi động vật; Nguyễn Ngọc Vũ (2008)
nghiên cứu hoán dụ ý niệm ‘bộ phận cơ thể người biểu trưng
cho kỹ năng’ trong thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt; Quế Thị
Mai Hương (2008) nghiên cứu nghĩa biểu trưng của hình ảnh con vật
trong thành ngữ tiếng Việt; Mã Thị Hiển (2009) nghiên cứu ý nghĩa
biểu trưng của từ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt;
Nguyễn Thị Nguyệt Minh (2012) đã khảo sát ngữ nghĩa thành ngữ,
quán ngữ thời hiện đại và đưa ra những giá trị biểu trưng tiêu biểu.
Một hướng tiếp cận thành ngữ được giới Việt ngữ quan tâm nhiều
là nghiên cứu giá trị ngữ nghĩa, biểu trưng của các con số trong thành
ngữ, tiêu biểu như: Nguyễn Thị Hiền (2009) nghiên cứu ý nghĩa biểu
trưng của con số “ba” trong thành ngữ tiếng Việt; Trần Thị Lam Thủy
(2010) nghiên cứu ý nghĩa của con số 2 trong thành ngữ, tục ngữ, ca
dao người Việt nhìn từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa…

3


Hướng nghiên cứu, so sánh thành ngữ tiếng Việt với thành ngữ các
ngôn ngữ khác có một số tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Xuân Hòa
(1997) đã đối chiếu thành ngữ Nga - Việt trên bình diện giao tiếp và chỉ

ra những nét tương đồng và khác biệt của thành ngữ trong hai ngôn
ngữ do đặc trưng văn hóa dân tộc chi phối như: có cùng nội dung ngữ
nghĩa nhưng hình ảnh diễn đạt khác nhau; hình ảnh biểu trưng giống
nhau nhưng nội dung ý nghĩa khác nhau. Phan Văn Quế (1996) nghiên
cứu “Ngữ nghĩa của thành ngữ - tục ngữ có thành tố chỉ động vật trong
tiếng Anh”, đã vận dụng phép miêu tả tương phản về mặt ngữ nghĩa của
các thành tố chỉ động vật trong tiếng Anh trên nền của các thành tố
tương ứng trong tiếng Việt, qua đó chỉ ra các giá trị văn hóa được thể
hiện qua ngữ nghĩa. Ngô Minh Thủy (2005) Nghiên cứu về “Đặc điểm
của thành ngữ tiếng Nhật trong sự liên hệ với tiếng Việt” đã chỉ ra hệ
thống từ chỉ bộ phận cơ thể có trong thành ngữ của hai ngôn ngữ đều
được dùng dựa theo chức năng sẵn có của bộ phận cơ thể, những phong
tục tập quán liên quan đến bộ phận cơ thể, những đặc điểm sẵn có của
bộ phận cơ thể hay những đặc điểm do con người hình dung hoặc quan
niệm về bộ phận cơ thể đó. Qua đó, tác giả cũng đã chỉ ra rằng thành
ngữ Việt ưa dùng các từ chỉ các bộ phận thuộc cơ quan nội tạng hơn
thành ngữ Nhật, do đặc trưng tư duy chi phối lối dùng này. Phạm Minh
Tiến (2007) trong công trình “Đặc điểm thành ngữ so sánh tiếng Hán
(có đối chiếu với tiếng Việt)” đã lấy thành ngữ so sánh tiếng Hán làm
tâm điểm nghiên cứu và đưa ra những phát hiện thú vị, đó là cấu trúc so
sánh trong thành ngữ tiếng Hán hoàn toàn trùng khớp với thành ngữ so
4


sánh trong tiếng Việt. Song tác giả không đề cập nhiều đến đặc trưng
ngữ nghĩa của thành ngữ… Tóm lại, trong các nghiên cứu trên, các tác
giả đã so sánh thành ngữ tiếng Việt với thành ngữ của các dân tộc khác
nhằm làm rõ đặc trưng tư duy, văn hóa tính dân tộc và khẳng định vai
trò của thành ngữ tiếng Việt trong Việt ngữ và văn hóa Việt Nam.
Hướng nghiên cứu mới nhất là tiếp cận thành ngữ theo quan điểm

của ngôn ngữ học tri nhận. Trong công trình “Đặc trưng văn hóa - dân
tộc của ngôn ngữ và tư duy” Nguyễn Đức Tồn đã nghiên cứu về đặc
trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận trong thành ngữ, rút ra
kết luận ẩn dụ tri nhận trong thành ngữ tiếng Việt thuộc tiểu loại ẩn dụ
cấu trúc. Tác giả này cho rằng xét ẩn dụ cấu trúc của một thành ngữ
chính là xét ý nghĩa biểu trưng của thành ngữ, cũng tức là xét mối quan
hệ giữa nguồn và đích quy chiếu của ẩn dụ cấu trúc trong thành ngữ.
Trần Bá Tiến (2012) trong “Nghiên cứu thành ngữ biểu thị tâm lý tình
cảm trong tiếng Anh và tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học tri nhận”
đã đi sâu phân tích bình diện ngữ nghĩa, cụ thể là ẩn dụ và hoán dụ
trong các thành ngữ chỉ trạng thái tâm lí tình cảm trong tiếng Anh và
tiếng Việt thuộc 5 phạm trù tình cảm: tức giận, vui, buồn, sợ, xấu hổ.
Đây là những vấn đề quan trọng phản ánh đặc trưng tư duy, ngôn ngữ
và văn hóa của cộng đồng sử dụng chúng. Từ đó, tác giả đã tìm ra nét
phổ quát và đặc thù ngôn ngữ của thành ngữ chỉ trạng thái tâm lí tình
cảm trong tiếng Anh và tiếng Việt, chỉ ra những tương đồng và khác
biệt của các yếu tố tri thức, ngôn ngữ và văn hóa tác động đến việc hình

5


thành và sử dụng thành ngữ. Vi Trường Phúc (2013) trong luận án
Nghiên cứu thành ngữ chỉ tâm lý tình cảm trong tiếng Hán từ góc độ
ngôn ngữ học tri nhận (có liên hệ với tiếng Việt) trên cơ sở nguyên lý
“Dĩ nhân vi trung” của người Việt đã nghiên cứu tính nghiệm thân dựa
trên các bình diện: tâm trí, vô thức, ẩn dụ, hoán dụ. Tác giả này đã nghiên
cứu thành ngữ dựa trên sự tích hợp (thuyết pha trộn ý niệm) để làm rõ ẩn
dụ ý niệm không chỉ được xây dựng dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa hai
miền ý niệm hoặc lược đồ hình ảnh, và sơ đồ ánh xạ trong ẩn dụ chỉ diễn
ra một chiều (từ miền nguồn đến miền đích); mà còn được giải mã dựa

trên bốn không gian tâm trí (pha trộn ý niệm), ánh xạ giữa hai miền không
gian nguồn, đích là một sự tương tác đa chiều, các ý niệm không nhất thiết
phải có sẵn, được sử dụng một cách máy móc và vô thức mà có những ý
niệm mới mẻ và mang tính lâm thời, sự ánh xạ giữa chúng là ánh xạ
xuyên không gian.
2.2. Nghiên cứu thành ngữ có chứa thành tố “ăn” trong tiếng Việt
Hoạt động ăn trong thành ngữ tiếng Việt xuất hiện khá nhiều, phản
ánh quan niệm của ông bà ta xưa về việc ăn uống trên các phương diện:
văn hóa; đạo đức, nhân cách của con người bộc lộ qua nết ăn uống; tập
quán, thói quen sinh hoạt ăn, uống; và văn hóa cộng đồng thể hiện qua
hoạt động ăn, uống.
Trong Việt ngữ học, nghiên cứu về thành ngữ có chứa thành tố ăn
của con người rất ít, gần như chỉ xuất hiện ở một vài bài viết đơn lẻ.

6


Nguyễn Hữu Đạt (2010) trong bài viết “Con đường tạo nghĩa của các
thành ngữ liên quan đến ‘văn hóa ăn’ và ‘văn hóa mặc’ trong tiếng
Việt” [7] đã phân tích quá trình tạo ra nghĩa hình tượng liên quan đến
các thành ngữ biểu thị nội hàm văn hóa ăn và văn hóa mặc của người
Việt. Từ đó, bài viết đưa ra nhận xét về mối quan hệ khăng khít giữa
văn hóa ăn và văn hóa mặc trong tiếng Việt. Tác giả Nguyễn Văn Chiến
và Đặng Thị Yến Thu trong Một công trình tiếng Việt (Tiếp cận nhân
học – ngôn ngữ nghiên cứu tính cách tộc người) đã cho rằng, các biểu
thức ẩn dụ ẩm thực Việt ngữ nằm sâu trong hệ thống cấu trúc ngôn ngữ
và thể hiện ở các chủ đề giao tiếp liên cá nhân. Ý niệm ẩn dụ ẩm thực
thể hiện ở các thành ngữ chứa những đơn vị biểu nghĩa ẩm thực, đặc
biệt là những thành ngữ có yếu tố “ăn” chiếm đa số. Ăn là một từ điển
hình có nghĩa được mở rộng. Khởi thủy, ăn là một hành động của con

người, nghĩa của từ ăn được mở rộng dần theo cách lấy khuôn mẫu con
người để nhận thức vũ trụ. Con đường phát triển ngữ nghĩa của từ ăn vô
cùng phong phú, ăn từ nghĩa trực tiếp đến nghĩa ẩn dụ, rồi đến các
nghĩa chuyển, nghĩa phái sinh… Đặng Thị Hảo Tâm trong bài viết
về “Trường từ vựng - ngữ nghĩa ‘món ăn’ và ý niệm ‘con người’” [29,
25-34] đã đặc biệt quan tâm đến mối liên hệ có tính xuyên trường giữa
các nét nghĩa tạo nên cấu trúc biểu niệm của tiểu trường từ vựng - ngữ
nghĩa món ăn (trường nguồn/ miền nguồn) với trường đích/ miền đích
được tạo nên bởi những kinh nghiệm hàng ngày một cách tự động và vô
thức. Tác giả đã phân trường từ vựng - ngữ nghĩa món ăn thành các tiểu
trường: Tên gọi món ăn; Mùi vị món ăn; Hoạt động của con người
7


thưởng thức món ăn; Cảm giác của con người đối với món ăn…trong
đó, một số thành ngữ chỉ hoạt động ăn uống của con người như: Ăn mày
đòi xôi gấc; Ăn chực đòi bánh chưng… được xếp vào trường ý
niệm Địa vị, phẩm chất của con người là món ăn. Nguyễn Thị Bích
Hợp [17] khi nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm “ăn” đã có sự phân loại “ăn”
thành các nhóm nghĩa nhỏ hơn, theo đó từ “ăn” trong tiếng Việt có 7
nghĩa gồm cả nghĩa gốc và nghĩa phái sinh, và ngoài nghĩa gốc, mỗi
nghĩa phái sinh này có thể có thêm nhiều tầng bậc cấp dưới vô cùng
phong phú.
Điểm qua tình hình nghiên cứu về thành ngữ nói chung và thành
ngữ có chứa thành tố ăn trong tiếng Việt nói riêng, có thể nhận thấy
nghiên cứu thành ngữ có chứa thành tố ăn trong tiếng Việt là một
hướng đi vẫn còn bỏ ngỏ, chưa dành được nhiều sự quan tâm nghiên
cứu của giới Việt ngữ. Điều đó là một gợi ý cho chúng tôi thực hiện đề
tài “Ngữ nghĩa của thành ngữ có chứa thành tố ‘ăn’ trong tiếng Việt”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu: làm sáng tỏ ngữ nghĩa của thành ngữ có chứa
thành tố ăn trong tiếng Việt qua hoạt động ăn nói chung và qua sự tạo
nghĩa của từ ăn trong thành ngữ nói riêng nhằm làm sáng tỏ đặc trưng
tư duy văn hóa của người Việt được thể hiện qua thành ngữ.

8


- Nhiệm vụ nghiên cứu: tìm hiểu ngữ nghĩa của từ ăn trong thành ngữ
hiểu theo nghĩa trực tiếp nghĩa phái sinh, nghĩa biểu trưng sự tạo nghĩa
của thành ngữ; tìm hiểu cách nhìn nhận, đánh giá con người được thể
hiện qua thành ngữ về hoạt động ăn trong giao tiếp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Ngữ nghĩa và sự tạo nghĩa của từ ăn trong
thành ngữ tiếng Việt.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn chỉ nghiên cứu những thành ngữ
tiếng Việt có chứa thành tố ăn được hiểu theo cả nghĩa trực tiếp và
nghĩa phái sinh, nghĩa biểu trưng. Những thành ngữ không chứa
thành tố ăn nhưng lại chỉ hoạt động ăn của con người không thuộc
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Ngữ liệu khảo sát của luận văn được lấy trong cuốn Từ điển thành
ngữ, tục ngữ Việt Nam của Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang
Hào (Nxb Giáo dục, 1993), Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt
của Nguyễn Như Ý (chủ biên) (Nxb Giáo dục, 1995). Ngoài ra,
luận văn còn khảo sát ngữ liệu dựa trên các trang web nói về thành
ngữ, tục ngữ tiếng Việt, từ một số bài viết của các nhà nghiên cứu
về thành ngữ tiếng Việt đã được xuất bản. Tổng số câu thành ngữ
có chứa động từ ăn được xét (bao gồm cả thành ngữ biến thể) là
353 đơn vị thành ngữ


9


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp miêu tả
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lí luận: Nghiên cứu ngữ nghĩa và sự tạo nghĩa của từ “ăn”
trong thành ngữ Tiếng Việt theo hướng tiếp cận ngữ nghĩa học sẽ
góp phần làm sáng rõ hơn sự tạo nghĩa trong thành ngữ, đặc biệt là
sự hiện diện của các nhân tố văn hóa trong các đơn vị thành ngữ
tiếng Việt được thể hiện trong hành chức.
- Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp cho
việc giảng dạy và học tập thành ngữ có chứa thành tố “ăn” cũng
như các nghĩa phái sinh của chúng được toàn diện hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương:

10


Chương 1: Cơ sở lí luận.
Chương 2: Ngữ nghĩa và sự tạo nghĩa của từ “ăn” trong thành ngữ
tiếng Việt.
Chương 3: Đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện qua văn hóa “ăn”
trong thành ngữ tiếng Việt.


11


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Khái niệm về thành ngữ
Thành ngữ là cụm từ cố định hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa.
Ý nghĩa của thành ngữ không được tạo thành từ ý nghĩa của các từ cấu
tạo nên nó và ý nghĩa thành ngữ thường có tính hình tượng và biểu cảm.
Thành ngữ được hình thành trong quá trình giao tiếp, trong sinh
hoạt ăn uống và trong quá trình lao động sản xuất của con người.Trong
hệ thống ngôn ngữ ngoài chức năng là công cụ tư duy và giao tiếp của
con người, thành ngữ còn có chức năng phản ánh liên quan phong tục
tập quán, thói quen, nếp cảm nếp nghĩ của mỗi cộng đồng. Chính vì
vậy, thành ngữ tiếng Việt từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu
không chỉ của ngôn ngữ học mà còn của nhiều ngành khoa học khác
như văn hóa học, folklore học, dân tộc học…
Trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ, chúng ta
thường sử dụng thành ngữ để làm cho lời nói sinh động, tạo ấn tượng
sâu sắc đối với người nghe, người đọc.
Thành ngữ là những cụm từ cố định được đúc sẵn, hoạt động
trong câu với tư cách tương đương với một từ, có thể được sử dụng thay
thế cho một từ. Thành ngữ khi sử dụng trong hành chức bao giờ cũng
12


kèm theo sắc thái bình giá, cảm xúc nhất định. Nghĩa của thành ngữ
không phản ánh nghĩa của tổng số các từ cấu tạo nên nó mà là nghĩa

biểu trưng được nhào nặn nên từ tổ hợp từ trong thành ngữ. Ví dụ:
thành ngữ “Gắp lửa bỏ tay người” chỉ hành động bịa đặt, vu khống
nhằm hãm hại người khác; thành ngữ Xui trẻ con ăn cứt gà chỉ hành
động xui dại, xúi giục người khác làn điều sai trái, dại dột; thành ngữ
”Nuôi ong tay áo” chỉ hành động nuôi dưỡng, giúp đỡ kẻ xấu rắp tâm
hại mình mà mình không biết.
Trong cuốn “Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ” Hoàng Văn Hành
đã đưa ra định nghĩa: “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền
vững về hình thái cấu trúc, hoàn chỉnh bóng bẩy về ý nghĩa, được sử
dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày đặc biệt là trong khẩu ngữ” [11;
25]. Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Từ và nhận diện từ Tiếng Việt” đã
cho rằng: “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh
về nghĩa, vừa có tính gợi tả, tính biểu tượng là đặc trưng cơ bản của
thành ngữ. Thành ngữ biểu thị khái niệm nào đó dựa trên những hình
ảnh, những biểu hiện cụ thể. Tính hình tượng của thành ngữ được xây
dựng dựa trên cơ sở của hiện tượng so sánh và ẩn dụ” [8; 151]. Tác giả
Nguyễn Văn Mệnh trong bài viết: “Vài suy nghĩ góp phần xác định khái
niệm thành ngữ trong Tiếng Việt” (Ngôn ngữ, số 3/1986) đã đưa ra khái
niệm về thành ngữ: “là một loại đơn vị ngôn ngữ có sẵn. Chúng là
những ngữ có kết cấu chặt chẽ và ổn định, mang một ý nghĩa nhất định,
có chức năng định danh và được thực hiện trong giao tế” [23; 12].

13


Nói tóm lại, thành ngữ là một cụm từ cố định được dùng để
định danh cho các sự vật, hiện tượng, tính chất, hành động. Thành
ngữ có nội dung và hình thức khá hoàn chỉnh. Tính hình tượng, tính
gợi cảm và hình thức diễn đạt có tính bóng bẩy là những tính chất cơ
bản của thành ngữ.

1.2. Đặc điểm ngữ nghĩa và sự tạo nghĩa của thành ngữ
Thành ngữ có tính hoàn chỉnh, bóng bẩy và tính gợi cảm cao.
Trên cơ sở nghĩa của các yếu tố cấu thành mà nghĩa của thành ngữ
không phải là nghĩa đen trực tiếp của các yếu tố cấu thành cộng lại mà
là nghĩa biểu trưng , nghĩa toàn khối. Nghĩa của thành ngữ là kết quả
của quá trình biểu trưng hóa.
Quá trình biểu trưng trong thành ngữ được thực hiện theo hai con
đường: liên tưởng tương đồng và tương cận. Nếu theo con đường liên
tưởng tương đồng, ta có các thành ngữ ẩn dụ hoặc so sánh; còn nếu theo
con đường tương cận, ta có các thành ngữ hoán dụ. Dựa vào hình thức
cấu tạo mà có thể phân ra thành ngữ có kết cấu chủ vị và thành ngữ có
kết cấu cụm từ.
1.3. Ranh giới giữa thành ngữ và các đơn vị lân cận
1.3.1. Mối quan hệ giữa thành ngữ và từ ghép

14


Hầu hết các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đều phân biệt rõ ranh
giới giữa thành ngữ và từ ghép dựa vào tiêu chí về nội dung, cấu trúc và
thành tố cấu tạo. Theo Nguyễn Văn Mệnh (1986), thành ngữ và từ ghép
có một số điểm giống nhau: chúng đều là những đơn vị ngôn ngữ cố
định, có sẵn, có tính thành ngữ và đều có chức năng định danh. Thành
ngữ và từ ghép có thể phân biệt ở một số điểm như: ở phạm vi rộng hẹp
và ở mức độ nông sâu trong nội dung ý nghĩa của chúng, ở mức độ
phức tạp của chức năng định danh, mức độ phức tạp trong mối quan hệ
ngữ pháp giữa các thành tố v.v...
Từ ghép chỉ nêu lên khái niệm chung về sự vật, hiện tượng, hoạt
động, tính chất, trạng thái, còn thành ngữ không chỉ nêu lên một khái
niệm về sự vật, về hoạt động, về tính chất trạng thái mà còn nói rõ thêm

về những sự vật, những hoạt động đó như thế nào và những tính chất,
trạng thái ấy đến mức độ nào. Nguyễn Thiện Giáp, khi dựa vào đặc
điểm ngữ nghĩa để phân biệt thành ngữ và từ ghép, đã nêu khái quát
như sau: “Từ ghép là tên gọi thuần túy còn thành ngữ là tên gọi gợi cảm
của sự vật nào đó” [8]. Sự phức tạp và chưa thống nhất giữa các tác giả
nằm ở một vài trường hợp mà Đỗ Hữu Châu gọi là “những đơn vị trung
gian” như: mắt lươn, mắt phượng, mắt cá chày… hoặc những trường
hợp mà Trương Đông San cho là thành ngữ so sánh như: trẻ măng, dẻo
kẹo… Đối với những trường hợp này, các tác giả cho rằng đó là những
thành ngữ ở dạng tối giản nhất, tuy không có từ so sánh nhưng ý nghĩa
so sánh vẫn rõ.

15


Có hai cách nhìn khác nhau về trường hợp trên. Quan điểm thứ
nhất cho rằng, nếu chỉ dựa vào đặc điểm có ý nghĩa bóng bẩy thì
không thể phân biệt được thành ngữ và từ ghép mà phải dựa vào hai
tiêu chí là chức năng và hình thức ngữ pháp. Thành ngữ thường miêu
tả những trạng thái, hình ảnh… phức tạp hơn từ ghép. Nguyễn Văn
Mệnh cho rằng mối quan hệ ngữ pháp trong thành ngữ phức tạp hơn,
có nhiều bậc hơn trong khi ở từ ghép, mối quan hệ ngữ pháp đơn
giản, ít bậc hơn. Quan điểm thứ hai gồm các tác giả như Nguyễn
Thiện Giáp, Phan Văn Quế... đã coi những tổ hợp từ như trẻ măng,
dẻo kẹo... là thành ngữ vì chúng có từ so sánh (ở đây, từ so sánh
trong quá trình sử dụng đã bị ẩn đi: trẻ như mặng, dẻo như kẹo, dẻo
như kẹo kéo). Đó cũng là nét phân biệt với những từ ghép có quan hệ
so sánh như mắt lá dăm, mặt trái xoan. Theo Nguyễn Thiện Giáp,
một số thành ngữ lược bỏ từ so sánh đó thường dễ được nhận thức
như là những từ ghép.

Cho nên, việc coi các đơn vị ngôn ngữ kiểu như dẻo kẹo, đen
thui là từ ghép, còn các đơn vị kiểu dẻo như kẹo, đen như thui là
thành ngữ vừa phù hợp với đặc thù của tiếng Việt, vừa phù hợp với
tri nhận của người bản ngữ.
1.3.2. Mối quan hệ giữa thành ngữ và cụm từ tự do
Nguyễn Văn Mệnh (1986) cho rằng, thành ngữ và cụm từ tự do
có ranh giới khá rõ ràng. Thành ngữ và cụm từ tự do đều là những đơn

16


vị ngôn ngữ lớn hơn từ, do các từ tạo nên. Tuy nhiên, giữa chúng lại có
một số điểm khác biệt sau: cụm từ tự do được tạo ra trong lời nói, trong
diễn từ do nhu cầu giao tiếp, vì nó không tồn tại dưới dạng làm sẵn; khi
ở trạng thái tĩnh chúng là những từ riêng biệt. Còn thành ngữ là những
đơn vị ngôn ngữ đặc biệt, tồn tại dưới dạng làm sẵn nên thành tố cấu
tạo của nó có số lượng ổn định, không thay đổi ngay cả khi ở trong
trạng thái tĩnh lẫn trong hoạt động giao tiếp. Cấu tạo của thành ngữ có
tính ổn định, chặt chẽ, còn cụm từ tự do có cấu tạo “lỏng” có thể thêm,
bớt từ trong lời nói tùy vào mục đích diễn đạt. Xét về nghĩa, nghĩa của
cụm từ tự do là do cấu trúc và nghĩa của các từ tạo nên nó, còn nghĩa
của thành ngữ biểu thị một khái niêm trọn vẹn thông qua cách miêu tả
có hình tượng bằng kết cấu dưới dạng làm sẵn. Ví dụ, “Sống trên đời
ăn miếng dồi chó” chỉ món ăn khoái khẩu được người Việt Nam ưa
thích; ở nghĩa thực tại dùng trong giao tiếp được hiểu là hưởng thú vui
trên đời; hoặc “Ăn canh cả cặn” chỉ những kẻ bần tiện, chi li, keo kiệt,
bủn xỉn.
1.3.3. Mối quan hệ giữa thành ngữ và tục ngữ
Khi phân biệt thành ngữ và tục ngữ hầu hết các nghiên cứu đều
dựa vào đặc điểm nội dung, cấu trúc và chức năng. Thành ngữ và tục

ngữ có những điểm khác biệt về nội dung và hình thức ngữ. Hoàng Văn
Hành (2008) đã nhận xét: “Thành ngữ tuy có nhiều nét tương đồng với
tục ngữ (như tính bền vững về mặt cấu tạo, tính bóng bẩy về nghĩa…)

17


nhưng lại khác tục ngữ về bản chất. Sự khác biệt ấy thể hiện ở chỗ:
thành ngữ là những tổ hợp từ đặc biệt, biểu thị những khái niệm một
cách bóng bẩy, còn tục ngữ là những câu-ngôn bản đặc biệt, biểu thị
những phán đoán một cách nghệ thuật” [10; 10].
Nguyễn Văn Mệnh trong bài viết “Vài suy nghĩ góp phần xác
định khái niệm thành ngữ Tiếng Việt” (Ngôn ngữ, số 3/1986) cũng đưa
ra ba tiêu chí: ý nghĩa, ngữ pháp và chức năng để xác định sự khác nhau
giữa thành ngữ và tục ngữ. Về ý nghĩa, thành ngữ thường nghiêng về
cái có tính chất hiện tượng, ngẫu nhiên, riêng lẻ, còn nội dung của tục
ngữ thường nghiêng về cái bản chất, khái quát và tất yếu. Về mặt ngữ
pháp, đa số thành ngữ có cấu trúc là những ngữ, còn tất cả tục ngữ đều
có cấu trúc ngữ pháp của đơn vị câu. Về mặt chức năng, thành ngữ làm
nhiệm vụ định danh, còn tục ngữ giữ chức năng thông báo. Đây là
những ý kiến xác đáng giúp người nghiên cứu quan tâm đến sự khác
biệt giữa thành ngữ với tục ngữ. Song, để có sơ sở làm việc hiệu quả,
dưới đây luận văn tổng hợp lại quan niệm phân biệt thành ngữ với tục
ngữ của Cù Đình Tú (1973) mà tác giả luận văn này đồng tình:
Cù Đình Tú [38] cho rằng, “về hình thức ngữ pháp nói chung mỗi
thành ngữ chỉ là một cụm từ (…), mỗi tục ngữ tối thiểu là một câu”.
Tác giả này có nhận xét , sự hác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ
là sưk khác nhau về chức năng, và ông đưa ra bảng tổng quát như sau:

18



Thành ngữ

Tục ngữ

Định danh: gọi tên sự Thông báo: Thông báo
vât, tính chất, hành động

một nhận định, một kết
luận về một phương
diện của thế giới khách

Chức năng

quan

- Đại bộ phận là kết cấu - Kết cấu hai trung
một trung tâm.

Cấu tạo

- Có thể thêm các trợ từ - Có thể thêm các hư
để

nhấn

mạnh

trong lời nói


(thì, từ chỉ quan hệ tỉnh
lược (thì, mà…)

mà…)

Vận dụng

tâm.

Dùng làm bộ phận để Có khả năng độc lập
tạo câu

tạo thành câu; cũng có
khi dùng làm bộ phân
để tạo thành câu.

Nguồn: Cù Đình Tú (Ngôn ngữ, 1973, số 1, tr. 39 ) [38]
Tuy nhiên theo bảng này cần hiểu về mặt cấu tạo kết cấu một
trung tâm là cụm từ, còn kết cấu hai trung tâm là kết cấu chủ-vị.
19


Theo bảng trên có thể thấy rõ hơn sự khác biệt giữa thành ngữ và
tục ngữ khi đối chiếu so sánh:

Thành ngữ

Tục ngữ


Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với Ăn Bắc, mặc Kinh = (một kinh
ma mặc áo giấy = (gọi tên một nghiệm, một thông báo) những
hành động) Lựa tình thế, lựa quan nơi ăn ngon mặc đẹp là đất Thăng
hệ mà đối xử cho phù hợp.

Long xưa, đất Kinh Kì, tức kinh
đô Thăng Long xưa, hà Nội ngày
nay

Ăn chay niệm Phật = (đinh danh Ăn cỗ ngồi áp vách, ăn khách
về con người) con người ăn ở ngồi thành bàn = (một kinh
lương thiện, nhân ái, tu nhân tích nghiệm xử sự) Khi ăn cỗ (thường
đức một long tờ bi bác ái

ngồi chiếu, ngồi giường) nên ngồi
áp vách có chỗ dựa thoải mái, còn
khi mời cơm khách thì nên ngồi
thành bàn cho lịch sự.

Ăn cơm nhà Phật, đốt râu thầu Ăn cơm mới, xới gốc bầu / Muốn
chùa = (định danh một phẩm chất ăn bầu trồng đầu tháng chín =
của con người) Kẻ phản phúc vô (một kinh nghiệm trồng trọt) Gieo

20


ơn.

hạt bầu vào đầu tháng chín âm
lịch, đến tháng mười là tháng

cúng cơm mới, cây đã lớn cần xới
bón

Ăn đường ngủ chợ = (đinh danh Ăn đưa xuống, uống đưa lên=
một hoàn cảnh sống) Cảnh sống (một kinh nghiêm ăn cỗ) Trước
lang thang, cầu bơ cầu bất, không đây ở nông thôn khi ăn cỗ thường
nhà không cửa.

xếp mâm trên, mâm dưới. Mâm
trên dành cho các cụ, khách khứa
để nhiều thức ăn hơn; mâm dưới
dành cho con cháu. Người mâm
trên ăn ít uống (rượu) nhiều,
thường sẻ thức ăn xuống mâm
dưới; người mâm dưới trông
chừng tiếp thêm rượu cho mâm
trên.

Sự khác nhau của các hình thức tư duy trên đây thể hiện ra ở sự
khác nhau về chức năng của các hình thức ngôn ngữ dùng để hiện thực
hoá trong hành chức. Thành ngữ gọi tên sự vật, tính chất, hành động,
diễn đạt khái niệm nên thành ngữ có chức năng định danh, còn tục ngữ

21


×