Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Những khó khăn của người đồng tính nữ trong quá trình khẳng định xu hướng tính dục của bản thân tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.88 KB, 29 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Thị Kiều Trang

KHÓ KHĂN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH NỮ TRONG QUÁ TRÌNH
KHẲNG ĐỊNH XU HƯỚNG TÍNH DỤC CỦA BẢN THÂN
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI QUẬN HÀ ĐÔNG- THÀNH
PHỐ HÀ NỘI)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số:

60 31 03 01


TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI, năm 2016

2


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa Học Xã Hội
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Đỗ Thị Vân Anh

Phản biện 1: Ts. Mai Thị Kim Thanh

Phản biện 2: Ts. Bùi Thị Thanh Hà


Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội
Lúc giờ 14h ngày 17 tháng 4 năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đồng tính, song tính,
chuyển giới được xem như một xu hướng tính dục độc lập bên cạnh xu
hướng di tính. Tuy không thể thống kê một cách chính xác nhưng các
nhà khoa học ước tính cộng đồng người này chiếm khoảng 3% dân số
một nước. Tỷ lệ này gần như không thay đổi giữa các quốc gia, thời
đại hoặc nền văn hóa.
Việt Nam đã và đang trong quá trình hội nhập, xã hội ngày
càng phát triển, cách nhìn nhận của con người về cuộc sống ngày càng
thay đổi.Theo báo cáo của Trung tâm Bảo vệ và Thúc đẩy Quyền của
người Đồng tính, Song tính và Chuyển giới (ICS) tổ chức nhân ngày
Thế giới chống kỳ thị người Đồng tính, Song tính và Chuyển giới
đưa ra: Tính theo “tỷ lệ an toàn” đã được nhiều nhà khoa học thừa
nhận với mức 3%, Việt Nam hiện có khoảng 1,65 triệu người đồng
tính và lưỡng tính trong độ tuổi 15-59; đa phần trong số họ đang phải
chịu kỳ thị, định kiến, kể cả bạo lực. Họ cũng phải chịu những thiệt
thòi về cơ hội học tập, công việc, hôn nhân và chăm sóc sức
khỏe.Đặc biệt, đối với một nhóm người thiểu số song tính, đồng tính,
chuyển giới cộng đồng người Việt Nam chưa thực sự có cái nhìn cởi
mở và coi họ là những người bình thường. Theo tài liệu của Viện

Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE), trước năm 1994
trên Thế giới vẫn quan niệm rằng, đồng tính là một căn bệnh thuộc
nhóm bệnh lệch lạc giới tính và có liên quan đến các biểu hiện suy
đồi đạo đức. Thậm chí một số quốc gia còn liệt đồng tính thuộc bệnh

1


tâm thần và cần theo dõi đặc biệt.Tại những nước theo đạo Hồi, đồng
tính là vấn đề không thể khoan dung. Người đồng tính luyến ái
thường bị lăng mạ, bị cấm đoán, bị trừng phạt, thậm chí bị tử hình
chỉ vì có xu hướng tình dục khác biệt. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử
với người đồng tính không chỉ xảy ra ở những quốc gia Hồi giáo
Trung Đông mà ngay cả ở những xã hội cởi mở như Hoa Kỳ, định
kiến và phân biệt đối xử với người đồng tính luyến ái vẫn còn tồn tại.
Theo điều tra của Viện nghiên cứu dư luận xã hội Mỹ, 41% dân số
Mỹ cho rằng nếp sống của người đồng tính luyến ái mâu thuẫn với
nếp sống của những cư dân còn lại. Sự miệt thị và ghê sợ người đồng
tính luôn đi kèm với nhau mà hậu quả là hàng năm ở Mỹ có hàng
chục người đồng tính luyến ái bị sát hại. Người ta nhận thấy tất cả
những trường hợp trên đều chứa đựng chung một yếu tố là thành
kiến chống lại sự bất thường về giới và xu hướng tình dục của những
người đồng tính.
Từ sau năm 1994, các nhà khoa học đã nhận ra sai lầm của
mình nên từ đó đồng tính luyến ái không bị coi là bệnh. Họ nhận ra
rằng đây là một hiện tượng, một thiên hướng tình dục bình thường.
Sự thay đổi về nhận thức tại các quốc gia trên Thế giới, đặc biệt là
những nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Đức... đã góp phần tạo
nên cách nhìn đúng đắn hơn về những người đồng tính nói riêng và
cộng đồng LGBT nói chung. Mặc dù vậy, một thực tế vẫn đang tồn

tại ở Việt Nam là chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu rõ về thế nào là đồng
tính, song tính, chuyển giới... Theo kết quả thống kê năm 2010 tại
Việt Nam của Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường

2


(iSEE), 67,25% trong tổng số 3.231 người đồng tính trả lời hoàn toàn
bí mật hoặc gần như bí mật về bản dạng giới của mình. Hai lý do
chính để người đồng tính muốn giữ bí mật xu hướng tình dục là lo sợ
bị xã hội kỳ thị (41%) và gia đình không chấp nhận (39%). Những
năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xu hướng hội
nhập và giao lưu với văn hóa phương Tây,.... Đặc biệt, việc kết hôn
giữa người cùng giới tính trong Luật hôn nhân và gia đình ở Việt
Nam đã được sửa đổi kể từ ngày 1/1/2015, bỏ quy định “cấm kết hôn
giữa những người cùng giới tính” nhưng có quy định cụ thể: “không
thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (khoản 2 Điều
8). Đây là động lực rất lớn dẫn tới sự biến đổi mạnh mẽ trong thái
độ, hành vi của nhiều người dân đối với nhiều vấn đề của xã hội, đặc
biệt bản thân những người đồng tính, song tính, chuyển giới đã mạnh
mẽ đứng lên đòi quyền con người và quyền được đối xử bình đẳng
trong xã hội. Mặc dù vậy, họ vẫn chịu nhiều áp lực, khó khăn.
Khác với người đồng tính nam, được biết đến và nhận hỗ trợ
nhiều hơn trong xã hội, người nữ yêu nữ dám đối mặt và tiết lộ về
bản thân không nhiều. Các nghiên cứu, bài viết về người đồng tính
nói chung, nữ đồng tính nói riêng đã chỉ ra những áp lực, định kiến
từ phía xã hội dành cho nhóm người này vẫn còn không ít. Thành
phố Hà Nội là một trong những thành phố có tốc độ phát triển
nhanh,văn minh và hiện đại nhất. Nơi tập hợp rất nhiều những người
đồng tính nữ đã và đang mong muốn được khẳng định xu hướng tính

dục của bản thân với cộng đồng và xã hội. Đề tài chọn nghiên cứu
trường hợp tại địa bàn này với mong muốn tập trung nhìn nhận

3


những khó khăn mang lại đối với người nữ đồng tính. Với mục tiêu
nhằm làm rõ câu hỏi: Theo cách nhìn nhận của những người nữ đồng
tính hiện nay, họ phải đối mặt với những khó khăn nào? Những
nhóm người khác nhau trong xã hội nhìn nhận sao về những khó
khăn của họ? Khó khăn nào ảnh hưởng tới cuộc sống của người đồng
tính nữ? Trong những khó khăn gặp phải, trở ngại nào khiến họ có
cảm giác khó vượt qua nhất?....Sự kỳ thị nguy hiểm ở chỗ, nó không
chỉ biến một nhóm người thành nạn nhân mà nó biến cả xã hội thành
thủ phạm, khi người ta phân tách nhóm, tạo ra đặc quyền của đa số
và đong đếm phẩm giá từng người dựa trên việc người đó khác biệt
so với số đông như thế nào, và bình thường hóa, biến nó thành sự
hiển nhiên, tiêu chuẩn. Với mong muốn được góp phần giảm bớt sự
kỳ thị từ xã hội với người đồng tính nữ, tác giả đi đến thực hiện đề
tài “Khó khăn của người đồng tính nữ trong quá trình khẳng định
xu hướng tính dục của bản thân.”(Nghiên cứu trường hợp tại
Quận Hà Đông - Thành phố Hà Nội).
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu này là nhận diện được những khó khăn
của người đồng tính nữ từ hai phía: Thứ nhất nhìn nhận những khó
khăn từ chính bản thân người đồng tính. Thứ hai, nhìn nhận những
khó khăn này từ cộng đồng xã hộitại thành phố Hà Nội.Từ đó đưa ra
những khuyến nghị cho cộng đồng và người đồng tính nữ nhằm giảm
bớt những khó khăn trong quá trình công khai xu hướng tính dục của

người đồng tính nữ nói riêng và người đồng tinh Việt Nam nói chung

4


2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đưa ra những cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ nghiên
cứu đề tài
Tìm hiểu thực trạng khó khăn của người đồng tính nữ trong quá
trình khẳng định xu hướng tính dục của bản thân: Tiếp cận từ hướng
nhìn cộng đồng, gia đình.
Tìm hiểu thực trạng khó khăn của người đồng tính nữ trong quá
trình khẳng định xu hướng tính dục của bản thân: Tiếp cận từ
hướng nhìn bản thân người đồng tính nữ.
Đưa ra một số kiến nghị nhằm định hướng về việc giảm thiểu
những khó khăn của người nữ yêu nữ trong xã hội khi họ muốn
công khai về xu hướng tính dục của bản thân.
2.3 Câu hỏi nghiên cứu
Theo cách tiếp cận từ hướng nhìn cộng đồng và gia đình,
người đồng tính nữ gặp phải khó khăn gì trong quá trình khẳng định
xu hướng tính dục của bản thân? Nhóm cộng đồng nào dễ dàng chấp
nhận xu hướng tính dục của người đồng tính nữ?
Theo cách tiếp cận từ hướng nhìn bản thân người đồng tính
nữ, quá trình khẳng định xu hướng tính dục của bản thân gặp phải
những khó khăn gì? Trong những khó khăn gặp phải, trở ngại nào
khiến họ có cảm giác khó vượt qua nhất?
2.4 Giả thuyết nghiên cứu
- Sự kỳ thị của cộng đồng là nguyên nhân chính dẫn tới việc người
đồng tính nữ giấu kín xu hướng tính dục của mình.
- Sự định hướng thông tin của truyền thông Việt Nam về người đồng

tính nữ chưa chính xác dẫn tới sự kỳ thị của cộng đồng về nhóm

5


người này.
- Gia đình của người đồng tính nữ không dễ dàng chấp nhận xu
hướng tính dục của con em mình
- Chính bản thân người đồng tính vẫn còn tự kỳ thị giới tính thực của
mình
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu những khó khăn
của người đồng tính nữ trong quá trình khẳng định xu hướng tính dục
của bản thân.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Những người nữ đồng tính sinh sống và làm việc/ học tập tại
Hà Nội.
- Bạn bè, đồng nghiệp của những người đồng tính nữ tại
Thành phố Hà Nội.
- Gia đình của những người đồng tính nữ hiện đang sinh sống tại
thành phố Hà Nội.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trường hợp tại thành phố Hà Nội để đảm bảo cho tính
đầy đủ của “mẫu” trong quá trình nghiên cứu. Thời gian: Từ tháng 6/
2015 – 11/2016.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nghiên cứu tài liệu thứ cấp
Nghiên cứu này tổng hợp, phân tích tài liệu và sử dụng
những nghiên cứu có liên quan đến đồng tính luyến ái, là phương


6


pháp được sử dụng để rút ra những thông tin có sẵn cần thiết trong
tài liệu để đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
4.2. Thu thập thông tin sơ cấp
4.2.1 Phỏng vấn bán cấu trúc (phỏng vấn sâu)
Là phương pháp định tính, tiến hành phỏng vấn sâu 07 khách
thể là người nữ đồng tính trên địa bàn Hà Nội với nội dung về những
khó khăn và cách thức đối mặt, khắc phục khó khăn gặp phải trong
cuộc sống của họ. Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu 3 gia đình có
con là người đồng tính và 5 người bạn.
4.2.2Khảo sát bằng bảng hỏi (tự ghi)
Nghiên cứu thực hiện trên 300 khách thể không bao gồm
người đồng tính nữ, gồm: sinh viên, phụ huynh, cán bộ công nhân
viên chức và người đi làm tự do (buôn bán, xe ôm,…) tại địa bàn
thành phố Hà Nội.
Phương pháp xử lý thông tin:
Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS để xử lý thông tin thu
thập được từ cuộc khảo sát. Các số liệu định lượng sử dụng trong
luận văn được rút ra từ cuộc khảo sát này.
4.2.3 Phương pháp chọn mẫu
Để tài sử dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích, áp dụng
phương pháp chọn mẫu “Quả bóng tuyết – Snowball-network
sampling”.
- Phỏng vấn sâu 7 người đồng tính nữ: Đề tài bắt đầu chọn
mẫu có chủ đích từ một cá thể không ngẫu nhiên – một người đồng

7



tính nữ từ cộng đồng “câu lạc bộ đồng tính nữ”. Sau đó được sự giới
thiệu của cá thể đó tới những người tiếp theo.
.

8


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm làm việc
Việc xác định rõ một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
không chỉ giúp chúng ta sử dụng nó như một công cụ nghiên cứu mà
còn định hướng phạm vi nội dung và cách tiếp cận vấn đề nghiên
cứu.
1.1.1

Đồng tính (homosexual)

1.1.2

Đồng tính nữ

1.1.3

Khó khăn

1.1.4


Tính dục

1.1.5

Xu hướng tính dục

1.2. Các lý thuyết sử dụng trong đề tài
1.2.1Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý
Có thể thấy, trong cuộc sống, người đồng tính nữ gặp phải
những vấn đề trở ngại, họ luôn phải đặt mình trong lựa chọn làm thế
nào để có thể tốt nhất hoặc lựa chọn thái độ, cách cư xử của bản thân
để đạt được lợi ích tinh thần nhất định. Ví dụ, trong số những người
đồng tính nữ, có những người đã tiết lộ cho một vài hoặc nhiều
người không trong cộng đồng LGBT biết về xu hướng tính dục của
bản thân, lại có những người không tiết lộ cho bất cứ ai, ngoài những
người cũng trong cộng đồng LGBT. Vậy, có thể thấy, việc tiết lộ hay
không tiết lộ xu hướng tính dục cũng là một sự lựa chọn của người
đồng tính để đạt được mục đích của mình. Có những người đồng tính
luôn cố gắng che dấu bản thân, điều này có nghĩa họ gặp trở ngại
hoặc vấn đề gì đó, khiến họ không lựa chọn việc muốn công khai xu
hướng tính dục của mình. Còn với những người đã tiết lộ, có nghĩa,

9


họ đã có những lựa chọn điều kiện, phương thức để công khai xu
hướng tính dục của bản thân “có lợi” ở một khía cạnh nào đó.
1.2.2 Tiếp cận theo lý thuyết lệch chuẩn
“Hành vi lệch chuẩn cá nhân” xảy ra khi một cá nhân hành động lệch
lạc một cách đơn độc ra khỏi các chuẩn mực xã hội đã được thiết lập.

“Hành vi lệch chuẩn nhóm” xảy ra khi một nhóm các thành viên
hành động trái ngược với các chuẩn mực xã hội đã được qui ước.
Các hành vi lệch chuẩn nhóm thường thuộc loại tiểu văn hóa của
nhóm. Lệch chuẩn thuộc tiểu văn hóa xảy ra khi một cá nhân hay
một nhóm không tuân thủ theo mong đợi chung của xã hội, nhưng
hành xử theo mong đợi của nhóm. Vấn đề lệch chuẩn của một nhóm
xảy ra khi mong đợi của nhóm khác hoặc đi ngược với mong đợi của
xã hội. Lệch chuẩn có thể thay đổi không còn là sự lệch lạc thậm chí
có thể thành chuẩn mực khi thời gian, nơi chốn và văn hóa thay đổi.
Do đó, hành vi lệch chuẩn có tính tương đối.
Quay trở lại vấn đề đồng tính luyến ái có là lệch chuẩn hay không,
điều này sẽ thay đổi theo không gian và thời gian. Tại một số nước
phương Tây, việc kết hôn đồng giới được pháp luật thừa nhận, người
đồng tính được thừa nhận công khai, nhưng tại Việt Nam, đây vẫn là
vấn đề để ngỏ. Tại Hi Lạp cổ xưa, có những đội quân là người đồng
tính, họ được chấp nhận sinh sống như những người dị tính khác.
Nhưng hiện nay, đặc biệt là tại Việt Nam, đồng tính có là lệch chuẩn
hay không vẫn đang được đánh giá bởi nhiều suy nghĩ, con mắt khác
nhau. Khi sử dụng lý thuyết lệch chuẩn trong nghiên cứu này nhằm
lý giải những nhận định, hành vi của cộng đồng đối với người đồng
tính nữ trong thời điểm hiện tại của Việt Nam.
1.2.3 Lý thuyết “Mô hình nhận diện của Cass”.

10


Lý thuyết “Mô hình Nhận diện của Cass”[4,tr.14,15] – lý
thuyết do Vivienne Cass đưa ra vào năm 1979. Đây là một trong
những lý thuyết được các tổ chức hỗ trợ cộng đồng LGBT quan tâm
chú ý và nhắc tới nhiều nhất. Nội dung lý thuyết này thực chất là một

mô hình gồm sáu giai đoạn. Mô hình này mang tính chất tiên phong,
nó được xây dựng trên cái nhìn bình đẳng về các xu hướng tính dục
và đã xem xét đến cả yếu tố kỳ thị động tính. Mô hình này lấy bối
cảnh Xã hội còn xem đồng tính là bất thường và kỳ thị họ. Cass mô
tả một quá trình gồm 6 giai đoạn khi một người đồng tính nam hoặc
nữ nhận diện mình là đồng tính và hòa nhập với xã hội xung quanh.
Theo ICS, có thể các giai đoạn của Cass được trình bày theo
dạng nối tiếp nhau, nhưng trên thực tế, tùy vào mỗi cá nhân, tùy vào
hoàn cảnh riêng mà không nhất thiết các giai đoạn này phải trải qua
lần lượt. Có cá nhân sẽ bỏ qua, có cá nhân sẽ quay ngược hoặc ở một
giai đoạn nào đó nhiều lần trong đời. Các giai đoạn mà Cass đưa ra
mang tính chất tổng hợp nhất, không áp dụng riêng biệt cho một
trường hợp cụ thể nào. Mô hình nhận diện của Cass gồm 6 (sáu) giai
đoạn như sơ đồ 2.1. Việc Cass chỉ ra sáu giai đoạn trong quá trình
nhận diện của người đồng tính có ý nghĩa khá quan trọng đối với các
nghiên cứu về LGBT nói chung và những tìm hiểu về người đồng
tính nói riêng. Như đã nói, các giai đoạn có thể không được sắp xếp
theo bất cứ thứ tự nào, nó phụ thuộc vào việc bản thân cá nhân đón
nhận vấn đề ra sao, môi trường hoàn cảnh cá nhân đang tồn tại như
thế nào…

11


CHƯƠNG 2
KHÓ KHĂN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH NỮ TRONG QUÁ TRÌNH
KHẲNG ĐỊNH XU HƯỚNG TÍNH DỤC CỦA BẢN THÂN: TIẾP
CẬN TỪ HƯỚNG NHÌN CỘNG ĐỒNG VÀ GIA ĐÌNH

2.1Những khó khăn mang lại từ phía cộng đồng sinh sống (bạn

bè/ thầy cô/ hàng xóm/ đồng nghiệp)
2.1.1Nhận thức về đồng tính nữ:
Đồng tính nữ là thuật ngữ đã được du nhập vào Việt Nam
cách đây không lâu, trước sự xuất hiện của HIV/AIDS tại Việt Nam
đầu thập niên 1990, có rất ít thông tin về người đồng tính. Từ năm
2008, sự xuất hiện của các tổ chức lớn hoạt động dành cho người
đồng tính ở Việt Nam đã thu hút được rất nhiều người tham gia,
đồng nghĩa với tỷ lệ tỷ lệ người biết đến thuật ngữ này cũng ngày
càng nhiều hơn. Đặc biệt, những tranh cãi trong sửa đổi luật Hôn
nhân và gia đình về kết hôn đồng tính cũng đã được dư luận cả nước
biết đến. Luật Hôn nhân và gia đình 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn
giữa những người cùng giới tính” nhưng có quy định cụ thể: “không
thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (khoản 2 Điều
8).
Dựa trên thực trạng nêu trên, đề tài tiến hành khảo sát trên
300 khách thể tại thành phố Hà Nội về những khái niệm, quan điểm
cơ bản nhất về đồng tính nữ, kết quả thu về cho thấy tỷ lệ người
chưa bao giờ nghe đến thuật ngữ đồng tính nữ là rất ít, chỉ chiếm 5%
và phần lớn đều là những người lớn tuổi trong cộng đồng hoặc là
ông/bà người thân trong gia đình của người đồng tính nữ. Tỷ lệ
người đã từng nghe (chiếm 31%) và nhận biết về thuật ngữ đồng tính
nữ chiếm tỷ lệ rất cao (57%). Qua quá trình khảo sát thì phần lớn đều

12


là các bạn trẻ và người trung tuổi tham gia và tiếp nhận thông tin về
người đồng tính là chủ yếu. Các thông tin nhận thức về đồng tính nữ
được tiếp nhận thông qua các kênh truyền thông phổ biến như báo,
tivi, internet,.. và hoạt động thực tế của một số tổ chức về cộng đồng

người đồng tính.
2.1.2 Thái độ, hành vi của cộng đồng đối với người đồng tính nữ
Với những cách hiểu chưa toàn diện và chính xác về thuật
ngữ, nhận thức đồng tính nữ là ai và quan điểm về họ còn sai lệch,
dẫn tới thái độ của cộng đồng về người đồng tính nữ cũng có những
nhận thức chưa chính xác. Theo kết quả điều tra thực tế có 85.3%
cộng đồng nhận định hiện nay người đồng tính nữ có bị phân biệt đối
xử. Điều này có nghĩa đa số cộng đồng cũng nhận thấy người đồng
tính nữ đang bị kỳ thị và chịu những thái độ tiêu cực từ phía mọi
người xung quanh. Có lẽ chính thái độ cư xử thiếu thiện cảm như vậy
đã vô tình trở thành rào cản cho đồng tính nữ công khai xu hướng
tính dục của bản thân. Đặc biệt, quan điểm của cộng đồng về việc
người đồng tính nữ công khai xu hướng tính dục của bản thân cũng
có nhiều ý kiến khác nhau khá thú vị.
2.1.3 Nhận thức của người đồng tính nữ với cách nhìn nhận từ
cộng đồng tới bản thân
Cùng với việc tìm hiểu những hiểu biết của cộng đồng sinh
sống tại thành phố Hà Nội, tiến hành xem xét thái độ đối với người
đồng tính nữ, kết quả thu về cho thấy bản thân họ cũng nhận thấy
cộng đồng Việt Nam có sự kỳ thị đối với người đồng tính nữ. Theo
như kết quả khảo sát 50 trường hợp đồng tính nữ nhận thức của
người đồng tính về sự kỳ thị của bạn bè, thầy cô, hàng xóm, đồng
nghiệp dành cho họ có sự khác biệt.

13


Qua đó, có thể thấy, riêng ở nhóm bạn bè, xu hướng thái độ
và hành vi tích cực có tỷ lệ cao hơn những nhóm khác. Từ hướng
nhìn của người đồng tính nữ thì bạn bè là nhóm cộng đồng tạo cho

người đồng tính nữ ít cảm giác bị kỳ thị nhất. Thái độ và hành vi của
bạn bè đối với người đồng tính nữ có xu hướng tích cực hơn so với
cộng đồng không quen biết. Với người đồng tính nữ, ngoài gia đình,
thì bạn bè cũng là một trong những đối tượng thường được họ tiết lộ
xu hướng tính dục đầu tiên.
2.1.4 Khó khăn từ dư luận xã hội, truyền thông, báo chí với quá
trình công khai xu hướng tính dục của người đồng tính nữ
Một trong những chức năng của truyền thông là định hướng
dư luận. Muốn cộng đồng xã hội có cái nhìn thiện cảm, tốt hơn với
người nữ đồng tính, với chức năng định hướng dư luận xã hội của
mình, truyền thông nên nhìn nhận hình ảnh người đồng tính nữ nói
riêng và cộng đồng LGBT nói chung cần khách quan hơn. Nói cách
khác, các tác giả bài báo khi viết bài nên tìm hiểu chính xác nguồn
tin và sử dụng từ ngữ, câu chữ một cách phù hợp. Đằng sau mỗi bài
báo về những nhân vật đồng tính nữ không chỉ đơn thuần là lượng
độc giả cao hay thấp mà còn là số phận, là cuộc đời của một con
người. Người đồng tính nữ đã và đang gặp phải rất nhiều khó khăn từ
phía cộng đồng cũng như từ phía dư luận xã hội truyền thông, báo
chí. Vậy từ phía gia đình người đồng tính nữ sẽ gặp phải những khó
khăn gì trong quá trình khẳng định xu hướng tính dục của bản thân?
2.2 Những khó khăn người đồng tính nữ gặp phải từ phía gia
đình
Trong số 50 người đồng tính nữ tại Hà Nội tham gia trả lời
bảng khảo sát, chỉ có 62% đã tiết lộ hoặc bị phát hiện xu hướng tính

14


dục của bản thân cho một hoặc một vài người không trong cộng đồng
LGBT. Trong số 62% này, chỉ có 58.1% gia đình đã biết chuyện họ

là người đồng tính.
2.2.1 Sự phản đối từ phía gia đình đối với người đồng tính nữ.
Gia đình và xu hướng tính dục của người đồng tính nữ
Trong số 30 người chưa tiết lộ xu hướng tính dục cho gia
đình biết, có tới 73.3% chia sẻ cảm thấy lo sợ gia đình sẽ biết, và
26.7% không lo sợ gia đình sẽ biết. một trong những rào cản lớn
trong quá trình tiết lộ xu hướng tính dục của người đồng tính nữ xuất
phát từ phía gia đình. Lo sợ những phản ứng từ gia đình, thương cha
mẹ, không muốn cha mẹ đau khổ vì bản thân khác biệt – dường như
đây đã trở thành tâm lý chung khi người đồng tính nữ đối mặt với
việc có comeout hay không comeout.
Nhìn vào kết quả có thể thấy thái độ và hành vi của gia đình
khi con/cháu công khai giới tính là nhờ những người có tiếng nói
trong gia đình khuyên bảo với mục đích làm thay đổi suy nghĩ chiếm
80%. Song song với quá trình khuyên bảo là ép tới gặp chuyên gia
tâm lý/ đi bệnh viện tâm thần để điều trị chiếm 70% với mong muốn
đưa người đồng tính trở về với đúng giới tính và không có tư tưởng
sai lệch đó nữa. Ngoài ra, gia đình cũng thường dùng cách: ép phải
từ bỏ mối quan hệ tình cảm với người bạn cùng giới, để giới thiệu
mối quan hệ với người khác giới (60%). May mắn, trong số các
trường hợp, không có trường hợp nào bị bạo hành về thể xác hoặc
đuổi ra khỏi nhà. Con số này có thể thấy, các bậc phụ huynh dù có
thể có thái độ sốc, đau khổ hoặc những thái độ tiêu cực khác khi biết
con mình không giống như đa số người khác, nhưng tình yêu thương
con vẫn là động lực để họ có thể tiến tới thông cảm, chia sẻ và ở bên

15


cạnh những đứa con của mình. Về cơ bản, cũng giống như việc làm

quen với một điều gì đó khác lạ trong cuộc sống, các bậc phụ huynh
cũng phải mất thời gian để “làm quen” với xu hướng tính dục đặc
biệt của con/ em mình.
Gia đình và kỳ vọng hôn nhân với người đồng tính nữ
Theo kết quả khảo sát những chia sẻ trên các diễn đàn, đồng
thời tham khảo ý kiến của những người đồng tính nữ, nhận thấy: hôn
nhân là một trong những vấn đề mà người đồng tính nữ phải chịu ảnh
hưởng nhiều nhất từ phía gia đình.
Với chuyện kết hôn, người đồng tính nữ đã lựa chọn hoặc là
buông xuôi kết hôn với một người nam dị tính bất kỳ và giấu kín xu
hướng tính dục của bản thân, hoặc là sẽ chọn một người đồng tính
hoặc song tính nam để kết hôn giả qua mắt gia đình. Dù với trường
hợp nào thì người đồng tính nữ cũng không được kết hôn, sống một
cuộc sống mình muốn với người mình yêu. Những trường hợp đã
chia sẻ đều chưa tiết lộ hoặc chưa được chấp nhận xu hướng tính dục
của bản thân họ với gia đình. Gia đình vẫn đặt lên vai họ những gánh
nặng về hôn nhân, khiến quá trình công khai xu hướng tính dục của
người đồng tính nữ gặp những cản trở nhất định. Họ không được là
chính mình, không được yêu và kết hôn với đối tượng mình mong
muốn.
2.2.2 Sự chấp nhận từ phía gia đình đối với người đồng tính nữ
Gia đình và xu hướng tính dục của người đồng tính nữ
Bên cạnh những gia đình phản đối đã có những gia đình
chấp nhận xu hướng tính dục của người đồng tính nữ.
Gia đình và kỳ vọng hôn nhân với người đồng tính nữ
Với những gia đình không chấp nhận người đồng tính nữ, họ

16



phải tìm cách che dấu, đối phó. Còn đối với những trường hợp tiết lộ
cho gia đình biết, dường như cũng không được thoải mái hơn. Có thể
thấy, với những bạn chưa tiết lộ xu hướng tính dục của bản thân cho
gia đình hoặc chưa được gia đình chấp thuận thì lo sợ việc bố mẹ sẽ
thúc giục hoặc ép chuyện lấy chồng. Với những bạn dù được gia
đình chấp thuận thì việc lo sợ áp lực từ phía cộng đồng, họ hàng lên
bố mẹ cũng khiến họ phải trăn trở.
Tiểu kết
Từ phía cộng đồng và xã hội, trong đó có gia đình người
đồng tính. Quá trình để gia đình người nữ đồng tính công nhận và
chấp nhận họ cần thời gian dài. Bằng tình yêu thương dành cho con
em mình, các bậc phụ huynh có xu hướng dần dần chấp nhận xuất
phát từ việc thương con. Tuy nhiên, thường ở giai đoạn đầu tiên, các
gia đình có xu hướng phản đối và có những hành động, thái độ tiêu
cực, áp đặt lên người đồng tính nữ, khiến họ không dám tiết lộ xu
hướng tính dục của bản thân cho gia đình.
Khác với gia đình, sự lộ diện của người đồng tính nữ với bạn
bè, đặc biệt là bạn thân dễ dàng được chấp nhận hơn. Bạn bè cũng có
suy nghĩ thái độ và hành vi tích cực hơn so với những nhóm cộng
đồng khác trong xã hội đối với người đồng tính nữ. Tuy nhiên, trong
nhóm bạn bè vẫn có những sự kỳ thị ngầm, điều này xuất phát từ
việc chưa được tiếp cận thường xuyên, nghiêm túc và khoa học với
những thông tin về đa dạng tính dục, về cộng đồng LGBT. Ngoài ra,
người đồng tính nữ còn phải vượt qua rào cản từ hàng xóm, đồng
nghiệp, thầy cô…các nhóm này có xu hướng thái độ và hành vi
không tích cực như nhóm bạn bè.

17



CHƯƠNG 3
KHÓ KHĂN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH NỮ TRONG QUÁ
TRÌNH KHẲNG ĐỊNH XU HƯỚNG TÍNH DỤC CỦA BẢN
THÂN: TIẾP CẬN TỪ HƯỚNG NHÌN BẢN THÂN NGƯỜI
ĐỒNG TÍNH NỮ
3.1 Những khó khăn khi tự bản thân người đồng tính nữ nhận
diện xu hướng tính dục của mình
Xã hội không chỉ kỳ thị bản thân người đồng tính, mà còn có
cái nhìn khắt khe, sai lệch với cả gia đình họ. Đây chính là lý do
người đồng tính nữ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Họ rất đau
khổ, tuyệt vọng, thậm chí ghê sợ chính bản thân và lo sợ sự kỳ thị,
phản đối của gia đình, họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp...Từ giai đoạn
nhận diện đến khẳng định xu hướng tính dục của bản thân, người
đồng tính nữ đã trải qua nhiều giai đoạn với nhiều khoảng thời gian
khác nhau, do đó người đồng tính nữ hiểu khá rõ về trường hợp đặc
biệt của mình. Với kết quả khảo sát từ 50 người đồng tính nữ, khi
được hỏi về khái niệm về đồng tính nữ, 100% tham gia trả lời đều có
kiến thức đúng về đồng tính nữ là người có hấp dẫn về tình cảm, cảm
xúc hoặc tình dục với người cùng giới nữ và đây là xu hướng tính
dục tự nhiên.
Việc cá nhân người đồng tính nữ phản ứng như thế nào trước
việc chấp nhận bản thân là người đồng tính sẽ quyết định việc trên
con đường đi của họ thêm hay bớt các rào cản mang lại từ chính bản
thân họ khi sống trong xã hội lấy dị tính là chuẩn mực. Cũng giống
như người dị tính đón nhận thời kỳ dậy thì của bản thân. Với những
ai được trang bị kiến thức tốt, được bố mẹ quan tâm tới những thay
đổi của bản thân thì thời kỳ này diễn ra khá nhẹ nhàng, hết sức bình
thường. Nhưng ngược lại, với những bạn trong thời kỳ dậy thì không
có kiến thức, bỡ ngỡ trước sự thay đổi, sẽ có cảm giác lo sợ, băn
khoăn và thắc mắc khá nhiều về cơ thể mình. Với người đồng tính

nữ, khi xác nhận chỉ dành tình cảm cho nữ, cảm thấy mình khác
thường, việc chấp nhận điều này cũng tùy vào từng cá nhân mà có
mức độ chấp nhận khác nhau.

18


3.2 Những khó khăn của người đồng tính nữ trong việc tìm kiếm
người yêu, bạn đời.
Theo như tỷ lệ ước tính an toàn mà các nhà khoa học trên
Thế giới và ở Việt Nam đưa ra thì tỷ lệ đồng tính ở Việt Nam nói
riêng và ở trên Thế giới nói chung là khoảng 3%. Con số này được
trải đều trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm cả đồng tính nam và đồng
tính nữ. Số lượng công khai cho cộng đồng, người dị tính biết xu
hướng tính dục đồng tính là không nhiều. Đây là nhóm tiểu số trong
xã hội, mặc dù đã có các tổ chức hỗ trợ, tuy nhiên, người đồng tính
nữ vẫn gặp phải những trở ngại trong vấn đề tình cảm, cụ thể là tìm
kiếm người yêu, bạn đời. Kết quả khảo sát cho thấy người đồng tính
nữ gặp phải rất nhiều khó khăn trong trong lĩnh vực tìm kiếm bạn đời
của mình.
Dù là người dị tính, song tính, đồng tính hay chuyển giới thì
nhu cầu tình cảm được yêu thương, được chia sẻ là như nhau. Tuy
nhiên, những người đồng tính nữ dường như luôn có những vấn đề
trong chuyện tình cảm xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Đặc biệt với
những nữ đồng tính không công khai, việc thổ lộ tình cảm càng khó
khăn hơn. Bản thân họ vì lý do nào đó đã muốn dấu kín xu hướng
tính dục của bản thân, khi thổ lộ với ai đó, nếu không phải là người
đồng tính, bị lộ xu hướng tính dục của bản thân với cộng đồng sẽ tạo
nên tâm lý lo sợ, hoang mang. Như đã phân tích ở trên, những người
đồng tính vì lo sợ định kiến từ phía xã hội, lo sợ bản thân bị lộ trước

những người khác, nên họ có xu hướng giấu kín xu hướng tính dục
của bản thân. Điều này càng khiến việc tìm kiếm, kết bạn trở nên khó
khăn hơn. Trong tương lai, nếu chính bản thân người đồng tính nữ
mở lòng với những người xung quanh trên cơ sở Xã hội có cái nhìn
thiện cảm hơn về người đồng tính, thì có lẽ, số người đồng tính phải
chịu cảm giác đơn độc sẽ giảm xuống.
3.3 Những khó khăn khi công khai của người đồng tính nữ
Với những người đồng tính, việc công khai hay không, vào
thời điểm nào luôn là vấn đề. Ở đây, người đồng tính nữ đã dựa vào
hoàn cảnh thực tế để đưa ra quyết định có tiết lộ xu hướng tính dục

19


của mình cho mọi người biết hay không. Trong số 20 người, có hơn
một người không nằm trong cộng đồng LGBT biết họ là người đồng
tính, có 65% chủ động chia sẻ xu hướng tính dục của họ và có 35%
là do bị phát hiện, bị nhận diện. Có thể thấy, với 35% bị phát hiện,
bản thân họ chưa hề chuẩn bị tâm lý trước việc lộ diện bản thân.
Chính vì vậy, sự lựa chọn của họ vẫn là mong muốn sẽ dấu kín xu
hướng tính dục.
Tiểu kết
Như vậy, qua khảo sát thực tế và tham khảo trên diễn đàn
Bangaivn.net [18,tr.1]như đã phân tích ở trên, nhận thấy, mặc dù
không muốn công khai với người cộng đồng đang sinh sống, hàng
xóm hoặc đồng nghiệp, nhưng những người đồng tính nữ thường có
mong muốn công khai với gia đình hoặc bạn bè. Những người đồng
tính nữ chọn cách chưa lộ diện có nghĩa, họ muốn chuẩn bị đầy đủ
các yếu tố như kiến thức, tài chính, người bạn đời có thể chia sẻ
những khó khăn, thời điểm thích hợp… để có thể công khai với bố

mẹ, người thân hoặc bạn bè. Nhu cầu sống thật với bản thân, nhu cầu
được là chính mình, được quyền tự do yêu thương đã thúc đẩy những
người đồng tính có xu hướng dần muốn lộ diện xu hướng tính dục
của bản thân. Với nội dung đã phân tích ở phía trên, có thể đi tới kết
luận, giả thuyết 1: Người đồng tính nữ đang dần muốn lộ diện xu
hướng tính dục của bản thân là đúng với thời điểm hiện tại.

20


×