Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nghiên cứu khả năng hấp phụ kim loại nặng (ion Ni2+ và Cu2+) trong nước của vi sinh vật và xác định các thông số ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.41 KB, 16 trang )

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành tốt luận văn này tôi đã được sự giúp đỡ của mọi người.
Trước tiên con xin cảm ơn bố mẹ, người luôn luôn giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất để con hoàn thành tốt việc học
tập trên giảng đường đại học. Người luôn động viên, an ủi, luôn bên con khi con cần lời khuyên hay khi con vấp ngã.

Em xin cảm ơn tất cả các Thẩy Cô trong khoa Môi Trường - Trường Đại Học Bách Khoa đã tận tình chỉ dạy, cho
em những kiến thức bổ ích trong suốt thời gian học tập. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Th,s Đặng Vũ Bích Hạnh đã
hướng dẫn em tận tình trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Em xin cảm ơn quý Thầy Cô phản biện đã dành thời gian quan tâm đến luận văn
này.
Xin cảm ơn tập thể lớp Kỹ thuật Môi trường khóa 2002 đã cho tôi những ngày khó quên. Đặc biệt, các bạn sinh viên
cùng làm việc trong Phòng thí nghiệm Khoa Môi trường đã giúp đỡ tôi rất nhiều .


TÓM TẮT LUẬN VĂN
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm KLN đang ngày càng cùng với sự phát triển của nền
công nghiệp hiện đại, đặc biệt là trong nước ô nhiễm. Các phương pháp xử lý KLN
bằng biện pháp hoá lý thường có chi phí cao và không xử lý hiệu quả khi nồng độ các
ion KLN ô nhiễm ở mức thấp. Đề tài này sẽ góp phần xây dựng nên một loại vật liệu
hấp phụ sinh học mới và rẻ tiền, ứng dụng để xử lý KLN trong nước, đó là nấm mốc.
Với đối tượng nghiên cứu là ion Ni 2+ và Cu2+, luận văn này đã nghiên cứu
được một số kết quả sau :


Thời gian thu sinh khối nấm mốc hiệu quả là 7 ngày và sinh khối
Aspergillus spp. có lượng sinh khối tăng trưởng cao nhất.



Giống nấm mốc có khả năng hấp phụ ion Ni 2+ và Cu2+ cao nhất trong 5


giống Aspergillus niger, Aspergillus oryzae, Mucor hiemalis, Penicillium
citrium, Trichoderma lignorum là giống Aspergillus niger.



Phương pháp xử lý sinh khối bằng bột giặt làm gia tăng đáng kể hiệu quả
hấp phụ và bất hoạt sinh khối Asp.niger.



Quá trình hấp phụ đạt được hiệu quả cao nhất tại mức pH = 5 đối với ion
Ni2+ và pH = 6 đối với ion Cu2+.



ơ nồng độ 10 mg/1, pH hiệu quả, hiệu quả của quá trình hấp phụ đạt trên
90% đối với ion Cu2+ và 80% ion Ni2+. Khi nồng độ ion Ni2+ và Cu2+ càng
cao thì hiệu quả hấp phụ càng thấp và khi nồng độ từ ion Ni 2+ và Cu2+ từ
200 mg/1 trở lên thì hiệu quả hấp phụ sẽ thấp hơn 10%.



Biofilm Asp.niger dai và lọc được ion Ni2+ hiệu quả (59% đôi với biofilm 1
lớp và 87% đối với biofilm 2 lớp, ở nồng độ 50mg/l), tốc độ lọc đạt được
là 0.133 ml/s ứng với diện tích bề mặt là 9.62cm2.

Asp.niger có thể sử dụng kết hợp với rơm để gia tăng hiệu quả hấp
phụ và đồng thời sử dụng rơm làm giá thể lọc.



MỤC LỤC


7.4.1

vỉỉỉ
7.4.2.1


7.4.2.2


8.3.1
8.3.2.1

Nồng độ


6

8.3.2.2


DANH SÁCH BẢNG

8.3.2.3

8.3.2.4...............................................................................................................................
8.3.2.5...............................................................................................................................
8.3.2.6


DANH SÁCH HÌNH

8.3.2.7...............................................................................................................................
8.3.2.8
8.3.2.1
8.3.2.3

8.3.2.9

8.3.2.2


VIẾT
TẮTHIÊu
*


8.3.2.4 Asp.

8.3.2.5

Aspergillus niger

oryzae

8.3.2.7

Aspergillus oryzae


8.3.2.8 Dd

8.3.2.9

Dung dịch

8.3.2.10KL

8.3.2.11

Kim loại

8.3.2.13

Kim loại nặng

8.3.2.15

Mucor hiemalis

8.3.2.17

Pénicillium citrium

M

8.3.2.19

Scanning electronic microscopy


8.3.2.20SK

8.3.2.21

Sinh khối

8.3.2.23

Trichoderma lignorum

niger

8.3.2.6 Asp.

8.3.2.12KL

N

8.3.2.14M.hi

emalis

8.3.2.16p.

citrium

8.3.2.18SE

8.3.2.22T.


lignorum

8.3.2.24

8.3.2.10

Chương 1: MỞ ĐẦU

8.3.2.11 Hiện nay, vấn đề ô nhiễm kim loại nặng trên thế giới nói chung và ở nước

ta nói riêng đang ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp
sản xuất, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường và con người. Vì vậy việc
loại bỏ các thành phần kim loại nặng ra khỏi các nguồn ô nhiễm, đặc biệt là trong nước
thải công nghiệp là một trong những vấn đề quan trọng cần phải giải quyết hiện nay.
8.3.2.12 Những phương pháp hoá lý dùng để loại bỏ KLN ra khỏi nước thải như kết

tủa, đông tụ, trao đổi ion, các quá trình lọc màng và hấp phụ. Các công nghệ xử lý thông
thường như kết tủa và đông tụ thì tạo ra hiệu quả thấp và chi phí cao khi nồng độ kim loại
nằm trong khoảng từ 1 - 100 mg/1. Chi phí cao, quá trình vận hành phức tạp và hiệu quả
loại bỏ thấp của các quá trình lọc màng là sự giới hạn khi sử dụng nó để loại bỏ KLN. Hấp


phụ trên carbon hoạt tính cũng là một phương pháp dùng để loại bỏ KLN từ nước thải,
nhưng chi phí cao của than hoạt tính là một trong những nhược điểm của nó. Nghiên cứu
về các chất hấp phụ rẻ tiền và có thể tìm kiếm dễ dàng đang được ưu tiên trong quá trình
khảo sát một số chất có nguồn từ nông nghiệp và sinh học, các sản phẩm phụ trong công
nghiệp, là những chất hấp phụ có tiềm năng. Cấc chất hấp phụ đó bao gồm than đá
Gừdish, vỏ dừa được nghiền nhỏ, than bùn, vỏ cây, rơm, lốp cao su thải ra và tóc con
người. Cùng với những phất triển trong lĩnh vực công nghệ sinh học môi trường gần đây,
cấc nhà khoa học cũng đã nghiên cứu về cấc chất hấp phụ kim loại nặng bằng vi sinh vật

[12].
8.3.2.13 Vi khuẩn, nấm mốc, nấm men và tảo đều có thể loại bỏ cấc KLN trong

nước thải [20, 21, 24], Quá trình tách KLN ra khỏi dung dịch bằng sinh khối có thể được
thực hiện bởi cơ chế chủ động (phụ thuộc vào hoạt động trao đổi chất) được biết đến như
quá trình tích luỹ sinh học hay bởi cơ chế thụ động (không phụ thuộc vào hoạt động trao
đổi chất) được biết đến như quá trình hấp phụ sinh học [12, 24],
8.3.2.14

Nấm mốc là một trong số loài vi sinh vật có tiềm năng được sử

dụng làm chất hấp phụ vì khả năng hấp phụ kim loại cao [23]. Trong số các giống nấm
mốc thì giống Aspergillus spp. được xem là một giống lớn có nhiều ứng dụng trong công
nghiệp và quan trọng là có khả năng hấp phụ kim loại cao. Vì vậy nghiên cứu của đề tài
này sẽ góp phần tạo ra một ứng dụng mới của Aspergillus spp. trong lĩnh vực môi trường
là xử lý các ion kim loại nặng trong nước thải.
1.1 Mục tiêu nghiên cứu
8.3.2.15

Nghiên cứu khả năng hấp phụ kim loại nặng trong nước của vi sinh

vật và xác định các thông số ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình hấp phụ .
1.2 Phạm vi nghiên cứu
8.3.2.16

Trong phạm vi các giống nấm mốc Aspergillus niger, Aspergillus

oryzae, Mucor hiemalis, Pénicillium citrium, Trichoderma lignorum. Nghiên cứu trong
phạm vi mô hình phòng thí nghiêm.



1.3 Đối tượng nghiên cứu
8.3.2.17

nặng Cu2+ và
8.3.2.18 Ni2+.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nước giả thải của ion kim loại

1.4 Nội dung nghiên cứu
- Tổng hợp tài liệu về nghiên cứu khả năng loại bỏ KLN của vi sinh vật.
- Nghiên cứu đường cong tăng trưởng của cấc giông nấm mốc Aspergillus niger,
Aspergillus oryzae, Mucor hiemalis, Pénicillium citrium, Trichoderma lignorum để chọn
thời gian thu sinh khôi hiệu quả.
- Nghiên cứu khả năng hấp phụ ion kim loại nặng Cu 2+ và Ni2+ của cấc giống
Aspergillus niger, Aspergillus oryzae, Mucor hiemalis, Pénicillium citrium,
8.3.2.19 Trichoderma lỉgnorum để chọn lựa chủng có tiềm năng ứng dụng làm chất hấp phụ

sinh học trong xử lý ion Cu2+ và Ni2+ trong nước.
- Nghiên cứu hiệu quả của việc xử lý tế bào nấm mốc trước khi sử dụng để loại bỏ
2+

ion Cu và Ni2+ nhằm gia tăng khả năng xử lý của tế bào.
- Nghiên cứu các thông số ảnh hưởng đến quá trình hấp phụ ion Cu2+ và Ni2+ trong
nước của Aspergillus spp.
-

Khảo sát khả năng ứng dụng biofilm của Aspergillus spp.

8.3.2.20 Khảo sát khả năng phát triển của Aspergillus spp. trên vật liệu


biofilter.


8.3.2.21

Chương 2 : KIM LOẠI NẶNG

2.1 Khái niệm [19]
8.3.2.22

KLN là những kim loại có tỷ trọng (so với nước) lớn hơn 5g/cm 3, vì

vậy những nguyên tố chuyển tiếp từ V (nhưng trừ Sc và Ti) đến á kim As, từ Zr (trừ Y) đến
Sb, từ La đến Po, các nguyên tố trong họ latan và các nguyên tố trong họ actin có thể được
xem là các KLN. Trong 90 nguyên tố tìm thấy trong tự nhiên có 21 nguyên tố không phải
làkim loại, 16 nguyên tố là kim loại nhẹ, 53 nguyên tố còn lại (bao gồm cả As) là các KLN.
8.3.2.23

Phần lớn những KLN là những nguyên tố chuyển tiếp với các orbitan

d chưa được đầy (chưa đủ 16e). Các orbitan d đó làm cho những cation KLN khả năng về
hình dạng các hợp chất phức tạp có thể có hoặc không có hoạt động oxy hoá khử. Vì vậy,
những cation KLN giữ một vai trò quan trọng như “những nguyên tố dạng vết” trong các
phản ứng sinh hoá phức tạp. Tuy nhiên, ở hàm lượng cao hơn, những ion KLN không đặc
trưng cho các hợp chất phức tạp trong tế bào thì gây ra độc tính. Một vài cation KLN như
Hg2+, Cd2+, và Ag+ có độc tính rất mạnh nên gây ra nguy hiểm đối với bất kì cấu trúc sinh lý
học nào. Mặc dù những nguyên tố rất cần thiết khi ở dạng vết như Zn 2+ hoặc Ni2+ và đặc
biệt là Cu2+ nhưng lại gây độc khi ở hàm lượng cao hơn. Vì vậy, hàm lượng cấc ion KLN
trong tế bào phải được kiểm soát chặt chẽ, và khả năng chịu đựng KLN ở những trường hợp

đặc trưng của nhu cầu thông thường của mọi tế bào sông đối với một vài hệ thông ổn định
KLN.
2.1.1

Tính chất hoá lý của đồng (Cu) [4]
8.3.2.24

Đồng là một chất quan trọng , là nguyên tô" vi lượng cần thiết cho

cây trồng và động vât. ở trạng thái kim loại, đồng có màu hơi đỏ, sáng bóng ánh kim, mềm
dễ dát mỏng và là một châl dẫn nhiệt, dẫn điện tốt. Công dụng chủ yếu của đồng là để sản
xuâl dây kim loại và hợp kim của nó, đồng thau và đồng thiếc. Trong thiên nhiên, đồng ở
nhiều dạng: sulfides, chat sulfate, muôi sulfate, carbonate, hợp châl khấc và còn tìm thây
đồng trong môi trường như là kim loại tự nhiên. Mức trung bình cho sự dư thừa của


8.3.2.25Cu trong sinh quyển là 70 mg/kg, trong khi những đánh giá gián tiếp cho vỏ trái đất

có khoảng 25 - 35 mg/kg. Đất của thế giới, theo tài liệu cũ, giá trị của đồng là 20mg/kg, có
bị thay đổi gần đây và được ghi lại là 30mg/kg. Đồng có liên kết với chất hữu cơ trong đất
như oxyt Fe và Mn, đất sét silicate và chất vô cơ khác.
8.3.2.26

Cu (II) được sắp đặt với 4 phân tử nước trong mặt phẳng XY và 2

oxy silicate, đối xứng theo trục z thẳng góc với một lớp silicate. Nếu có nhiều lớp của phân
tử nước của màng thủy hóa chiếm xen kẽ với khu vực của Cu hectorite, [Cu(IỈ20)6]2+ trong
dung dịch H2O, từ đó, Cu2+ sẽ qui thành ion [Cu(IỈ20)6]2+ và Cu sẽ được sử dụng trong sự
nghiên cứu “yếu tố ngoài” của trạng thái hóa trị. Trong môi trường đất, chúng ta cần quan
tâm đến nồng độ thấp của Cu, với xấp xỉ trung bình 24 - 25 mg/kg trong phần vỏ trái đất và

20 - 30 mg/kg Cu tổng cộng trong đất, Cu 2+ được coi như là loại Cu tự do trong đất. Hợp
chất hữu cơ trong đất gắn liền với đồng, nhóm COO' có mặt trong cả hai pha rắn và lỏng ở
hình thức liên kết chặt với Cu. Sự hình thành pha rắn được xem như nguyên nhân gây sự
thiếu hụt Cu, đó là do chất hữu cơ đất đã tạo phức với Cu làm lượng đồng tự do giảm
xuống. Thêm vào đó, than bùn có tính độc đối với cây trồng và các nguồn khác của chất
liệu hữu cơ từ chất nền có Cu cao.
8.3.2.27

Với số nguyên tử 29, Cu là nguyên tố đầu tiên của phân nhóm 13 của

bảng tuần hoàn. Cấu trúc electron của nguyên tố Cu là Is 2s 2p 3s 3p 3d 4s1. Có 4
2

2

6

2

6

10

electron đơn ở ngoài, lớp vỏ 3d đã đầy đủ, vì thế bền chặt hơn. Giống như tất cả các nguyên
tố đầu tiên khi chuyển tiếp sang một chuỗi (Cr, Mn, Fe, Co, Ni) và không giống Li, Na, K
và Pb của dãy thứ nhất, hai điện tử đã dễ dàng di chuyển liên quan đến nguyên tử Cu[3].
Trong khi Cu2+ hầu hết đều bền nên vững. Lớp ion thứ hai của Cu điện thế cao hơn lớp thứ
nhất cho Cu(I) bền vững tồn tại trong môi trường. Cu bền vững trong dung dịch nước với
sô" ion ở mức cao không đổi, ion aceton, ion pyridine hay ion cyanide... Theo Parker, lượng
Cu trong đâ"t giàu độ ẩm là 10~ - 10" M, ví dụ như Cu có thể tồn tại ở 1.10" M và Cu2+ ở

6

7

7

3.10~7M .Mối liên hệ này có được đối với nồng độ ion [Cu+] trong phản ứng mà ion Cu+
thiếu cân đối.
8.3.2.28

ÌO^" ở 25°c
1

2Cu+(aq) -> Cu +(aq) + Cu(s) K=
2


8.3.2.29

Nồng độ Cu trong dung dịch hòa tan là 10~ - 10~ M, có râ"t ít ion
2

3

Cu+ . Sau đó, trong cuộc thảo luận về tính châ"t vật lý và hóa học của Cu trong những môi
trường khác nhau, dùng năng lượng tụ do của các ion đơn lan truyền trong các dung môi
khác nhau, Parker kết luận rằng, ion Cu 2+ , [Cu(H20)6]2+ là loại Cu thích hợp nhất cho các
nghiên cứu về đất. Tuy nhiên, ở vùng đất bị ngập lụt có thể tạo ion Cu + và trong một số
trường hợp Cu° có thế nhiệt động hơn là Cu 2+. Chalcopyrite có số lượng nhiều hơn chất
khoáng Cu, nó được tìm thấy nhiều trong đá và tập trung thành một lượng Cu lớn nhất ở

các chất lắng của nó. Thêm vào đó, trong các chất vô cơ tự nhiên, Cu được tìm thấy ở dạng
phân tán trong các loại đá trầm tích.
2.1.2

Tính chất hoá lý của nikel (Ni) [4]
8.3.2.30

Nikel là một kim loại thuộc nhóm VIII của bảng tuần hoàn, số

nguyên tử là 28 và khối lượng nguyên tử 58.71. Trong số bảy đồng vị phóng xạ biết 63Ni
(chu kỳ bán phân rã là 92 năm) được dùng nhiều nhất trong các nghiên cứu đất cây trồng.
Ni có thể xuất hiện trong một số trạng thái oxi hóa nhưng chỉ có nikel(II) bền vững trên dãy
pH rộng và điều kiện oxy hóa - khử trong môi trường đất. Bán kính ion của Ni (II) là
0.065nm (gần với bán kính ion của Fe, Mg, Cu và Zn). Nikel có thể thay thế các kim loại
thiết yếu trong các enzym kim loại và gây ra sự đứt gãy các đường trao đổi chất.
8.3.2.31

Đặc tính cơ học: cứng, dễ dát mỏng và dễ uốn, dễ kéo sợi. Trong tự

nhiên, nikel xuất hiện ở dạng hợp chất với lưu hùnh trong khóng chất millerit, với asenic
trong khóng chất niccolit, và với asenic cùng lưu huỳnh trong quặng nikel.
8.3.2.32

ở điều kiện bình thường, nó ổn định trong không khí và trơ với ôxi

nên thường được dùng làm tiền xu nhỏ, bảng kim loại, đồng thau, v.v.., cho cấc thiết bị hóa
học, và trong một số hợp kim, như bạc Đức. Nikel có từ tính, và nó thường được dùng
chung với Co, cả hai đều tìm thấy trong sắt từ sao băng. Nó là thành phần chủ yếu có giá trị
cho hợp kim nó tạo nên. Nikel là một trong năm nguyên tố sắt từ.
2.2 Nguồn gốc gây ô nhiễm KLN [4]

8.3.2.33

Ô nhiễm là sự phóng thích của cấc chất hoấ học, vật lý, sinh học và

chất phóng xạ ngoài môi trường. Hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường đang là mối quan
tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Ô nhiễm môi trường có thể là hậu quả của cấc hoạt động


tự nhiên như hoạt động núi lửa, thiên tai lũ lụt,... hoặc cấc hoạt động do con người thực
hiện trong công nghiệp, giao thông và trong sinh hoạt, một trong những tác nhân gây ô
nhiễm môi trường đang được chú ý là các kim loại nặng.
2.2.1

Từ các hoạt động công nghiệp
8.3.2.34Trong các nguồn gây ô nhiễm kim loại nặng thì hoạt động công nghiệp là

nguồn gây ô nhiễm nhiều nhất. Có thể kể đến một vài ngành công nghiệp tiêu biểu như:
công nghiệp thuộc da, sành sứ, hóa chất, thuốc trừ sâu, luyện kim gây ô nhiễm asen; công
nghiệp luyện kim, lọc dầu, khai khoáng, mạ kim loại, ống dẫn nước gây ô nhiễm cadimi;
công nghiệp nhuộm len, mạ, thuộc da, sản xuất đồ gốm, sản xuất chất nổ gây ô nhiễm crôm;
công nghiệp mỏ, than đá, sản xuất ắc quy, xăng, điện tử gây ô nhiễm chì; công nghiệp sản
xuất pin, đèn huỳng quang, nhiệt kế gây ô nhiễm thủy ngân... Chính điều này làm cho môi
trường gần các khu công nghiệp có hàm lượng kim loại nặng tương đối cao. Theo kết quả
quan trắc và phân tích môi trường, hàm lượng đồng, chì, cadimic và coban ở trong nguồn
nước gần các thị trấn và trung tâm công nghiệp lớn nhiều hơn so với mức bình thường.
2.2.2

Từ các hoạt động công nghiệp khai thác kim loại
2.2.2.1 Chu trình kim loại công nghiệp
8.3.2.35Ô nhiễm KLN cũng có nguồn gốc từ sản xuất công nghiệp và khai thác mỏ.


Quặng được đưa lên một sàng, được nghiền và tách cấc thành phần nhỏ, tạo thành một sản
phảm giàu KLN ( quá trình làm giàu), cộng với một số lượng lổn trong chất thải .Cấc chất
thải thường được thải ra dưới dạng bùn than xuống một đầm, thường là cấc lòng chảo tự
nhiên hay một hồ. Quặng sau khi sàng được đưa đến một lò nấu chính. Chất thải lò bao
gồm chất thải nóng chảy gọi là xỉ, được phân tấn trong đất, kèm theo sự phóng thích SO2,
cấc khí khấc và kim loại ứng với quặng đó. Thành phần từ cấc lò luyện chảy được đưa đến
cấc lò luyện tinh để sản xuất cấc kim loại tinh khiết kèm theo sự phóng thích một lần nữa
của khí và kim loại tương ứng ra khí quyển. Kim loại tinh đã được luyện tinh được dùng
trong nhiều ngành công nghiệp khấc nhau. Từ đây, nó có thể tạo ra sự ô nhiễm một lần nữa
vào đất, nước và không khí. Sau một thời gian hữu dụng, cấc sản phẩm có thể được tái sinh
bằng cách ấy và luyện tinh lại lần 2 có thể bị thải hồi thành rác thải hay, đáng tiếc hơn, nó


có thể tập trung vào các đống rác ở các vùng đất tốt. Tấc cả các quá trình trên đều gây ra ô
nhiễm môi trường.
2.2.2.1 ô nhiễm KLN từ chất thải khai thác mỏ
8.3.2.36

Sự ô nhiễm quanh các khu vực mỏ là do các đống chất thải trong quá

trình khai mỏ, các rác tập trung thành hố... Do hàm lượng độc chất KLN lớn, sự phát triển
của thực vật trên các chất thải có thể bị hạn chế và chuyển thành một lớp cỏ chuyển tiếp một quần thể cây thân thảo.
8.3.2.37

2.2.2.3 Các lò nấu kim loại

8.3.2.38

Một sô nghiên cứu chi tiết cho thấy môi trường xung quanh các lò


nấu kim loại thường bị ô nhiễm. Một số trường hợp được biết rõ là các lò nấu nickel - đồng
ở Subury (Whitby và Hutchinson, 1974...) , xưởng đúc đồng ở Gusum, Thụy Điển (Tyler ,
1984) và lò nấu chì - kẽm ở Avenmouth, Anh (Hutton, 1984).
8.3.2.39

Các báo cáo này cũng kết luận rằng, tổng lượng bụi chứa kim loại

thải ra ngoài khí quyển từ những lò nấu kim loại gần Sudbury trung bình là l,89xl04 tấn/năm
vào giữa những năm 1973 và 1981, bao gồm 4.2xl0 tấn/năm bụi sắt, 6.7xl02/năm vụi đồng;
3

5.0xl0 tấn/năm bụi nickel; 2.0xl0 tấn/năm bụi chì và khoảng 50% lượng bụi arsenic (Chan
2

2

và Lusis, 1985). Nhìn chung, có khoảng 50% lượng bụi phát tán từ các lò nấu kim loại
không đi xa được (Chan và Lusis, 1985). Tỉ lệ lắng đọng đặc biệt lổn ở những nơi gần
nguồn chính và chúng cũng giảm theo cấp sô" mũ, theo khoảng cách tăng.
8.3.2.40

Mức độ lắng đọng trong khí quyển song song với mức độ ô nhiễm

môi trường đâ"t. Điều này được minh chứng bằng hàm lượng nickel và đồng ở những vùng
đâ"t rừng cắt ngang lò nâu kim loại Cu ở Cliff. Hàm lượng nickel và đồng lổn đến 4900
ppm mỗi châ"t, hiện diện ở đâ"t rừng ngay sất lò nâu, cùng với nhiều hơn 370 ppm Ni và
260 ppm Cu trong tấn lá cây ( Freedman và Hutchinson, 1980). Khả năng liên kết kim loại
lơn của đâ"t hữu cơ rừng là cấc kim loại lắng sâu xuống đâ"t. Nông độ kim loại trong đâ"t
không bị ô nhiễm nhỏ hơn nhiều, bởi vì khả năng chứa cation trao đổi của đâ"t bị giới hạn.



8.3.2.41Thuốc trừ sâu vô cơ là rất cần thiết cho cây trồng. Các hóa chất như arsenic,

calci arsenate và đồng sulfate được sử dụng để trừ các nấm gây bệnh và các loài động vật
chân đốt hơn một thế kỷ nay (ngày nay đã được thay thế bởi các thuốc trừ sâu hữu cơ tổng
hợp). Lượng thuốc phun thông thường lớn, đến 8.7 kg/ha/năm; 2.7 với arsenic;
7.5 với kẽm và 3.5 với đồng;
2.2.3tùy
Từvào
các loại
chấthạt
trừgiống,
sâu vôvào bệnh gây hại và vào công thức
thuốc. Tùy thuộc vào chất nền của thuốc trừ sâu sử dụng mà tất cả các nguyên tố này có thể
đọng lại trên đồng ruộng , trong cây và trong hệ sinh thái.
8.3.2.42Do các nguyên tố này bị liên kết tạo phức bởi các chất hữu cơ trong đất và

bởi các bề mặt trao đổi ion khác với hạt keo đất, chúng rất hiếm khi hòa tan và có xu hướng
tích tụ lại trong nước. Chẳng hạn, nồng độ chì lớn đến 890 ppm và 126 ppm arsenic được
tìm thấy trong đất bề mặt của vườn táo ở Ontario, so với mức nền của nguyên tố này tương
ứng là <25 ppm và <10 ppm (Frant et al, 1976). Sự tích tụ này do hơn 70 năm sử dụng chì
arsenate làm thuốc trừ sâu, đặc biệt là chống lại bướm tuyết (laspreyresia pomonella) gây
nên bệnh táo sâu .
8.3.2.43

2.2.4 Từ bùn cống rãnh

8.3.2.44Việc sử dụng bùn cống có chứa kim loại có thể gây ra sự ô nhiễm đất nông


nghiệp và hạt giống. Bùn cống rãnh là một sản phẩm phụ của quá trình xử lý nước thải đô
thị. Bùn công rãnh là thứ đất được ưa chuộng do nhiều chấy hữu cơ và chứa hàm lượng
đấng kể dưỡng chất đa lượng như nitrogen và phosphorus. Chẳng hạn, 5.6xl0 tấn/năm sản
6

phẩm bùn công ở Mỹ, khoảng 42% được dùng cho đất trại; 5.9xl0 tấn/năm sản phẩm bùn
6

công ở Tây Âu (Brown và Jacobson, 1970). Bùn công được dùng ở hầu hết cấc nước công
nghiệp, nơi việc xử lý chất thải là thường xuyên.
8.3.2.45 Không may là bùn thải từ công nghiệp có chứa lượng lổn cấc

chất độc. Nồng độ của cấc nguyên tô" trong nước công ở nhiều
nước công nghiệp chứng tỏ rằng hàm lượng kim loại trong nước
công thay đổi khủng khiếp. Sự thay đổi to lổn này phản ánh sự
khấc biệt về bản châ"t của cấc nguồn thải công nghiệp với cấc hệ
thông nước thải riêng biệt. Sự đa dạng của cấc nguyên tô" cadimi,


đồng, nickel và kẽm là nguyên nhân chắc chắn gây nên độc tính
vật lý khi bùn công được dùng cho đâ"t canh tấc.

2.2.3 Từ các chất trừ sâu vô


8.3.2.46

2.3 Các tác động của việc ô nhiễm KLN

8.3.2.47Sự ô nhiễm KLN sẽ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái và con


người. Với nồng độ cao, nhất là những KLN có độc tính mạnh như đồng, chì, cadimi, thuỷ
ngân, asen, crôm, niken...sẽ gây tử vong cho người và động thực vật, làm chết hệ vi sinh vật
trong đất, nước dẫn đến việc làm giảm khả năng phân huỷ của đất, nước gây ô nhiễm
nghiêm trọng hơn. Đặc biệt là ở người, KLN sẽ xâm nhập vào cơ thể con người qua nhiều
đường như qua da, mắt, hô hấp và nhiều nhất là bằng cách tích luỹ trong chuỗi thức ăn rồi
đi vào cơ thể con người. Tuỳ vào từng loại kim loại, từng nồng độ khác nhau mà chúng có
thể gây ra ngộ độc cấp tính hay tích luỹ trong cơ thể và gây ngộ độc mãn tính cho con
người cũng như cho sinh vật [4]
2.3.1

Tác hại của đồng (Cu)
8.3.2.48Đồng là một chất quan trọng, là nguyên tố vi lượng cần thiết cho cây trồng

và động vật. ơ trạng thái kim loại, đồng có màu hơi đỏ, sáng bóng ánh kim, mềm dễ dát
mỏng và là một chất dẫn nhiệt dẫn điện tốt. Trong tự nhiên, đồng tồn tại ở nhiều sulíides,
muối sulfate, carbonate. Trong nước thải, đồng tồn tại chủ yếu dưới dạng ion Cu2+ [4].
8.3.2.49Đồng có thể xâm nhập vào cơ thể chúng ta qua da, mắt, hô hấp hay qua ăn

uống. Khi đồng xâm nhập vào cơ thể con người với liều lượng cao có thể gây ra các phản
ứng lại như đỏ hay sưng tấy cấc vùng tiếp nhận như da, mắt, mũi, miệng, và nó có thể dẫn
đến nhức đầu, đau bụng, chóng mặt, nôn mửa, tiêu chảy. Nếu xâm nhập vào cơ thể với nồng
độ cao hơn thì có thể bị tổn hại gan và thận hoặc có thể dẫn đến chết người [35]. Chứng
nhiễm đồng di truyền trong con người đã được Wilson biết đến như là một bệnh tật vào năm
1912. Trong căn bệnh Wilson’s là do nguyên nhân đồng đã được tích luỹ trong gan, khi nó
bắt đầu nhiễm sâu sẽ xuất hiện dấ hiệu bất lợi cho mô hạch [4],
2.3.2

Tác hại của nikel (Ni)
8.3.2.50Nikel xâm nhập vào cơ thể con người qua đường ăn uống, da, mắt, và hô


hấp. Tấc hại của việc nhiễm độc bởi nikel có thể gây ra cấc triệu chứng như nhức đầu,
choáng váng, dị ứng trên da. Nếu tích luỹ nikel trong cơ thể với nồng độ cao có thể dẫn đến
ung thư gan, ung thư tuyến tiền liệt, rối loạn tim mạch, những khiếm khuyết khi sinh con...
[35].


2.3.3 Tác hại của một số KLN quan trọng khác như thuỷ ngân, cadimi, asen, chì,
crôm
8.3.2.51Thuỷ ngân là một trong số các nguyên tố độc nhất đối với con người và

nhiều động vật bậc cao, nhất là tồn tại dưới dạng ion. Một trong những trường hợp gây ra
bởi độc chất của metyl thuỷ ngân tiêu biểu là bệnh Minamata ở Nhật Bản vào năm 1950,
gây tổn thất rất nặng nề về con người và môi trường tại Minamata. Tại Đức cũng có trường
hợp ngộ độc của các loài thú hoang do ăn phải lá cây có chứa metyl thuỷ ngân
[4] .
8.3.2.52Cadimi cũng là một KLN có độc tính cao với khả năng tích tụ mãn tính trong

cơ thể con người nhất. Sự tích luỹ cadimi ở thận dẫn đến phá huỷ chức năng lọc của thận.
Cadimi cũng được tích luỹ ở gan và phá huỷ gan ảnh hưởng đến khả năng bài tiết protein và
đường dư thừa trong cơ thể con người. Ngoài ra nó còn gây ra một số bệnh nguy hiểm khi
xâm nhập vào cơ thể như : tổn hại hệ thần kinh trung ương, ảnh hưởng hệ miễn dịch, gây
rối loạn cơ thể, có thể gây ảnh hưởng đến DNA và gây ung thư [35].
8.3.2.53Việc nhiễm độc chì cũng có thể dẫn đến các ảnh hưởng như : gây ra bệnh

thiếu mấu, tụt huyết ấp, tổn hại gan, não, gây vô sinh ở nam, làm giảm khả năng tiếp thu ở
trẻ...[35].
8.3.2.54Nối chung, một số KLN khi ở dạng vết thì rất cần thiết cho tế bào nhưng khi

ở nồng độ cao thì sẽ gây độc đối với con người và môi trường. Tuỳ vào từng loại kim loại

và từng nồng độ khấc nhau sẽ gây mức độ tấc hại khấc nhau. Vì vậy chúng cần được loại bỏ
khỏi đạt mức tiêu chuẩn nhằm hạn chế sự ảnh hưởng đến môi trường hệ sinh thái.
8.3.2.55Chương 3 :

CÁC PHƯƠNG PHÁP xử LÝ KLN

3.1 Các phương pháp hoá lý
3.1.1

Phương pháp hấp phụ [3]
8.3.2.56Hấp phụ các ion kim loại nặng hoà tan là kết quả của sự di chuyển phân tử

của những chất đó từ nước vào bề mặt chất hấp phụ dưới tác dụng của trường lực bề mặt.
Qúa trình hấp phụ là một quá trình thuận nghịch. Nghĩa là sau khi những ion kim loại nặng


đã được hấp phụ trên bề mặt chất hấp phụ đến khi bị bão hoà rồi thì có thể di chuyển ngược
lại từ bề mặt chất hấp phụ vào dung dịch. Hiện tượng này gọi là khử hấp phụ hay là hiện
tượng nhả hấp.
kiện

8.3.2.57Cố 2 kiểu hấp phụ là hấp phụ trong điều kiện tĩnh và hấp phụ trong điều

8.3.2.58động.
8.3.2.59Hấp phụ trong điều kiện tĩnh là không cho sự dịch chuyển tương đối của

phân tử nước so với phân tử chất hấp phụ, mà chúng cùng chuyển động với nhau. Biện
phấp thực hiện là cho chất hấp phụ vào nước ô nhiễm kim loại nặng và khuấy trộn trong
một thời gian đủ để đạt được trạng thái cân bằng nồng độ.
8.3.2.60Hấp phụ trong điều kiện động là có sự di chuyển tương đối của phân tử nước


so với phân tử chất hấp phụ.
8.3.2.61Những chất hấp phụ có thể là : than hoạt tính, nhựa tổng hợp có khả năng

trao đổi ion, than nâu, than bùn, than cốc, đô lô mít...Bông cặn của những chất keo tụ
(hydroxyt của kim loại) và bùn hoạt tính từ bể aeroten cũng có khả năng hấp phụ.
8.3.2.62Than hoạt tính là chất hấp phụ thông dụng để xử lý các ion kim loại và các

chất bẩn trong nước nhưng chi phí hoàn nguyên đắt tiền nhưng lượng than sau khi hoàn
nguyên tái sử dụng không cho hiệu quả cao, do đó tạo nên chi phí xử lý đắt tiền.
3.1.2

Trao đổi ion [3]
8.3.2.63Phương pháp này được ứng dụng để xử lý nước thải khỏi các ion kim loại

nặng như : Zn, Cu, Ni, Cr, Pb, Hg, Cd, Mn...cũng như các hợp chất của asen photpho,
xyanua và các chất phóng xạ...Ngoài ra phương pháp này còn cho phép thu hồi các kim loại
có giá trị.
8.3.2.64Trao đổi ion là một quá trình trong đó các ion trên bề mặt tiếp xúc của chất

rắn trao đổi với ion có cùng điện tích trong dung dịch khi tiếp xúc với nhau. Các chất này
gọi là các ionit (chất trao đổi ion), chúng hoàn toàn không tan trong nước. Các chất có khả
năng hút các ion dương từ dung dịch điện ly gọi là các cationit, mang tính acid. Các chất có
khả năng hút các ion âm gọi là anionit, mang tính kiềm. Nếu như các chất nào đó trao đổi
được với cả cation và anion thì được gọi là ionit lưỡng tính.


8.3.2.65Các chất trao đổi ion : các chất trao đổi ion có thể là các chất vô cơ hoặc hữu

cơ, có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp nhân tạo.

- Nhóm cấc chất trao đổi ion vô cơ tự nhiên gồm có cấc zeolic, kim loại khoáng
chất, đất sét, fenspat, chất mica khấc nhau...Cấc chất có tính chất trao đổi cation là cấc chất
chứa nhôm silicat loại : Na2O.Al2O3.nSiO2.mH2O. Cấc chất trao đổi ion có nguồn gốc
cấc chất vô cơ tổng hợp gồm Silicagel, permutit (chất làm mềm nước)...
- Cấc chất trao đổi ion hữu cơ có nguồn gốc tự nhiên gồm acid humic của đất và
than đá, chúng mang tính acid yếu. Để tăng tính acid và dung lượng trao đổi, người ta
nghiền nhỏ than và lưu hoấ ở điều kiện dư oleum. Than sunfo là cấc chât điện ly cao phân
ử, rẻ và chứa cả nhóm acid mạnh và acid yếu. Cấc chất trao đổi ion này có nhược điểm là
độ bền hoá học và cơ học thấp, dung lượng thể tích không lớn, đặc biệt trong môi trường
trung tính.
8.3.2.66- Các chất trao đổi ion hữu cơ tổng hợp là các nhựa trao đổi (resin) có bề mặt

riêng lớn, chúng là những hợp chất cao phân tử. Các gốc hydrocarbon của chúng tạo nên
lưới không gian với các nhóm chức năng trao đổi ion cố định. Các ion kim loại được lấy ra
khỏi nước thải nhờ trao đổi với các ion Na + hay H+ của nhựa cation acid mạnh. Đây là loại
chất trao đổi ion được sử sụng rộng rãi và phổ biến vì có dung lượng trao đổi lớn và khắc
phục được các nhược điểm của chất trao đổi có nguồn gốc tự nhiên.
8.3.2.67Hiệu quả của quá trình trao đổi ion còn phụ thuộc vào nhiệt độ và pH của

nước thải. Khi nhiệt độ nước thải cao có thể làm vỡ các hạt nhựa của chúng, tách rời các
nhóm hoạt động ra dẫn đến giảm dung lượng. Mỗi một nhựa trao đổi có giới hạn nhiệt độ
của chúng, vượt quá giới han đó thì không thể sử dụng được, về đại lượng pH của nước thải
để tiến hành trao đổi ion phụ thuộc vào hằng số phân ly các nhóm trao đổi ion của nhựa.
Các loại nhựa cation acid mạnh cho phép tiến hành quá trình trong bất cứ môi trường nào,
còn các cation acid yếu thì chỉ tiến hành trao đổi trong môi trường kiềm và trung tính.
8.3.2.68Phương pháp này có ưu điểm là có thể thu hồi lại được các kim loại. Nhưng

có khuyết điểm là chi phí cao, vận hành tốn kém do phải tốn chi phí hoá chất để hoàn
nguyên cấc ion trở lại cho nhựa trao đổi.



3.1.3

Các quá trình tách bằng màng [3]
3.1.3.1 Thẩm thấu ngược (màng RO)
8.3.2.69Thẩm thấu ngược là quá trình di chuyển của cấc phân tử nước từ dung dịch

đậm đặc qua màng bấn thấm sang dung dịch loãng, dưới tấc dụng của ấp lực lổn hơn sự
chênh lệch ấp suất thẩm thấu của hai dung dịch đó. Màng bấn thấm này chỉ cho cấc phân tử
nước đi qua, giữ lại cấc ion kim loại và cấc chất khấc có kích thước lổn hơn kích thước của
phân tử nước. Nhờ vậy, cấc ion kim loại được tách ra khỏi nguồn nước ô nhiễm kim loại.
8.3.2.70Nhược điểm của phương pháp sử dụng màng RO :
- Qúa trình tiến hành ở áp suất cao đòi hỏi phải có bộ phận làm kín đặc biệt.
- Phát sinh hiện tượng phân cực nồng độ do sự tăng nồng độ ở bề mặt màng, dẫn
đến giảm năng suất, giảm mức độ phân tách các cấu tử và giảm tuổi thọ của màng. Do đó
cần phải thay màng thường xuyên nên chi phí xử lý cao.
3.1.3.2 Điện thẩm tách
8.3.2.71Điện thẩm tách được thực hiện bằng cách đặt các màng có tính chọn lọc với

cation và anion luân phiên nhau dọc theo dòng điện. Khi đưa dòng điện vào, điện thế giữa
hai điện cực tạo ra sự di chuyển của cation và anion hướng về các điện cực. Dưới sự tác
động của dòng điện, các ion kim loại sẽ đi qua màng chọn lọc ion.
8.3.2.72Nhược điểm của phương pháp này cũng tương tự như trên là các màng chọn

lọc ion dễ bị tắc nghẽn và cần phải thay màng định kỳ.
3.1.4

Phương pháp kết tủa hóa học
8.3.2.73Phương pháp kết tủa thường được ứng dụng cho xử lý nước thải chứa ion


kim loại nặng. Các ion kim loại nặng thường kết tủa ở dạng hydroxide, vì vậy khi cho các
chất kiềm hoá như vôi, NaOH, Na2C03... vào nước có chứa ion kim loại nặng để đạt đến
giá trị pH tương ứng với độ hoà tan nhỏ nhất. Giá trị pH này thay đổi tuỳ theo từng kim
loại, như độ hoà tan nhỏ nhất của crôm là ở pH 7.5, kẽm là 10.2 và nikel là 11.5 [8].
8.3.2.74Khi xử lý nước thải chứa ion kim loại nặng bằng phương phấp này, cần phải

xử lý sơ bộ để khử đi cấc chất cản trở quá trình kết tủa. Ví dụ như cyanide và ammonia hình
thành phức với nhiều kim loại, làm giảm hiệu quả quá trình kết tủa [8].


8.3.2.75Trong xử lý nước thải công nghiệp, kim loại có thể được loại bỏ bằng quá

trình kết tủa hydroxide với chất kiềm hoấ, hoặc dạng sulfide hay carbonat. Một sô" kim loại
như arsenic hay cadmium ở nồng độ thấp... có thể xử lý hiệu quả khi cùng kết tủa với phèn
nhôm hoặc phèn sắt [8].
8.3.2.76Phương pháp này không cho hiệu quả cao ở nồng độ ô nhiễm KLN từ 1 -

lOOppm, nhưng chi phí cho hoá chất kết tủa và keo tụ hay lọc để loại bỏ phần kết tủa lại
cao [12].
3.2 Các phương pháp sinh học
8.3.2.77Đối với việc ô nhiễm KLN trong nước thải đang là vấn đề đang được quan

tâm hiện nay, vì KLN ô nhiễm trong nguồn nước sẽ khó bị phân huỷ dễ dàng nhờ vào quá
trình làm sạch tự nhiên. Các phương pháp xử lý KLN trong nước thải bằng hoá học hay hoá
lý như : kết tủa hoá học, trao đổi ion, lọc màng và hấp phụ đều cho cho chi phí xử lý cao,
quá trình phức tạp, nhưng hiệu quả xử lý không triệt để [12, 24]. Qúa trình hấp phụ trên
carbon hoạt tính cũng là một phương pháp được ghi nhận đối với việc loại bỏ KLN trong
nước thải. Chi phí của carbon hoat tính cao là một trong những giới hạn cho việc dùng nó
làm chất hấp phụ [12, 24]. Vì vậy việc sử dụng các chất hấp phụ sinh học sẽ khắc phục
được chi phí xử lý do nguồn nguyên liệu dồi dào của sinh khối từ tự nhiên hay tái sử dụng

từ quá trình sản xuất công nghiệp, đồng thời cũng cho hiệu quả xử lý cao ngay cả ở nồng độ
thấp. Theo những nghiên cứu gần đây, các chất hấp phụ sinh học có khả năng loại bỏ KLN
như các loài thực vật, cỏ, bèo...và các loại vi sinh vật như vi khuẩn, tảo, nấm mốc và nấm
men [10 - 32].
8.3.2.78

3.2.1. ứng dụng thực vật trong xử lý KLN trong nước

8.3.2.79Thực vật có nhiều cách phản ứng khấc nhau đối với sự có mặt của cấc ion

kim loại trong môi trường. Hầu hết, cấc loài thực vật rất nhạy cảm với sự có mặt của cấc
ion kim loại, thậm chí ở nồng độ rất thấp. Tuy nhiên, vẫn có một số loài thực vật không chỉ
có khả năng sống được trong môi trường bị ô nhiễm bởi cấc kim loại độc hại mà còn có khả
năng hấp thụ và tích cấc kim loại này trong cấc bộ phận khấc nhau của chúng[15].
8.3.2.80Trong thực tế, công nghệ xử lý ô nhiễm bằng thực vật đòi hỏi phải dấp ứng

một số điều kiện cơ bản như dễ trồng, có khả năng vận chuyển cấc chất ô nhiễm từ đất lên
thân nhanh, chống chịu được với nồng độ cấc chất ô nhiễm cao và cho sinh khối nhanh


[15]. Tuy nhiên, hầu hết cấc loài thực vật có khả năng tích luỹ KLN cao là những loài phát
triển chậm và có sinh khối thấp, trong khi các thực vật cho sinh khối nhanh thường rất nhạy
cảm với môi trường có nồng độ kim loại cao.
8.3.2.81Một số loài thực vật thuỷ sinh cũng có khả năng hấp thụ kim loại nặng rất

tốt. Các thí nghiêm của S.K.Jain, P.Vasudevan và N.K Jha (1987) ở Xn Độ cho thấy các loài
bèo hoa dâu đều có khả năng làm giảm kim loại nặng ở nồng độ thấp rất tốt. Ví dụ như :
hiệu quả xử lý đồng của bèo dâu Lemnaminor và Aspirodela polyrhiza là khoảng 80% đối
với nồng độ đồng ban đầu là l.Oppm, 75% đối với nồng độ 4.0ppm và 65% đối với nồng độ
là 8.0ppm. Khả năng xử lý đồng của loài bèo hoa dâu Azolla piñata còn cao hơn so với hai

loài trên. Ngoài ra các tác giả khác như H.H.Harger (1989), E.H.Livinger (1993),
P.L.M.Veneman (1996), P.H. Templet (1998) cũng đã công bố những kết quả nghiên cứu về
khả năng hấp thụ các ion kim loại nặng bởi các cây họ sậy và các loài bèo tây [5].
8.3.2.82Ngoài ra còn có một vài loại thực vật khác có khả năng tích tụ KLN như loài

cỏ Deschampsia caespitosa và Agostis gigantea có khả năng tích tụ tốt nikel và đồng; cây
hoa môi Becium homblei có khả năng tích tụ đồng cao, sống được trong đất chứa nhiều hơn
lOOOppm Cu (Cannon, 1960); một số loài cây Astralagus conopsis, Stanleya và Xylorhisa
có khả năng tích luỹ một lượng lớn selenium dưới dạng selenate và hỗn hợp Se hữu cơ cây
trong các mô của chúng (10 '10 mg Se/kg trọng lượng khô) [4].
3

3.2.2

4

ứng dụng vi sinh vật trong xử lý KLN trong nước
3.2.2.1 Tảo
8.3.2.83Tảo là loài vi sinh vật phổ biến trong nước kể cả nước ngọt hay nước mặn.

Tảo khấc với nấm và vi khuẩn ở khả năng quang hợp, sử dụng năng lượng ánh sáng làm
năng lượng sinh tổng hợp. Một sô" loài tảo có khả năng xử lý tốt ion kim loại nặng với
nồng độ không cao trong nước. Một sô" nghiên cứu của về khả năng loại bỏ ion kim loại
nặng trong nước của một sô" loài tảo như loài tảo Chlorella vulgaris. Kết quả nghiên cứu
cho thây Chlorella vulgaris có thể xử lý nikel và đồng hiệu quả ở nồng độ thấp, đôi với
nồng độ 5ppm thì kết quả xử lý đạt trên 90% Cu và gần 70% Ni trong vòng 60phút. Khi
nồng độ càng tăng thì hiệu quả xử lý càng giảm, như đến nồng độ 50ppm thì hiệu quả xử lý
chỉ còn khoảng từ 10 - 20% trong vòng 120phút [29]. Theo nghiên cứu của



×