Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Hoạt động tham vấn cho cha mẹ có con tự kỷ từ thực tiễn thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1018.56 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ BÍCH PHƯƠNG

HOẠT ĐỘNG THAM VẤN
CHO CHA MẸ CÓ CON TỰ KỶ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Hà Nội – 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ BÍCH PHƯƠNG

HOẠT ĐỘNG THAM VẤN
CHO CHA MẸ CÓ CON TỰ KỶ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS.PHẠM HỮU NGHỊ


Hà Nội - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THAM
VẤN CHO CHA MẸ CÓ CON TỰ KỶ ................................................... 16
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của trẻ tự kỷ .................................. 16
1.2. Quan niệm về cha mẹ có con tự kỉ ..................................................... 19
1.3. Khái niệm, nguyên tắc, kỹ năng và tiến trình của hoạt động tham vấn
cho cha mẹ có con tự kỷ ............................................................................ 21
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn cho cha mẹ có con tự
kỷ ............................................................................................................... 31
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THAM VẤN CHO CHA MẸ
CÓ CON TỰ KỶ TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ............................... 37
2.1. Thực trạng chung về trẻ tự kỷ và nhu cầu tham vấn cho cha mẹ có con
tự kỷ tại thành phố Hải Phòng ................................................................... 37
2.2. Thực trạng về một trường hợp tham vấn cha mẹ có con tự kỷ .......... 39
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THAM
VẤN CHO CHA MẸ CÓ CON TỰ KỶ ................................................... 69
3.1. Về chủ trương, chính sách .................................................................. 69
3.2. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức ..................................................... 69
3.3. Về các dịch vụ y tế, giáo dục ............................................................. 70
3.4. Công tác xã hội với hoạt động tham vấn cho cha mẹ có con tự kỷ ... 70
KẾT LUẬN .................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt


Nghĩa đầy đủ

TLH

Tâm lý học

CTXH

Công tác xã hội

TVTL

Tham vấn tâm lý

NVXH

Nhân viên xã hội

GDTTK

Giáo dục trẻ tự kỷ

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

CTXHCN

Công tác xã hội cá nhân



DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ
BẢNG

Bảng 2.1: Mục tiêu hoạt động và những nguồn lực trợ giúp ........................ 48
Bảng 2.2: Tóm tắt bảng tham vấn chị H lần 1 .............................................. 50
Bảng 2.3: Kế hoạch giáo dục cá nhân cho TTK ........................................... 56
Bảng 2.4: Bảng tham vấn cho chị H lần 2 .................................................... 61
HÌNH

Hình 2.1 : Sơ đồ phả hệ đối với gia đình chị H ............................................ 40
Hình 2.2: Sơ đồ sinh thái đối với chị H ........................................................ 41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là những công dân nhỏ tuổi và là chủ tương lai của đất nước. Mỗi
ngày chúng ta chào đón hàng triệu trẻ em được sinh ra trên thế giới, tuy nhiên
trong hàng triệu đứa trẻ đó không phải bé nào cũng may mắn có được một cơ thể
phát triển toàn vẹn. Có nhiều bé từ khi chào đời đã phải mang trên mình những
khuyết tật vận động, rối nhiễu tâm trí, rối loạn cảm xúc, rối loạn hành vi. Hiện
nay, tồn tại một hội chứng rất phổ biến trên toàn thế giới đó là rối loạn phổ tự kỷ
hay còn gọi là Hội chứng Tự kỷ ở trẻ em. Tự kỷ là hội chứng đa khiếm khuyết,
biểu hiện sự rối loạn phát triển trong hành vi, nhận thức, xúc cảm, sở thích, ý nghĩ,
lời nói, giác quan và quan hệ xã hội, ít nhiều có kèm theo chậm phát triển trí tuệ.
Khác với các dạng khuyết tật về thể chất, trẻ tự kỷ sinh ra bình thường như mọi trẻ
khác nên khi trẻ bộc lộ các triệu chứng của tự kỉ đôi khi bị hiểu nhầm là trẻ hư,
nghịch ngợm, không được cha mẹ quan tâm hoặc trẻ tự kỉ đôi khi có các đặc điểm
và biểu hiện như một thần đồng. Hiện nay, số lượng trẻ tự kỉ tăng lên nhanh chóng

ở tất cả các quốc gia trên thế giới, trẻ Tự kỷ có trong tất cả các nhóm chủng tộc,
màu da, các dân tộc và nền kinh tế xã hội khác nhau [37].
Hội chứng tự kỷ được xem là rối loạn phát triển đang tăng nhanh nhất, số trẻ
phát hiện mắc chứng tự kỷ ngày càng nhiều. Từ thập niên 90 của thế kỷ trước, Hội
chứng tự kỷ được mô tả một cách cụ thể hơn và có những phương pháp điều trị
khác nhau, tuy nhiên mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng và cho
đến nay trên thế giới chưa có phương pháp chữa trị tối ưu cho trẻ mắc chứng này.
Tự kỷ đang là một trong các căn bệnh được Liên hợp quốc dành riêng một ngày để
nâng cao nhận thức cộng đồng, ngày mồng 2 tháng 4 hàng năm [37].
Ở Việt Nam cho đến nay chưa có con số nghiên cứu chính thức về số lượng
trẻ mắc chứng bệnh tự kỷ. Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội, nước ta khoảng 200.000 người mắc chứng tự kỷ. Nếu tính theo cách tính của
WHO, con số này chừng 500.000 người. Tuy nhiên, các kiến thức chính thống và
khoa học về chứng bệnh này còn rất ít, chưa cụ thể và hệ thống, tài liệu chủ yếu là
1


tài liệu dịch, gây khó khăn cho cha mẹ có con là trẻ tự kỷ tiếp nhận và học hỏi.
Cho đến nay việc tham vấn cho phụ huynh, đặc biệt là tham vấn cho người trực
tiếp chăm sóc trẻ mắc chứng tự kỷ vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Con tự kỉ
là một cú sốc lớn cho các bậc cha mẹ và những thành viên khác trong gia đình.
Cha mẹ có con tự kỷ phải đối mặt với những khủng hoảng về mặt tâm lý, khó
khăn về tài chính, và băn khoăn về các định hướng giáo dục; cha mẹ không biết
phải làm gì và không tìm kiếm trợ giúp từ các nhà chuyên môn. Cha mẹ thường
tìm hiểu thông tin qua mạng hoặc thông qua những phụ huynh khác về vấn đề của
con mình và tự tạo ra các cách thức can thiệp cho con nhưng chưa có được những
kiểm chứng về tính hiệu quả, khả quan của phương pháp đó.
Xuất phát từ lý do đó nên tôi chọn đề tài “Hoạt động tham vấn cho cha mẹ
có con tự kỷ từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” để nghiên cứu trong khuôn khổ
của một luận văn thạc sĩ ngành Công tác xã hội.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1 Một số nghiên cứu về tham vấn tâm lý
Hiện nay, trên thế giới tham vấn vẫn là một lĩnh vực tương đối trẻ. Vào trước
những năm 1900, tham vấn chủ yếu là cho ý kiến tập trung vào việc cung cấp
những phúc lợi nhân đạo căn bản cho những người kém may mắn trong thời kỳ
cách mạng Công nghiệp. Ban đầ u nó đươ ̣c dành riêng cho người trẻ, liên quan đế n
những chương triǹ h hướng nghiê ̣p và những bài ho ̣c đa ̣o đức căn bản, như làm
điề u đúng, số ng tố t, tránh điề u sai, xa lánh điề u xấ u. Năm 1907, Jesse B. Davis là
người đầ u tiên thiế t lâ ̣p mô ̣t cơ sở hướng dẫn có hê ̣ thố ng ở tiể u bang Michigan,
Hoa Kỳ. Frank Parson (1854 - 1908) được xem như cha đẻ của ngành hướng dẫn
tư vấn nghề nghiệp tại Mỹ, bởi vậy ông là người đầu tiên đánh dấu cho sự ra đời
của chuyên ngành này. F. Parson đã viết cuốn sách “Cẩm nang hướng nghiệp”
nhằm trợ giúp các cá nhân trong viê ̣c lựa cho ̣n nghề nghiê ̣p, tìm ra cách bắ t đầ u và
xây dựng mô ̣t nghề nghiê ̣p thành công và hiê ̣u quả; chin
́ h điề u này đã ta ̣o điề u
kiê ̣n cho sự ra đời và phát triể n rầ m rô ̣ của ngành hướng dẫn tư vấ n nghề . Trong
thuyế t “Nhân cách và yế u tố ” (Trait and Factor), F. Parson cho rằ ng: thông qua
2


viê ̣c làm các trắ c nghiê ̣m tâm lý sẽ phát hiê ̣n ra những đă ̣c điể m nhân cách khác
nhau của mỗi con người. Sau khi tìm ra các đă ̣c điể m nhân cách của mỗi cá nhân,
nhà tham vấ n giúp những cá nhân đó tìm hiể u và phân loa ̣i các công viê ̣c đang có
trong thi ̣trường lao đô ̣ng. Người phát triể n quan điể m của F. Parson chin
́ h là E.G.
Williamson (1900 - 1979). Theo các tác giả của trường phái này, những đă ̣c điể m
nhân cách của mỗi con người sẽ đươ ̣c đo đa ̣c mô ̣t cách hế t sức chin
́ h xác và viê ̣c
lựa cho ̣n nghề nghiê ̣p sẽ tiế n hành mô ̣t lầ n trong đời. Mỗi người sẽ có mô ̣t công
viê ̣c hoàn toàn phù hơ ̣p. Vì vâ ̣y, viê ̣c tiế n hành làm các trắ c nghiê ̣m đươ ̣c coi là

mô ̣t viê ̣c làm quan tro ̣ng nhấ t và cơ bản nhấ t. Thời điể m lý thuyế t này thinh
̣ hành
cũng chính là thời điể m những phương pháp đo đa ̣c và trắ c nghiê ̣m tâm lý đươ ̣c áp
du ̣ng rô ̣ng raĩ (E.G. Williamson,1941). Những trắ c nghiê ̣m về khả năng nhâ ̣n thức,
hứng thú, trí thông minh ngày càng đươ ̣c chuẩ n hóa và hoàn thiê ̣n, đóng góp mô ̣t
cách tích cực cho tấ t cả các loa ̣i hình thực hành tham vấ n. Sự mở rô ̣ng pha ̣m vi ảnh
hưởng của ngành tâm lý tri ̣liê ̣u cùng với nỗ lực đấ u tranh cho những hin
̀ h thức chữa
tri ̣ nhân đa ̣o đố i với bê ̣nh nhân tâm thầ n, những bê ̣nh viê ̣n điề u tri ̣ tâm thầ n đươ ̣c
xây dựng khiế n cho nhu cầ u cầ n người trơ ̣ giúp đươ ̣c đào ta ̣o chuyên nghiê ̣p cũng
gia tăng. Ban đầ u, những nhân viên công tác xã hô ̣i, những nhà tâm lý tri ̣ liê ̣u đươ ̣c
đào ta ̣o về những kỹ năng tham vấ n để có thể đáp ứng nhu cầ u này [ 21].
Đế n những năm 30 - 40 của thế kỉ XX, do hâ ̣u quả của chủ nghiã phát xit́ nên
nhiề u nhà triế t ho ̣c, tâm thầ n ho ̣c, tâm lý ho ̣c nhân văn đã chuyể n từ Châu Âu sang
Mỹ và ngay lâ ̣p tức những tư tưởng của ho ̣ đã ảnh hưởng đế n tâm lý tri ̣ liê ̣u và
giáo du ̣c ở quố c gia này [ 21].
Carl Rogers (1902 - 1987) đã thay đổ i công viê ̣c thực hành tham vấ n theo
hướng thân chủ - tro ̣ng tâm (Client - Centered), sử du ̣ng phương pháp tiế p câ ̣n
gián tiế p khi làm viê ̣c với các cá nhân: “đă ̣t tro ̣ng tâm nơi thân chủ”. Phương pháp
tham vấ n thân chủ tro ̣ng tâm lúc đầ u đươ ̣c go ̣i là liê ̣u pháp thân chủ tro ̣ng tâm và
sau đó được gọi là phương pháp tham vấn tập trung vào cá nhân, hướng tiếp cận
của Carl Rogers không chỉ được coi là có ý nghĩa lớn lao trong công việc trợ giúp
thân chủ mà còn được xem là cách sống của con người. Rogers tin rằng bản chất
3


con người là thiện với những khuynh hướng tiến đến phát triển tiềm năng và xã
hội hoá mà nếu đặt trong môi trường thuận lợi sẽ phát triển nhận thức và hiện thực
hoá tiềm năng đầy đủ. Rogers giả thiết rằng mỗi người đều sở hữu những tiềm
năng cho sự lớn lên, tiềm năng cho những hành vi có hiệu quả và có khuynh

hướng tự hiện thực hoá những tiềm năng của mình. Sở dĩ một cá nhân nào đó phát
triển những hành vi kém thích nghi là do sự tập nhiễm những mẫu ứng xử sai lệch.
Bởi vì mỗi cá nhân đều có nhu cầu mạnh mẽ được người khác chấp nhận, coi
trọng nên anh ta hoặc cô ta có thể hành động một cách không tự nhiên, không thực
tế và phát triển những cảm giác sai lệch về bản thân, về những điều mình mong
muốn. Mục đích của phương pháp tham vấn tập trung vào cá nhân không phải là
chữa trị cho thân chủ hoặc tìm kiếm những nguyên nhân từ quá khứ mà cái chính
là khuyến khích thân chủ tự hiện thực hoá những tiềm năng của bản thân, tạo điều
kiện dễ dàng cho sự phát triển tâm lý lành mạnh ở thân chủ. Thân chủ được xem
như là một chủ thể có hiểu biết, họ phải được hiểu, được chấp nhận để nhà tham
vấn có thể cung cấp những loa ̣i hiǹ h giúp đỡ tố t hơn [24, tr.35].
Đầ u năm 1942, Rogers xuấ t bản tâ ̣p sách “Tham vấ n và tâm lý tri ̣ liê ̣u”
(Counseling and Psychotherapy), ghi la ̣i những nét chin
́ h về phương pháp của ông
đươ ̣c hình thành sau 10 năm kinh nghiê ̣m làm viê ̣c trong công tác tri ̣ liê ̣u cho cả
trẻ em và người lớn. Cuố n sách này có ảnh hưởng lớn lao đế n ngành, nghề tham
vấ n, nó đánh dấ u sự ra đời của tham vấ n hiê ̣n đa ̣i [24, tr.60].
Những năm 50 của thế kỉ XX đánh dấ u sự phát triể n của rấ t nhiề u ho ̣c thuyế t
khác nhau trong liñ h vực tham vấ n gắ n liề n với tên tuổ i của các nhà tâm lý học
(TLH) lớn trên thế giới như: “Các giai đoa ̣n phát triể n tâm lý và trí tuê ̣” của Jean
Piaget (1896 - 1980); “Lý thuyế t các giai đoa ̣n phát triể n tâm lý cá nhân” của
Erickson (1902 - 1994), những lý thuyế t này đã cung cấ p cho các nhà tham vấ n
những kiế n thức cầ n thiế t về các giai đoa ̣n phát triể n của tâm lý cá nhân, từ đó làm
nề n tảng cho quá trình tương tác với đố i tươ ̣ng.
Tham vấ n phát triể n ma ̣nh mẽ vào những năm 60 của thế kỉ XX. Bên ca ̣nh ba
hướng tiế p câ ̣n chiń h là tiế p câ ̣n Phân tâm ho ̣c (Freud), tiế p câ ̣n trực tiế p
4


(Williamson) và tiế p câ ̣n thân chủ tro ̣ng tâm (Rogers) thì thời kỳ này còn có sự ra

đời của vô số những cách tiế p câ ̣n mới như tiế p câ ̣n nhâ ̣n thức của Albert Ellis
(1961), tiế p câ ̣n hành vi của Bandura (1969). Tấ t cả các hướng tiế p câ ̣n tham vấ n
này đã giúp ić h cho sự phát triể n rực rỡ của ngành tham vấ n trong giai đoa ̣n đó.
Đế n những năm 70 của thế kỉ XX, tham vấ n tiế p tu ̣c phát triể n trong các liñ h vực
như: tham vấ n sức khỏe tâm trí cô ̣ng đồ ng, tham vấ n ho ̣c đường, tham vấ n cho
người khuyế t tâ ̣t. Sự đào ta ̣o các nhà tham vấ n cũng có quy mô hơn, chú tro ̣ng đế n
các kỹ thuâ ̣t như thấ u cảm, lắ ng nghe, đă ̣t câu hỏi, phản hồ i, nhằ m phát triể n mố i
quan hê ̣ giữa nhà tham vấ n và thân chủ mô ̣t cách hiê ̣u quả. Lúc này tham vấ n đã
trở thành mô ̣t nghề có vi ̣trí vững chắ c trong xã hội [21].
Từ những năm 80 của thế kỉ XX cho đế n nay, ngành tham vấ n tiế p tu ̣c đươ ̣c
mở rô ̣ng và lớn ma ̣nh trong tấ t cả các liñ h vực khác nhau của đời số ng xã hội.
Ngành tham vấ n ngày càng nhấ n ma ̣nh tầ m quan tro ̣ng của những nguyên tắ c đa ̣o
đức và đào ta ̣o chuyên môn của nghề tham vấ n. Năm 1995, Hiê ̣p hô ̣i tham vấ n Mỹ
ACA (American Couseling Association) đã sửa đổ i những tiêu chuẩ n đa ̣o đức và
những tiêu chuẩ n hành nghề tham vấ n nhằ m làm tăng hiê ̣u quả mố i quan hê ̣ trơ ̣
giúp giữa nhà tham vấ n và thân chủ, mố i quan hê ̣ dựa trên sự thấ u cảm, chấ p nhâ ̣n,
quan tâm của nhà tham vấ n đố i với từng thân chủ có những đă ̣c trưng về lứa tuổ i,
giới tin
́ h, kinh nghiê ̣m, triǹ h đô ̣ văn hóa khác nhau [21].
Tham vấn tâm lý ở Việt Nam hiện nay đang là một ngành khoa học tương
đối mới và chưa có nhiều những nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao. Hoạt động
tham vấn tâm lý thường được tích hợp vào trong các vai trò của các bác si,̃ nhấ t là
những bác si ̃ tâm thầ n và bác si ̃ nhi khoa. Thực tế, những hoạt động trợ giúp tâm
lý cho những người có khó khăn đã xuất hiện từ rất sớm trong xã hội Việt Nam.
Nhìn từ lịch sử ngành Công tác xã hội, trước năm 1945 tại một số bệnh viện ở phía
Bắc như Bệnh viện Bạch Mai, mội số cán sự xã hội (nhân viên công tác xã hội) đã
sử dụng tham vấn, như một kỹ năng quan trọng của Công tác xã hội, vào quá trình
trợ giúp bệnh nhân tại các bệnh viện. Ở phía Nam, trước năm 1975, cùng với hoạt
động tham vấn cho cá nhân, gia đình tại cộng đồng, Trường đào tạo cán sự xã hội
5



Caritas, Thành phố Sài Gòn đã triển khai chương trình đào tạo nhân viên công tác
xã hội, trong đó có cung cấp các kỹ năng trợ giúp và kỹ năng tham vấn cho các
học viên [13].
Khoảng cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Vào thời kỳ
này, các hoạt động tư vấn tâm lý thường đi kèm với các chương trình cải thiện
cuộc sống và kinh tế cho các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội. Công tác tư
vấn là một phần trong các hoạt động của công tác từ thiện, công tác xã hội, nhằm
giải quyết những vấn đề mang tính thời đại, như đói nghèo, bệnh tật, mại dâm,
người có HIV, trẻ mồ côi, trẻ lang thang, người không nơi nương tựa…, với những
tổn thương tâm lý sâu sắc [13].
Lịch sử về tham vấn tại Việt Nam phải kể đến những đóng góp có giá trị của
cố bác sĩ, nhà tâm lý học lâm sàng Nguyễn Khắ c Viê ̣n cùng các cô ̣ng sự của ông ở
Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em (NT) với những cố gắ ng phát triể n TLH lâm
sàng và tư vấ n tâm lý trẻ em. Nếu nhìn hoạt động tham vấn từ góc độ nghề trợ
giúp tâm lý theo đánh giá của ThS. Nguyễn Thị Oanh, “Phòng tư vấn tâm lý” đầu
tiên được thành lập ở Thành phố Hồ Chí Minh là vào năm 1988, do TS tâm lý Tô
Thị Ánh phụ trách. Các đối tượng tới đây xin tư vấn thuộc mọi thành phần và các
nhu cầu trợ giúp cũng đa dạng. Do Trung tâm Tư vấn Tâm lý này có dịch vụ trị
liệu tâm lý chuyên sâu nên các khách hàng có nan đề bị trầm trọng đã thường đến
đây xin trợ giúp.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em (1991) đã được Nhà nước phê chuẩn,
Luật Bảo vệ và Chăm sóc giáo dục trẻ em được ban hành đã góp phần nâng cao
trách nhiệm của gia đình, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội trong việc
hạn chế vấn đề vi phạm quyền trẻ em và trẻ em làm trái pháp luật. Bằng nghiệp vụ
chuyên môn của mình, Ủy ban Bảo vệ Chăm sóc Trẻ em Việt Nam (trước đây) đã
xây dựng nhiều mô hình chăm sóc trẻ em, trong đó có mô hình văn phòng tư vấn,
nhằm bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, như trẻ em lang thang kiếm
sống ở thành phố, trẻ em trộm cắp, trẻ nghiện hút, trẻ bị bóc lột sức lao động và

tình dục, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa [13].
6


Vào những năm 1997 - 2000, ở Thành phố Hồ Chí Minh có hàng chục Phòng
tham vấn HIV xuất hiện. Nhiệm vụ của nó chủ yếu là cung cấp thông tin, giải đáp
thắc mắc và cho lời khuyên.
Sự xuất hiện của các dịch vụ tham vấn/trị liệu trực tiếp nhằm giúp đỡ cho các
đối tượng là trẻ em bị lạm dụng tình dục do Trung tâm Công tác Xã hội, thuộc Hội
Liên hiệp Thanh niên Việt Nam kết hợp với Tiến sĩ Tâm lý Trần Thị Giồng đã dần
làm thay đổi tính chất của hoạt động tham vấn - Từ tư vấn cho lời khuyên chủ yếu
bằng điện thoại chuyển dần sang tư vấn trực tiếp, tập trung sâu vào vấn đề tâm lý
của người xin trợ giúp.
Hiê ̣n nay ở nước ta cũng đã bắ t đầ u có mô ̣t số sách về TVTL đã đươ ̣c xuấ t
bản như: “Tư vấ n tâm lý căn bản” của tác giả Nguyễn Thơ Sinh. Ngoài ra còn
cũng có nhiề u quan điể m khác nhau về TVTL đươ ̣c in trên các sách, ta ̣p chí như:
- Bùi Thi ̣ Xuân Mai, “Tham vấ n - mô ̣t dich
̣ vu ̣ XH cầ n đươ ̣c phát triể n ở
Viê ̣t Nam, chủ yế u bàn về các cách hiể u khác nhau của khái niê ̣m tham vấ n và
những yế u tố cơ bản của tham vấ n, qua đó cho thấ y đươ ̣c sự cầ n thiế t của viê ̣c
phát triể n ngành tham vấ n ở Viê ̣t Nam.
- Nguyễn Thi ̣ Phương Hoa, “Về tâm lý ho ̣c tư vấ n”, trin
̀ h bày khái niê ̣m, đố i
tươ ̣ng của TLH tư vấ n cũng như sự ra đời của TLH tư vấ n ở Viê ̣t Nam và triể n
vo ̣ng phát triể n TLH tư vấ n ở nước ta trong những năm sắ p tới.
- Trầ n Thi ̣ Minh Đức, “Thực tra ̣ng tham vấ n ở Viê ̣t Nam: từ lý thuyế t đế n
thực tế ”, nhằ m đánh giá hoa ̣t đô ̣ng tham vấ n và vai trò của các nhà tham vấ n trong
giai đoa ̣n hiê ̣n nay.
Trong những năm gầ n đây ngày càng có nhiề u trung tâm, dich
̣ vu ̣ hỗ trơ ̣, trơ ̣

giúp tâm lý ta ̣i các thành phố lớn như Hà Nô ̣i, Tp. HCM đươ ̣c thành lâ ̣p đã góp
phầ n không nhỏ vào viê ̣c phát triể n nghề tham vấ n thực hành. Có thể kể ra một số
cơ sở tham vấn, trị liệu, như: Cơ sở thăm khám tâm lý trẻ em N-T của cố bác sĩ
Nguyễn Khắc Viện, Công ty Tham vấn Share, Trung tâm Tham vấn Hỗ trợ Tâm lý
- Giáo dục CPEC; Trung tâm Tư vấn và Hỗ trợ Tâm lý. Các trường phổ thông
trung học như trường Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Tất Thành, Trần Hưng Đạo;
7


đường dây tư vấn 1088 hoặc 1900; các cơ sở thăm khám tâm lý - y tế như Khoa
Tâm Thần (Viện Quân y 103), khoa Tâm thần nhi (Bệnh viện Nhi Trung Ương),
Khoa Tâm Thần (Viện Tâm Thần Trung Ương) [13].
Đến nay, vấn đề tham vấn cho các đối tượng yếu thế tại Việt Nam đã trở
thành một đề tài nóng bỏng và bước đầu nhận được sự quan tâm ủng hộ, tuy nhiên,
diện mạo của một ngành nghề chuyên nghiệp vẫn chưa thật sự được định hình.
2.2. Một số nghiên cứu về tự kỷ
Vấn đề tự kỷ ở trẻ em được phát hiện từ những năm 40 của thế kỷ trước
nhưng thực ra đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Trên thế giới hiện nay đã có
nhiều nghiên cứu liên quan đến trẻ tự kỷ, các công trình nghiên cứu về vấn đề này
rất đa dạng và được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau
- Những nghiên cứu theo hướng phát hiện trẻ tự kỷ
Thuật ngữ Tự kỷ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “autós” nghĩa là “cái tôi, tự
bản thân” - được sử dụng đầu tiên bởi bác sỹ tâm thần người Thuỵ Sỹ Eugen
Bleuler (1857 - 1940) đưa ra năm 1919. Ông đã dung thuật ngữ này để mô tả giai
đoạn bắt đầu của rối loạn thần kinh ở người lớn, đây là triệu chứng rút lui xã hội
của các bệnh nhân mắc chứng tâm thần phân liệt và các triệu chứng trầm cảm
khác.
Cho đến năm 1943 bác sỹ tâm thần người Mỹ là Leo Kanner (1894-1981)
mô tả trong một bài báo với nhan đề “Autism Disturbance of Effective Contract”.
Ông cho rằng trẻ tự kỷ là trẻ thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt tình cảm với người

khác, cách thể hiện các thói quen hằng ngày rất giống nhau, tỉ mỉ và có tính rập
khuôn; không có ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ nói thể hiện sự bất thường rõ rệt
(nói nhại lời, nói lí nhí, không nhìn vào mắt khi giao tiếp), rất thích xoay tròn các
đồ vật và thao tác rất khéo; có khả năng cao trong quan sát không gian và trí nhớ
“như con vẹt”; khó khăn trong học tập ở những lĩnh vực khác nhau; thích độc
thoại trong thế giới riêng của mình, khó khăn trong việc thực hiện các trò chơi
đóng vai theo chủ đề như cho búp bê ăn, nói chuyện điện thoại, bác sỹ tiêm bệnh
nhân; chỉ hiểu nghĩa đen của câu nói, thích tiếng động và vận động lặp đi lặp lại
8


đơn điệu: giới hạn đa dạng các hoạt động tự phát, mặc dù vẻ bề ngoài nhanh nhẹn,
thông minh. [18, tr.12]. Kanner nhấn mạnh triệu chứng Tự kỷ có thể phát hiện
được ngay khi trẻ ra đời hoặc trong khoảng 30 tháng đầu. Công trình khoa học của
Kanner đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử giáo dục trẻ tự kỷ, ngày nay là
cơ sở của nhiều công trình nghiên cứu tại nhiều nước thế giới [18, tr.12].
Năm 1944, một bác sỹ tâm thần người Áo là Han Asperger (1906 – 1980) sử
dụng thuật ngữ Autism trong khi mô tả những vấn đề xã hội trong nhóm trẻ trai
mà ông làm việc. Mô tả của ông như sau: ngôn ngữ của trẻ phát triển bình thường,
tuy nhiên trong cách diễn tả và cách phát âm nhiều cung điệu lên xuống không
thích hợp với hoàn cảnh; có những rối loạn trong cách sử dụng đại từ nhân xưng
ngôi thứ nhất “con, tôi” lẫn lộn với ngôi thứ hai và ba. Trẻ vẫn có những tiếp xúc
về mặt xã hội nhưng có xu hướng thích cô đơn, đơn độc. Rối loạn đặc biệt nhất
trong hội chứng này là cách suy luận rườm rà, phức tạp, không thích ứng với
những điều kiện, hoàn cảnh xã hội. Những trẻ này có sở thích đặc biệt về mặt kỹ
thuật và toán học và có khả năng nhớ tốt một cách lạ thường [18, tr.63], mọi người
lấy tên của ông để đặt tên cho hội chứng này là Asperger.
Cũng từ những năm 60 của thế kỷ XX, những hiểu biết về Tự kỷ đã có
những thay đổi hết sức lớn lao. Đặc biệt, nghiên cứu của Michael Rutter đã chỉ ra
rằng cách chăm sóc, giáo dục của cha mẹ không phải là nguyên nhân chính dẫn

đến việc trẻ bị Tự kỷ [18].
Trong những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, người ta bắt đầu xem xét đến
khái niệm phổ tự kỷ. Trong cuốn sách “Hiện tượng tự kỷ”, Lorna Wing (1978) đã
tìm ra những dấu hiệu rối loạn tự kỷ liên quan đến nhân vật “sư huynh Juniper”.
Theo nhận định của bà, người này có những dấu hiệu Tự kỷ như: không muốn
giao tiếp, tiếp xúc; thờ ơ với mọi người xung quanh, thích những hoạt động nhàm
chán lặp đi, lặp lại; không hiểu và đáp lại những tình cảm của người khác. Tuy
chưa khẳng định một cách chắc chắn Juniper có bị tự kỷ hay không, nhưng theo
mô tả của Lorna Wing cho thấy một số biểu hiện mà ngày nay chúng ta thường
gặp ở TTK [18].
9


- Những nghiên cứu theo hướng công cụ chẩn đoán, đánh giá trẻ tự kỷ
Năm 1996, Baron- Cohen, Allen và Gilber nghiên cứu công cụ sàng lọc Tự
kỷ trên hơn 12.000 trẻ ở độ 18 tháng. Sau đó chọn được 9 dấu hiệu đặc hiệu được
dùng dưới dạng bộ câu hỏi khẳng định, dễ sử dụng tại các phòng khám nhi, Phục
hồi chức năng. Bộ câu hỏi này có tên “Bảng đánh giá Tự kỷ ở trẻ nhỏ” (Checklist
for Autism in Toddler – CHAT). Bộ câu hỏi CHAT này (gồm 9 dấu hiệu) có tính
đặc hiệu cao. Nghĩa là trẻ có những dấu hiệu này thì nguy cơ bị Tự kỷ cao. Nhưng
nó lại có độ nhạy thấp. Nghĩa là nếu trẻ bị Tự kỷ nhẹ thì có thể các dấu hiệu trên
sẽ không quan sát thấy; dẫn tới dễ bỏ sót trẻ bị nhẹ hoặc không điển hình.Vì vậy,
năm 2001 Robin, Fein, Barton & Green bổ sung vào công cụ sàng lọc này thêm 14
câu hỏi thuộc các lĩnh vực rối loạn vận động, quan hệ xã hội, bắt chước và định
hướng. Bộ câu hỏi bổ sung có tên là M-CHAT 2001, được dùng để sàng lọc trẻ tự
kỷ trong độ tuổi 18 - 24 tháng [4, tr.4].
Hội tâm thần học Mỹ, sau nhiều năm nghiên cứu năm 1994 đưa ra Sổ tay
chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu tâm thần DSM-IV, bao gồm các tiêu chuẩn
chẩn đoán Tự kỷ tìm ra những biểu hiện khiếm khuyết về chất lượng quan hệ xã
hội, chất lượng giao tiếp và mẫu một số hành vi bất thường. Theo một Ba-rem

được hướng dẫn, nếu trẻ có đủ các dấu hiệu tiêu chuẩn theo thang đánh giá thì sẽ
được xác định là có Tự kỷ hay không. Tiếp theo đó, Tổ chức y tế thế giới (WHO)
cũng đưa ra Bảng phân loại quốc tế ICD (International Classification of Diseases)
qui định những tiêu chuẩn chẩn đoán các bệnh tâm thần trong đó bao gồm các tiêu
chí đánh giá để chẩn đoán Tự kỷ [4, tr.23].
- Những nghiên cứu theo hướng phương pháp dạy trẻ tự kỷ
Một nghiên cứu có ứng dụng tích cực trong can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ là
Ứng dụng phân tích hành vi (Aplied Behavior Analyis-ABA). Đây là kết quả
nghiên cứu của Ivar Lovaas vào năm 1990 ở Đại học Los Angeles - California.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở để hình thành phương pháp can thiệp hành vi, được
dùng để phát huy tối đa khả năng học tập của trẻ tự kỷ. ABA là một chương trình
can thiệp hành vi của trẻ tự kỷ một cách toàn diện trong mọi lĩnh vực liên quan.
10


Tác giả thử nghiệm chương trình can thiệp sớm cho trẻ nhỏ dựa vào gia đình cho
trẻ. Các lĩnh vực đó có thể là: tương tác xã hội, giao tiếp, tự chăm sóc, vui chơi.
Cấu trúc của ABA gồm hai thành phần chính: dạy thử nghiệm các kỹ năng riêng
biệt và thay đổi hành vi. Các nghiên cứu đều cho thấy sự giáo dục phù hợp nhất
đối với TTK là can thiệp hành vi sớm và tích cực [18, tr.60].
Andrew Bandy (nhà tâm lý Nhi) và Lori Frost (nhà âm ngữ trị liệu) nghiên
cứu phương pháp PECS (Hệ thống giao tiếp thông qua trao đổi tranh - Picture
Exchange Communication System) ứng dụng vào can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ. Tác
giả sử dụng một loạt chiến lược để giúp trẻ tự kỷ có được các kĩ năng giao
tiếp.Tuy nhiên, phương pháp này mới tập trung vào giúp trẻ giao tiếp không lời,
cho phép trẻ lựa chọn cách thể hiện nhu cầu của mình bằng tranh ảnh. Điều này đã
giảm nhẹ hành vi của trẻ tự kỷ, và trẻ trở nên vui vẻ hơn chứ chưa tập trung vào
phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ Tự kỷ [18, tr. 92].
Có thể nói, các nghiên cứu về tự kỷ trên thế giới chủ yếu được thực hiện ở
các nước phát triển như Anh, Pháp, Nhật Bản, Úc, Thụy Điển và đặc biệt là Mỹ.

Những nghiên cứu có đủ cả lý thuyết và thực nghiệm với nội dung chủ yếu là phát
hiện trẻ tự kỷ, đưa ra các tiêu chí sàng lọc hay xác định tự kỷ, phương pháp dạy
cho trẻ tự kỷ.
Tóm lại, nghiên cứu công tác chăm sóc, giáo dục cho trẻ tự kỷ là một lĩnh
vực nghiên cứu còn mới mẻ. Những công trình nghiên cứu về lĩnh vực này ở trên
thế giới tuy nhiều nhưng chỉ tập trung vào nghiên cứu cách phát hiện, chẩn đoán
trẻ tự kỷ, phương pháp dạy trẻ tự kỷ, ít các công trình tham vấn cho cha mẹ, hỗ trợ
cha mẹ các kỹ năng giải quyết khủng hoảng, chấp nhận và có các cách thức giáo
dục con. Nếu được nghiên cứu sâu đề tài sẽ góp phần không nhỏ vào quá trình
chăm sóc, giáo dục nâng cao chất lượng cuộc sống cho cha mẹ và trẻ tự kỷ.
Ở Việt Nam nghiên cứu về trẻ tự kỷ mới chỉ được bắt đầu nghiên cứu vào
khoảng thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Từ năm 2015 trở lại đây, vấn đề trẻ tự kỷ đã
được nhiều ngành quan tâm như tâm lý học, giáo dục học, y học… Một loạt các
trung tâm nuôi dạy trẻ tự kỷ ra đời, các bệnh viện mở ra các khoa để can thiệp cho
11


trẻ tự kỷ, các trường học mở các lớp chăm sóc - giáo dục trẻ tự kỷ là những điều
kiện thuận lợi cho các nghiên cứu này.
- Nghiên cứu về phát hiện và can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ
Tác giả Nguyễn Thị Hương Giang với nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng
của trẻ tự kỷ từ 18 đến 36 tháng tuổi. Nghiên cứu chỉ ra hiện nay ở Việt Nam các
nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng của trẻ tự kỷ còn hạn chế, chưa có những nghiên
cứu mô tả lâm sàng một cách toàn diện ở lứa tuổi nhỏ trước 3 tuổi. Kết quả cho
thấy tỷ lệ trẻ tự kỷ ở mức độ nặng còn cao. trẻ tự kỷ thường có khiếm khuyết về
chất lượng quan hệ xã hội như: Không giao tiếp bằng mắt (86,9%), không biết gật
đầu hay lắc đầu khi đồng ý hoặc phản đối (97,6%), thích chơi một mình (94,8%),
không biết khoe khi được đồ vật (97,6%), không đáp ứng khi được gọi tên
(96,8%). Khiếm khuyết về chất lượng giao tiếp: Phát ra một chuỗi âm thanh khác
thường (82,1%), không biết chơi giả vờ (98,4%)… [35].

Tác giả Vũ Thị Bích Hạnh trong cuốn sách “Trẻ tự kỷ - phát hiện sớm và
can thiệp sớm” đã nêu ra những vấn đề cơ bản, chung nhất về cách phát hiện sớm
và can thiệp sớm mà chưa nêu ra cách làm cụ thể ở một nội dung nào trong can
thiệp sớm cho trẻ Tự kỷ.
Tác giả Võ Nguyễn Tinh Vân người Úc gốc Việt đã xuất bản cuốn sách
"Nuôi con bị Tự kỷ", "Để hiểu Tự kỷ", "Tự kỷ và trị liệu", giúp hiểu rõ về Tự kỷ ở
trẻ em và giúp cho các phụ huynh biết cách chăm sóc, nuôi con Tự kỷ cũng như
cách trị liệu cho trẻ Tự kỷ.
- Nghiên cứu về phương pháp dạy trẻ tự kỷ
Năm 2004, tác giả Đỗ Thị Thảo với đề tài “Xây dựng kế hoạch hỗ trợ
giáo viên và cha mẹ có con Tự kỷ trong chương trình Can thiệp sớm tại Hà Nội”.
Năm 2007, tác giả Nguyễn Nữ Tâm An với đề tài “Sử dụng phương pháp
TEACCH trong giáo dục trẻ Tự kỷ tại Hà Nội” cho thấy được một góc nhìn về vấn
đề định hướng và điều trị trẻ Tự kỷ thông qua giao tiếp, cách vận dụng phương
pháp TEACCH (Treatment and Education of Autistic and related Communication
handicapped Children) vào trong quá trình can thiệp sớm cho trẻ Tự kỷ.
12


Năm 2009, tác giả Ngô Xuân Điệp trong đề tài “Nghiên cứu nhận thức trẻ
Tự kỷ tại Thành phố Hồ Chí Minh” đã cho thấy được thực trạng mức độ nhận thức
của trẻ Tự kỷ và mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố chủ quan và khách quan đến
nhận thức của trẻ tự kỷ.
Năm 2014, tác giả Nguyễn Thị Thanh trong công trình “Biện pháp phát
triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ tự kỷ từ 3-4 tuổi”, luận án đi sâu nghiên cứu việc
phát triển các kỹ năng giao tiếp cho trẻ tự kỷ nói chung và trẻ từ 3-4 tuổi nói
riêng [27].
Các kết quả nghiên cứu về tham vấn và về tự kỷ, trẻ tự kỷ trong các công
trình kể trên là những tài liệu tham khảo bổ ích đối với học viên khi tiến hành đề
tài tài về hoạt động tham vấn cha mẹ có con là trẻ tự kỷ.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động tham vấn cho
cha mẹ có con tự kỷ. Từ đó, tìm hiểu vai trò của nhân viên CTXH trong hoạt động
tham vấn cho những cha mẹ này và đề xuất một số giải pháp hỗ trợ nhằm tăng
cường hiệu quả của hoạt động tham vấn vấn cho cha mẹ có con tự kỷ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu thực trạng về hoạt động tham vấn cho cha mẹ có con là trẻ
tự kỷ
- Phân tích vai trò của nhân viên CTXH trong hoạt động tham vấn cho cha
mẹ có con là trẻ tự kỷ
- Đề xuất một số biện pháp hỗ trợ nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động tham
vấn cho cha mẹ có con là trẻ tự kỷ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động tham vấn cho cha mẹ có con tự kỷ từ thực tiễn thành phố Hải
Phòng.
13


4.2 Phạm vi nghiên cứu
-Phạm vi về đối tượng nghiên cứu
Hoạt động tham vấn cho cha mẹ có con tự kỷ (bao gốm cả trẻ tự kỷ có đi
kèm hội chứng Asperger) và vai trò của nhân viên CTXH trong hoạt động này.
-Phạm vi về khách thể nghiên cứu
Nhân viên công tác xã hội thực hiện hoạt động tham vấn cho 1 gia đình có
con tự kỷ tại địa bàn Hải Phòng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu và hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận chủ
yếu sau:
- Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử nhấn mạnh việc xem xét đánh giá một
vấn đề trong một hoàn cảnh cụ thể, xác định. Theo đó, một luận điểm có thể coi là
luận điểm khoa học trong hoàn cảnh này nhưng không thể coi là luận điểm khoa
học trong hoàn cảnh khác. Xuất phát từ quan điểm này, một sự vật hiện tượng cần
được đánh giá, xem xét và phân tích một cách khách quan dựa theo thời điểm và
hoàn cảnh cụ thể. Trong khuôn khổ của luận văn, tôi mong muốn nghiên cứu hoạt
động tham vấn cho cha mẹ có con tự kỷ tại thời điểm hiện tại, với bối cảnh kinh tế,
chính trị, xã hội cụ thể như hiện nay để từ đó đưa ra những nhận xét, khuyến nghị
đúng đắn, hợp lý.
- Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng xem xét và đánh giá một hiện
tượng hay một sự vật đặt trong mối quan hệ tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau.
Phương pháp luận này giúp cho chúng ta có cái nhìn bao quát, toàn diện và chính
xác về một sự vật, hiện tượng trong mối tương quan với các sự vật hiện tượng
khác. Áp dụng phương pháp luận này vào đề tài nghiên cứu, tôi xem xét, đánh giá
và phân tích các hoạt động tham vấn đối với cha mẹ có con tự kỷ trong mối tương
quan với gia đình, với môi trường xung quanh và xã hội nói chung.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
14


Thu thập và phân tích các tài liệu về hoạt động tham vấn và kiến thức về
chứng tự kỷ ở trẻ cũng như các công trình nghiên cứu có liên quan để làm cơ sở lý
luận cho đề tài
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Trong phương pháp phỏng vấn sâu được sử dụng với các câu hỏi mở. Đây là
phương pháp bổ trợ nhằm tìm hiểu sâu hơn về kỳ vọng của cha mẹ đối với hoạt
động tham vấn, về những lo lắng, suy nghĩ thường nhật của cha mẹ có con tự kỷ,

những thông tin xung quanh kiến thức về trẻ tự kỷ mà cha mẹ quan tâm.
5.2.3. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia
Phương pháp xin ý kiến của chuyên gia với mục đích tiếp thu những đóng
góp, ý kiến, kinh nghiệm quý báu từ phía các chuyên gia nhằm tháo gỡ những
vướng mắc, khắc phục khó khăn trong suốt quá trình thực hiện đề tài và giúp đưa
ra những định hướng giải quyết cho cha mẹ có con tự kỷ trong việc lựa chọn biện
pháp hay tự đề xuất biện pháp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Hệ thống lại một số lý thuyết nghiên cứu về tham vấn, tham vấn cho cha mẹ có
con tự kỷ, về hội chứng tự kỷ và về công tác xã hội trong tham vấn tâm lý.
6.2. Về mặt thực tiễn
Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất hoạt động tham vấn cho cha mẹ có
con tự kỷ trong lĩnh vực công tác xã hội đối với các đối tượng dễ bị tổn thương.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động tham vấn cho cha mẹ có con tự kỷ.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tham vấn cho cha mẹ có con tự kỷ tại thành phố
Hải Phòng
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tham vấn cho cha mẹ có
con tự kỷ
15


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THAM VẤN CHO CHA
MẸ CÓ CON TỰ KỶ

1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của trẻ tự kỷ

1.1.1. Khái niệm trẻ tự kỉ
Cho đến nay, các nhà khoa học trên thế giới đã đưa ra khá nhiều quan điểm
khác nhau về tự kỷ. Những định nghĩa này rất phong phú và đa dạng, dưới đây là
một số quan niệm:
Theo Freud (1923): “Tự kỷ là sự đầu tư vào đối tượng quay trở lại cái tôi, có
nghĩa là đã trở thành tự yêu, là sự ẩn náu của trẻ em trong thế giới bên trong huyễn
tưởng và ảo ảnh để nói rằng cái tự trị ảo tưởng chỉ có thể được một thời gian, đối
với chủ thể với điều kiện phải thêm vào đó sự chăm sóc của người mẹ” [26].
Theo Kanner (1943): “Tự kỷ là sự rút lui cực đoan của một số trẻ em từ lúc
mới bắt đầu cuộc sống, triệu chứng đặc biệt của bệnh là một sự hiếm thấy, đó là sự
rối loạn từ cội rễ, là sự không có khả năng của những trẻ này trong công việc thiết
lập mối quan hệ bình thường với những người khác và hành động một cách bình
thường với các tình huống từ lúc chúng bắt đầu cuộc sống” [26].
Năm 1964 Bernard Rimland và một số nhà nghiên cứu cho rằng: “Tự kỷ là
do những thay đổi của cấu trúc lưới trong bán cầu não trái, hoặc do những thay
đổi về sinh hóa và chuyển hóa ở những đối tượng này. Do đó, những trẻ tự kỷ
không có khả năng liên kết các kích thích thành kinh nghiệm của bản thân;
không giao tiếp được vì thiếu khả năng khái quát hóa những điều cụ thể” [26].
Năm 1996 Từ điển Bách khoa Columbia cho rằng: “Tự kỷ là một khuyết tật
phát triển có nguyên nhân từ những rối loạn thần kinh ảnh hưởng đến chức năng
cơ bản của não bộ. Tự kỷ được xác định bởi sự phát triển không bình thường về kỹ
năng giao tiếp, kĩ năng tương tác xã hội và suy luận. Nam nhiều gấp 4 lần nữ. Trẻ
có thể phát triển bình thường cho đến tận 30 tháng tuổi” [26].
Năm 1944, Han Asperger bác sỹ tâm thần người Áo (1906 – 1980) sử dụng
thuật ngữ Autism trong khi mô tả những vấn đề xã hội trong nhóm trẻ trai mà ông
16


làm việc. Rối loạn đặc biệt nhất trong nhóm trẻ này là cách suy luận rờm rà, phức
tạp, không thích ứng với những điều kiện, hoàn cảnh xã hội. Những trẻ này có sở

thích đặc biệt về mặt kỹ thuật và toán học, đồng thời có khả năng nhớ tốt một cách
lạ thường. Ngày nay được lấy tên là hội chứng Asperger [26].
Theo DSM – IV: “Tự kỷ là sự phát triển không bình thường hay là một sự
giảm sút rõ rệt, hoạt động bất thường đặc trưng trong ba lĩnh vực: Quan hệ xã hội,
giao tiếp và tác phong thu hẹp định hình” (1994) [4, tr.6].
Theo chuyên trang Tự kỷ của Liên hợp quốc: “Tự kỷ là một loại khuyết tật
phát triển suốt đời do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của
não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra không phân biệt giới tính, chủng tộc, giàu nghèo và
địa vị xã hội. Tự kỷ được biểu hiện ra ngoài bằng các khiếm khuyết về tương tác
xã hội, giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, hành vi, sở thích và hoạt động mang
tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại” (2008) [4, tr.6].
Như vậy, mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau có các quan điểm khác nhau về
trẻ tự kỷ. Trong đề tài này tôi chọn khái niệm của Liên hợp quốc năm 2008 làm
công cụ nghiên cứu và chọn đối tượng nghiên cứu.

1.1.2. Đặc điểm của trẻ tự kỷ
Đặc điểm về hình dáng cơ thể: Trẻ tự kỷ có bề ngoài như bình thường. Các
công bố từ trước tới nay chưa có nghiên cứu nào nói đến sự khác thường về thể
trạng bên ngoài của Trẻ tự kỷ [27, tr.12].
Đặc điểm cảm giác: Ngưỡng cảm giác của Trẻ tự kỷ không bình thường. Do
đó trong trị liệu Trẻ tự kỷ người ta cũng quan tâm nhiều đến trị liệu giác quan hay
điều hòa cảm giác [27, tr.12-13].
Đặc điểm về tư duy, tưởng tượng: Trẻ tự kỷ cũng gặp khó khăn nhất định
trong tưởng tượng. Do đó, trẻ khó có thể hiểu trọn vẹn ý nghĩa những gì có trong
trí nhớ, khó khăn trong việc tổng kết, khái quát để đưa ra kết luận, rút kinh nghiệm
[27, tr.13].
Đặc điểm về hành vi: Trẻ tự kỷ ít quan tâm đến những chuẩn mực xã hội,
muốn làm theo sở thích cá nhân nên rất dễ có những hành vi trái ngược với sự
17



mong đợi của người khác như: la hét, khóc lóc khi người lớn không đáp ứng sở
thích của trẻ, tự ý lấy đồ của người khác mà không mắc cỡ hay sợ sệt [40, tr.145].
Đặc điểm về chú ý: Trẻ tự kỷ thường tập trung (dính chặt) vào một tính
năng của một đối tượng (vật thể hoặc một người) và bỏ qua “bức tranh tổng thể”.
Ngược lại đối với những gì mà trẻ thích thì trẻ tập trung chú ý rất tốt [27, tr.15].
Đặc điểm về cảm xúc: Trẻ tự kỷ gặp phải trở ngại trong tiến trình kết nối
làm bạn với những trẻ khác. Trẻ thường mất nhiều thời gian để hiểu được cảm
giác của người khác, thể hiện cảm xúc, tạo gắn bó với các cá nhân hoặc bộc lộ sự
quan tâm đến người khác [20, tr.35].
Đặc điểm tương tác xã hội: Khả năng tương tác xã hội của trẻ tự kỷ là rất
kém. Điều này làm giảm khả năng giao tiếp của trẻ rất nhièu vì môi trường xã hội
là môi trường quan trọng để phát triển các kỹ năng giao tiếp, khó hòa nhập với các
bạn khi đến trường [20, tr.38].
Đặc điểm trí tuệ: Đặc điểm trí tuệ của trẻ tự kỷ rất đa dạng. Một số trẻ tự kỷ
đi kèm với hội chứng phân rã tuổi ấu thơ là tự kỉ nặng có thoái lùi phát triển.
Đặc điểm về giao tiếp: Trẻ bị suy giảm nhiều trong tương tác qua lại với
mọi người, hầu hết trẻ tự kỷ biểu hiện sự cô lập, thích chơi một mình, tránh giao
tiếp với các bạn. Trong giao tiếp hàng ngày trẻ tự kỷ không quan tâm đến lời ăn
tiếng nói của các đối tượng giao tiếp.

1.1.3. Nhu cầu của trẻ tự kỷ
Nhu cầu chăm sóc về thể chất giúp trẻ tồn tại và phát triển, nó bao gồm việc
đáp ứng về nhu cầu ăn uống, chỗ ở, quần áo, vệ sinh, nước sạch, khám sức khỏe
giúp trẻ có sức khỏe thể chất tốt.
Nhu cầu chăm sóc về tinh thần, tâm lý, tình cảm là việc được yêu thương,
quan tâm, trò chuyện, lắng nghe, trẻ cần được sự chăm sóc, nuôi nấng của người
lớn, cần mái ấm gia đình để được che chở và an toàn.
Nhu cầu chăm sóc về nhận thức, đó là việc được học tập, tìm hiểu về cái
mới, cái chưa biết. Việc tạo điều kiện để trẻ được đến trường, tiếp cận với các dịch

vụ giáo dục giúp trẻ em có trình độ, tư duy.
18


Nhu cầu về mặt xã hội là việc được có mối quan hệ với người khác trong gia
đình, cộng đồng và xã hội. Việc đáp ứng nhu cầu về mặt xã hội giúp trẻ sẽ thỏa
mãn nhu cầu thuộc về.
Nhu cầu được giải trí, vui chơi là việc được tham gia các trò chơi, hoạt động
giải trí. Thông qua các hoạt động này giúp trẻ em có thể đáp ứng nhu cầu xã hội
của mình, có thể giao tiếp với người khác, thể hiện bản thân và khẳng định mình.

1.2. Quan niệm về cha mẹ có con tự kỉ
Hầu hết các phương pháp điều trị tự kỷ hiện nay đều tập trung vào trẻ em,
nhưng nghiên cứu mới đây cho thấy các bậc cha mẹ có con tự kỷ cũng bị ảnh
hưởng tâm sinh lý, họ cũng cần được trị liệu.
Giáo sư tâm lý học Elisabeth Dykens thuộc Trường ĐH Vanderbilt, cho biết
"Các can thiệp thường với mục đích tập trung vào trẻ em, nhưng những gì đang bị
bỏ sót là hạnh phúc và sức khỏe của cha mẹ trẻ. Điều thực sự quan trọng là cung
cấp cho cha mẹ trẻ công cụ kiểm soát sự căng thẳng và để họ tiếp tục đảm nhận tốt
vai trò làm cha mẹ”. [38, tr. 34] Bà cũng cho biết, những bà mẹ có con bị tự kỷ đã
trải qua nhiều căng thẳng và sức khỏe luôn trong tình trạng báo động, ngoài ra họ
thường bị rơi vào trạng thái trầm cảm.
Elisabeth Kubler-Ross (1970) đưa ra 5 giai đoạn trong tiến trình trải nghiệm
đau khổ của cha mẹ khi có con tự kỷ. Đau khổ không đi theo một tiến trình có trật
tự mà thường đi theo những lối không thể dự đoán trước [37, tr.18].
Có 5 giai đoạn trong tiến trình tâm lý của cha mẹ có con tự kỷ được
Elisabeth Kubler-Ross nêu như sau:
Sốc
Ngay sau khi có chẩn đoán con mắc chứng tự kỷ,cha mẹ có thể cảm thấy
choáng váng hoặc bối rối. Thực tế, chẩn đoán này có thể quá choáng ngợp nên cha

mẹ chưa sẵn sàng để chấp nhận hoặc họ có xu hướng chối bỏ nó lúc ban đầu. Một
số cha mẹ có thể đặt nghi vấn về chẩn đoán này và tìm đến một bác sĩ khác để hy
vọng người đó nói cho họ một chẩn đoán khác [37, tr.18].

19


Buồn bã/đau khổ
Nhiều cha mẹ cảm thấy hụt hẫng vì mất hết hy vọng và mơ ước mà họ dành
cho con mình trước khi họ có thể bước tiếp. Có thể họ sẽ cảm thấy đau buồn hết
lần này đến lần khác. “Sự chán nản” - nó luôn âm vang lên trong họ tuy nhiên điều
này là có sự khác biệt với nỗi buồn bã và trầm cảm. Trầm cảm thường khiến cha
mẹ dừng lại và trở ngược về phía sau. Còn cảm giác buồn bã cho phép cha mẹ
phát triển lên. Trên thực tế, cha mẹ có con tự kỷ có quyền cảm thấy buồn bã và thể
hiện nó ra một cách thoải mái nhất. Khóc có thể giúp giải phóng những căng thẳng
tạo ra nỗi buồn cho cha mẹ. Khóc thoải mái có thể tiếp sức cho họ vượt qua trở
ngại và giúp họ đối mặt với những điều tiếp theo. Nếu họ cảm thấy nỗi buồn bã
của họ làm ảnh hưởng đến khả năng giải quyết vấn đề, hoặc khi cha mẹ cảm thấy
các triệu chứng khác của trầm cảm, chẳng hạn như giảm cân, rút lui khỏi các hoạt
động xã hội, có ý nghĩ tự tử, khó ngủ, mất tự tin, giảm các hứng thú trong sinh
hoạt hằng ngày… Lúc đó họ cần tìm sự tư vấn của bác sĩ gia đình để được hướng
dẫn đến các cơ sở điều trị [37, tr.19].
Tức giận
Qua thời gian, nỗi buồn bã của cha mẹ có thể nhường đường cho sự tức giận.
Mặc dù tức giận là một phần tự nhiên của quá trình này, song họ có thể thấy rằng
nó ảnh hưởng trực tiếp đến những người gần gũi nhất của họ - con cái, vợ/chồng,
bạn bè hoặc những người khác. Họ cũng có thể cảm thấy sự oán giận. Sự tức giận
của họ có thể thể hiện ra theo những cách khác nhau - cào cấu người khác, phản
ứng thái quá với những điều nhỏ nhặt, thậm chí la hét. Tức giận là điều bình
thường ở cha mẹ có con là trẻ tự kỷ [37, tr.20].

Phủ nhận
Họ có thể trải qua giai đoạn từ chối việc tin vào những điều xảy đến với con
họ. Điều này không phải do họ ý thức lựa chọn, giống như giận dữ, nó chỉ xuất
hiện tự nhiên thôi. Suốt thời gian này, có thể họ không thể nào nghe đến những
yếu tố có liên quan đến chẩn đoán của con họ. Đừng chỉ trích bản thân mình vì họ
đã phản ứng theo cách này. Phủ nhận là một cách thức đối phó. Nó có thể đưa cha
20


×