“Đổi mới phương pháp giảng dạy lịch sử Đảng hiện nay Thực trạng và giải pháp”
Sử học nói chung, lịch sử Đảng nói riêng - là một môn khoa học, là một bộ
môn được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và chú trọng trong quá trình cải cách
giáo dục. Nó không chỉ cung cấp cho người học những kiến thức sử học của dân
tộc, của Đảng mà còn giúp người học mở rộng tầm hiểu biết của mình. Mà hơn thế
nữa môn lịch sử nói chung, lịch sử Đảng nói riêng còn giúp người học trong việc
hình thành nhân cách đạo đức của một công dân có ích cho xã hội. Trước tầm quan
trọng trên, để nhằm mục đích giảng dạy tốt hơn nữa, và người học ngày càng yêu
thích môn lịch sử Đảng hơn nữa nên vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy lịch
sử Đảng trong các nhà trường luôn là một vấn đề quan tâm của toàn Đảng, toàn
dân và toàn xã hội. Vì vậy việc đổi mới phương pháp giảng dạy Lịch sử Đảng
trong nhà trường là điều hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
I.TÍNH TẤT YẾU PHẢI ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY MÔN
LỊCH SỬ ĐẢNG
1.Nhận thức chung về phương pháp dạy học:
Khái niệm chung về “phương pháp dạy học” : “phương pháp” xuất phát từ
thuật ngữ Hi Lạp “Methodos”, có nghĩa là “con đường nghiên cứu”, “cách thức
nhận thức”. Lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định “phương
pháp”, là hình thức tìm hiểu thấu đáo về mặt lý luận và thực tiễn hiện thực khách
quan, xuất phát từ quy luật vận động của khách thể nghiên cứu. Do đó, phương
pháp là một hệ thống các nguyên tắc điều khiển hoạt động cải tạo hiện thực hay
hoạt động nhận thức lý luận của con người. Trong giáo dục cần phải có phương
pháp. bởi vì phải làm cho người học tiếp thu kiến thức bằng con đường ngắn nhất,
1
với sự nỗ lực của bản thân, dưới sự hướng dẫn giảng dạy của giáo viên. Lịch sử là
một môn khoa học, bởi vậy để học tốt môn lịch sử cần phải có một phương pháp
dạy học tốt. Vậy, trước khi tìm “phương pháp dạy học lịch sử” là gì? Chúng ta
cùng nhau tìm hiểu: thế nào là “phương pháp dạy học”. Phương pháp dạy học là
con đường, cách thức hoạt động thống nhất của người dạy và người học, trong đó
người dạy tổ chức, hướng dẫn người học học tập nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ
dạy học. Khái niệm “phương pháp dạy học” chi phối sự nhận thức về “phương
pháp dạy học lịch sử”. Từ nhận thức chung về phương pháp dạy học nêu trên, xuất
phát từ nội dung, đặc trưng của bộ môn lịch sử nói chung, từ nhiệm vụ của giáo
viên lịch sử phù hợp với trình độ, yêu cầu của người học, chúng ta sẽ xác định nội
hàm của khái niệm “phương pháp dạy học lịch sử” như sau:
Nhiệm vụ, chức năng của giảng viên lịch sử là cung cấp cho người học
những sự kiện lịch sử, các quan điểm lịch sử cơ bản, phương pháp học tập lịch sử
để phát huy tính tích cực, năng lực tự học thông minh, sáng tạo, rèn luyện quan
điểm tư tưởng giáo dục đạo đức phẩm chất và phát triển năng lực tư duy, hành
động của người học.
Người học là đối tượng và chủ thể của nhận thức lịch sử, nhưng do đặc trưng
của môn học, người học không thể trực tiếp quan sát quá khứ, không cần thiết phải
phát hiện tài liệu sự kiện mới. Dưới sự giảng dạy, hướng dẫn của giảng viên, người
học phải phát huy tính tích cực, năng động độc lập nhận thức, thông minh, sáng tạo
để thực hiện tốt nhất những nhiệm vụ giáo dục, phát triển của môn học theo
chương trình quy định.
Xác lập mối quan hệ qua lại giữa việc giảng dạy của giảng viên với học tập
của người học, nhằm phát triển sự nhận thức tích cực, độc lập của người học.
2
Phương pháp dạy học lịch sử rất đa dạng, sinh động, phong phú, không thể
thực hiện một cách công thức, khô cứng, làm mất hứng thú học tập, tính tích cực
và khả năng nhận thức của người học.
Phương pháp dạy học lịch sử gắn liền với nội dung dạy học, với các phương
tiện, phương thức dạy học để thực hiện mục tiêu giáo dục, mục tiêu môn học, và
nâng cao chất lượng môn học. Phương pháp dạy học lịch sử là một khoa học, nó
đáp ứng mọi tiêu chí của một khoa học, song có những nét riêng, đặc thù cần phải
được chú ý để việc nghiên cứu đạt kết quả. Phương pháp dạy học môn lịch sử tốt,
khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn.
Không nằm ngoài những nhận thức chung về phương pháp dạy học Lịch sử,
môn Lịch sử Đảng là gắn liền với lịch sử dân tộc. Theo đó, lịch sử Đảng là một
khoa học chuyên ngành của khoa học lịch sử và có quan hệ mật thiết với các khoa
học về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi ngành
khoa học có một phạm vi nghiên cứu cụ thể trong mối quan hệ biện chứng với các
khoa học khác. Khoa học lịch sử nghiên cứu về xã hội và con người xã hội, nghiên
cứu về cuộc sống đã qua của nhân loại một cách toàn diện trong sự vận động, phát
triển, với những quy luật phổ biến và đặc thù của nó. Lịch sử Việt Nam từ năm
1930 là lịch sử đấu tranh cách mạng kiên cường và anh dũng của nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm xóa bỏ chế độ thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân cũ và mới, xây dựng chế độ mới. Đảng Cộng sản Việt Nam là
người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân ta. Do đó, lịch sử Việt Nam
(từ năm 1930 trở đi) và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó hữu cơ với nhau.
vì vậy phương pháp giảng dạy Lịch sử Đảng cũng tương tự như phương pháp
giảng dạy Lịch sử.
3
2. Vị trí, vai trò môn Lịch sử Đảng.
Trong đời sống xã hội, lịch sử nói chung, Lịch sử Đảng nói riêng đóng một
vai trò vô cùng quan trọng, nó vừa là một công cụ của công tác sư phạm, lại có tác
dụng giáo dục trí tuệ và tình cảm. Tri thức lịch sử là một trong những bộ phận quan
trọng nhất của nền văn hóa chung của nhân loại và không có bộ phận quan trọng
này thì không thể coi việc giáo dục con người đã hoàn thành đầy đủ. Bác Hồ, lúc
sinh thời đã rất quan tâm đến việc học và truyền bá kiến thức lịch sử nước nhà.
Câu thơ mở đầu trong quyển (Lịch sử nước ta) “Dân ta phải biết sử ta Cho tường
gốc tích nước nhà Việt Nam” của Bác được xem là “Tuyên ngôn”, “Lời chỉ dẫn sư
phạm” trong giáo dục lịch sử nói chung, trong giảng dạy Lịch sử và Lịch sử Đảng
ở trường trường Đại học, cao đẳn nói riêng: "Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc
tích nước nhà Việt Nam" Trước hết phải “biết” và trên cơ sở ấy để “tường” (hiểu
sâu sắc) lịch sử, từ nguồn gốc dân tộc, từ thuở ban đầu dựng nước và rút ra những
bài học, kinh nghiệm quý báu cho cuộc sống hiện tại và tương lai… Lịch sử không
chỉ góp phần phát triển trí tuệ mà trong một chừng mực không nhỏ, còn là công cụ
giáo dục tình cảm , đạo đức, phẩm chất. Đó là giáo dục lòng yêu nước, trung thành
với dân tộc, với cách mạng, với Đảng…; là việc noi gương người xưa để hành
động trong ngày nay. Vì vậy, từ xưa, lịch sử được xem là “triết lí của việc noi
gương” (lịch sử treo “một tấm gương sáng” để người đời sau noi theo, qua những
bài học kinh nghiệm rút ra từ quá khứ và hoạch định đúng được cho tương lai).
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong
cách mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ và hy
sinh, giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và mang tính thời đại, làm cho
đất nước, xã hội và con người Việt Nam ngày càng đổi mới sâu sắc. Lịch sử của
Đảng là một pho lịch sử bằng vàng. Hồ Chí Minh nói: "Với tất cả tinh thần khiêm
4
tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại!"
Để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và phát huy truyền thống vẻ vang của
mình, Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng công tác nghiên cứu, giảng day lịch
sử Đảng và tổng kết những bài học lịch sử trong từng thời kỳ cũng như trong toàn
bộ tiến trình lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Nghiên cứu và tổng kết các bài học lịch sử của Đảng là một phương pháp tốt
để nâng cao trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng, góp phần khắc phục những xu hướng giáo điều và kinh nghiệm chủ nghĩa
trong Đảng. Trên cơ sở nghiên cứu và khái quát sâu sắc, toàn diện kinh nghiệm
lịch sử đã tích lũy được trong cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng, nếu không hiểu
được mối liên hệ lịch sử tất yếu và qua đó hiểu tiến trình phát triển có thể có của
các sự kiện, Đảng mới có thể đề ra được một đường lối chính trị hoàn chỉnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị có quy luật hình thành, phát triển
vai trò lịch sử riêng trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Do đó, lịch sử Đảng là một
khoa học riêng - khoa học lịch sử Đảng.
Lịch sử Đảng gắn liền với lịch sử dân tộc. Theo đó, lịch sử Đảng là một khoa học
chuyên ngành của khoa học lịch sử và có quan hệ mật thiết với các khoa học về lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mỗi ngành khoa học có một phạm vi nghiên cứu cụ thể trong mối quan hệ
biện chứng với các khoa học khác. Khoa học lịch sử nghiên cứu về xã hội và con
người xã hội, nghiên cứu về cuộc sống đã qua của nhân loại một cách toàn diện
trong sự vận động, phát triển, với những quy luật phổ biến và đặc thù của nó. Lịch
sử Việt Nam từ năm 1930 là lịch sử đấu tranh cách mạng kiên cường và anh dũng
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm xóa bỏ chế
độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, xây dựng chế độ mới. Đảng Cộng
sản Việt Nam là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân ta. Do đó,
5
lịch sử Việt Nam (từ năm 1930 trở đi) và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó
hữu cơ với nhau.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Đảng là người đề ra
đường lối cách mạng và tổ chức lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối. Do đó,
khoa học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống tri thức về quá trình
hoạt động đa dạng và phong phú của Đảng trong mối quan hệ mật thiết với tiến
trình lịch sử của dân tộc và thời đại. Với tư cách là một khoa học, Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Đảng và các phong
trào cách mạng của quần chúng diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lịch sử Đảng
có đóng vai trò: vừa nhận thức khoa học vừa giáo dục tư tưởng chính trị.
Chức năng nhận thức khoa học lịch sử có mục đích trước hết là để phục vụ
việc cải tạo xã hội theo đúng quy luật phát triển của xã hội Việt Nam như một quá
trình lịch sử - tự nhiên. Việc hiểu biết thấu đáo những kiến thức và kinh nghiệm
lịch sử Đảng là cơ sở khoa học để có thể dự kiến những xu hướng phát triển chủ
yếu của xã hội và những điều kiện lịch sử cụ thể có tác động đến những xu hướng
đó. Bằng cách đó, khoa học lịch sử Đảng cùng với các môn khoa học lý luận MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực tạo cơ sở lý luận để Đảng vạch
ra đường lối, chủ trương, chính sách.
Mặt khác, lịch sử Đảng có chức năng giáo dục tư tưởng chính trị, tham gia
vào việc giải quyết những nhiệm vụ hiện tại. Những kiến thức khoa học về các quy
luật khách quan của sự phát triển lịch sử cách mạng Việt Nam có tác dụng quan
trọng đối với cán bộ, đảng viên, nhân dân trong việc trau dồi thế giới quan, phương
pháp luận khoa học, xây dựng niềm tin vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ đó có quyết tâm phấn đấu thực hiện đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng.
6
Để thực hiện chức năng đó, trong quá trình nghiên cứu, học tập đặc biệt là
trong giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta có nhiệm vụ làm rõ
những quy luật của cách mạng Việt Nam, nghiên cứu, trình bày các điều kiện lịch
sử, các sự kiện và quá trình hình thành, phát triển và hoạt động của Đảng.
Trước tiên là làm sáng tỏ điều kiện lịch sử, quá trình ra đời tất yếu của
Đảng Cộng sản Việt Nam - bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân
tộc Việt Nam.
Trong thời gian đầu không phải là toàn bộ giai cấp công nhân đã tiếp thu
được chủ nghĩa Mác - Lênin, mà chỉ có một bộ phận tiên tiến nhất tiếp thu được lý
luận đó. Bộ phận này đứng ra thành lập đảng cộng sản, do vậy đảng cộng sản là
một bộ phận của giai cấp công nhân và giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng thông qua đảng cộng sản là đội tiền phong của mình.
Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân là quy luật
chung cho sự ra đời của các đảng cộng sản trên thế giới. Nhưng sự kết hợp đó
không theo một khuôn mẫu giáo điều, cứng nhắc, mà nó được thực hiện bằng con
đường riêng biệt, tuỳ theo điều kiện cụ thể về không gian và thời gian.
Yêu cầu của cách mạng thuộc địa khác với yêu cầu của cách mạng ở các
nước tư bản chủ nghĩa. Đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phải lãnh đạo
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, còn đảng cộng sản ở
thuộc địa trước hết phải lãnh đạo cuộc đấu tranh dân tộc chống chủ nghĩa thực dân.
Vấn đề giai cấp ở thuộc địa phải đặt trong vấn đề dân tộc, đòi hỏi sự vận dụng và
phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin về đảng cộng sản trong điều kiện một nước
thuộc địa.
7
Làm rõ quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với hoạt động
xây dựng một chính đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Khoa học xây dựng Đảng có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật xây dựng
đảng, xác định những nguyên tắc, mục đích, yêu cầu; những nguyên lý và hệ thống
các biện pháp phải tuân theo để xây dựng một chính đảng cách mạng về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; hình thành nên lý luận về xây dựng đảng.
Lịch sử Đảng có nhiệm vụ làm rõ những hoạt động cụ thể của Đảng để xây
dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách
mạng. Đó là sự thực hiện các nguyên lý, vận dụng những nguyên tắc, tiến hành các
biện pháp để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đương nhiên giữa hai ngành khoa học đó có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Trình bày quá trình hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng qua các thời
kỳ, các giai đoạn cách mạng trong những bối cảnh lịch sử cụ thể.
Đó là quá trình đi sâu nắm vững phương pháp biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh phù hợp với bối cảnh quốc tế và thực tiễn của xã hội Việt Nam, để
định ra cương lĩnh, vạch ra đường lối, xác định những chủ trương và biện pháp cụ
thể cho mỗi giai đoạn cách mạng.
Đó là quá trình đấu tranh về quan điểm tư tưởng trong nội bộ Đảng để xác
định một đường lối đúng đắn, đấu tranh bảo vệ đường lối cách mạng của Đảng,
chống mọi biểu hiện của tư tưởng hữu khuynh và "tả" khuynh, chống mọi ảnh
hưởng của tư tưởng duy ý chí, chủ quan, giáo điều và các loại tư tưởng phi vô sản
khác.
8
Đó cũng là quá trình chỉ đạo và tổ chức quần chúng hành động thực tiễn,
giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, thực hiện triệt để các
mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam do Đảng vạch ra.
Trình bày các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng tổ chức và
lãnh đạo.
Nhằm theo những phương hướng cơ bản do Đảng xác định, phong trào cách
mạng của quần chúng diễn ra một cách tự giác, hết sức sinh động, phong phú và
sáng tạo. Sức sáng tạo của các tổ chức đảng và quần chúng rất lớn. Nó làm cho
quyết tâm của Đảng trở thành hành động cách mạng, làm cho đường lối, chủ
trương cách mạng của Đảng trở thành thực tiễn, và do đó, tạo cơ sở cho việc bổ
sung, phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng của Đảng. Một đường lối cách
mạng đúng sẽ được quần chúng nhân dân ủng hộ và quyết tâm thực hiện.
Tổng kết những kinh nghiệm lịch sử Đảng
Khoa học lịch sử Đảng có nhiệm vụ góp phần tổng kết những kinh nghiệm
từ những thành công và không thành công của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của Đảng.
Liên quan đến đối tượng nghiên cứu, mục đích của khoa học lịch sử Đảng là làm
sáng tỏ toàn bộ quá trình hình thành, phát triển của tổ chức đảng và những hoạt
động toàn diện của Đảng; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; làm rõ những vấn đề có
tính quy luật của cách mạng Việt Nam; góp phần tổng kết những kinh nghiệm lịch
sử phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời giáo
dục niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường cách mạng Hồ Chí Minh.
9
3. Thực trạng, phương pháp giảng dạy môn Lịch sử Đảng ở các nhà
trường hiện nay.
Việc dạy học lịch sử ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng có từ lâu
và mang những nét riêng của mỗi thời đại giai cấp, chế độ xã hội tương ứng với
tình hình nhiệm vụ xã hội cụ thể. Việc giảng dạy lịch sử ở nhà trường Việt Nam
mang đầy những biến cố cùng với sự thăng trầm trong lịch sử dân tộc, lịch sử
Đảng. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, phương pháp dạy lịch sử trong nhà trường ở Việt
Nam có khác nhau, tuy nhiên mục đích dạy cuối cùng là giống nhau. Đó là: giáo
dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc, xây dựng lòng tin vào sự lãnh đạo của
Đảng lòng biết ơn kính trọng với các thế hệ đi trước… cho mọi thế hệ người Việt
Nam. Trong trang mở đầu của cuốn lịch sử Việt Nam đã được nhóm tác giả trân
trọng trích câu nói của Hồ Chủ tịch:“Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích
nước nhà Việt Nam” câu nói này không nằm ngoài ý nghĩa tốt đẹp đó, việc quan
tâm đến chất lượng giảng day môn Lịch sử Đảng ở nước ta hiện nay là một đường
lối đúng trong giáo dục nhằm phát triển nhân cách bao gồm các mặt: trí dục, đức
dục, thể dục, mĩ học… cho người học. Trên thực tế toàn Đảng, toàn dân ta đã rất
quan tâm đặc biệt đối với ngành giáo dục và đào tạo cụ thể: Giảng viên thường
xuyên được Bộ Giáo Dục Đào Tạo cung cấp tài liệu bồi dưỡng theo chu kì. Trong
hè được Bộ DDT tổ chức những lớp tập huấn cho giảng viên về hướng dẫn thực
hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng, hướng dẫn sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học lịch
sử
Đảng...Các
trường
thường
xuyên
tổ
chức
các
chuyên
đề chọn giáo viên dạy thực nghiệm để cùng nhau trao đổi rút kinh nghiệm .
người
học
đã
được
làm
quen
với
phương
pháp
học
tập
mới
và được quan tâm có đầy đủ về cơ sở vật chất đặc biệt là hệ thống giáo trình tài
liệu, ngoài ra các nhà trường còn tổ chức tốt cho học viên, sinh viên đi thực tế,
thăm quan các cơ sở cách mạng. Tuy nhiên, hiện nay, trái với những gì mà những
10
nhà giáo dục Việt Nam mong muốn đó là: Vị trí môn Lịch sử Đảng (lịch sử đường
lối) nói chung trong các nhà trường chưa thật sự được coi trọng, cả giảng viên và
sinh viên đều có sự nhìn nhận chưa đúng về môn Lịch sử Đảng (ngoại trừ một số ít
các học viện nhà trường có tính chất chuyên ngành). Thái độ học môn lịch Đảng
của các em sinh viên còn mang tính chất chống đối, thời lượng dành cho môn này
còn quá ít, nếu có học thì học một cách uể oải, mỏi mệt để đối phó với các kì thi,
kiểm tra. Ghi nhớ kiến thức, sự kiện lịch sử một cách máy móc, học vẹt, không
hiểu xâu xa bản chất vấn đề. Đây chính là một căn bệnh thường thấy ở người hoc
khi học môn này.
Vậy trước thực trạng trên, nguyên nhân tại đâu? Có thể nói rằng, có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Song cần phải kể đến một nguyên nhân rất
quan trọng đó là phương pháp giảng dạy chưa thật sát với nội dung yêu cầu của
nội dung:
Thời lượng chương trình học dành cho bộ môn là quá ít. Điều này rất dễ ảnh
hưởng đến tâm lý của người dạy cũng như người học là: co nhẹ nội dung, dễ quên
kiến thức, học ít, coi đây là môn phụ không quan tâm.
Trong giờ học, vai trò của người giảng viên giữ vai trò chủ đạo, vẫn học theo
lối cũ, có nghĩa là: Khi tiến hành bài học, giảng viên đọc cho người học chép đề
cương của bài giảng. Các sự kiện lịch sử, hiện tượng lịch sử, nhân vật lịch sử…
không được trình bầy một cách cụ thể, sinh động, gợi cảm. Người học không làm
việc trực tiếp với sư liệu. Người giảng viên không tận dụng được khả năng tạo ra
sự xúc động, sự rung cảm của người học trước các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Do
đó, tác dụng giáo dục bộ môn bị hạn chế. Người học còn bị thụ động trong quá
trình lĩnh hội kiến thức. Các phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học còn sơ sài việc
dạy trên lớp của giáo viên, chủ yếu là dạy chay, không có hình ảnh minh hoạ…
11
hoặc nếu có thì cũng rất ít, chủ yếu là các hình ảnh đã phổ biến. Do đó trong giờ
học thường diễn ra buồn tẻ, không sinh động, không tác động đến hứng thú học
tập của người học
*Tóm lai việc đổi mới phương pháp giảng dạy lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
là tất yếu vì:
Xuất phát từ thực tiễn khách quan, yêu cầu của giáo dục lý luận chính trị và
tâm lý của sinh viên hiện nay cho thấy còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Đối với
người học: số đông không hứng thú với những môn học lý luận chính trị; sử dụng
thời gian kém hiệu quả, thiếu tính chủ động khai thác tri thức nhân loại và thiếu cơ
hội để sáng tạo.
Đối với người dạy, trước đây nhiều giảng viên chủ yếu sử dụng phương pháp
thuyết giảng dạy theo kiểu độc thoại; Phương pháp này có nhiều ưu điểm đối với
các môn thuộc khoa học xã hội là: Dễ sử dụng, ít đòi hỏi các điều kiện khoa học
kỹ thuật phức tạp kèm theo, phân tích sâu sắc các khái niệm, phạm trù, quy luật,
giúp cho người học nắm bắt được bài giảng một cách nhanh chóng và sâu sắc. Tuy
nhiên, bản thân phương pháp thuyết giảng cũng có nhược điểm là làm cho người
học dễ thụ động, ít độc lập suy nghĩ, không biết cách vận dụng tri thức lý luận vào
thực tiễn. Chương trình ôm đồm; cách đánh giá còn thiên về thuộc bài, học vẹt.
Đặc biệt từ khi chuyển sang hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ, các học
phần Lý luận chính trị được tích hợp lại theo cơ cấu chương trình mới. Trong đó
học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam tín chỉ ít. Với khối
lượng nội dung giảng dạy rất lớn, thời gian giảng dạy hạn hẹp, bắt buộc đòi hỏi
giảng viên phải đổi mới phương pháp giảng dạy và phương pháp đánh giá phù hợp
thì mới mang lại hiệu quả cao, bảo đảm yêu cầu của chương trình.
12
Học theo tín chỉ đòi hỏi phải thay đổi căn bản và toàn diện. Đối với người
dạy: phải có kiến thức sâu rộng; có tâm huyết, nhiệt tình với nghề; phải cụ thể hóa
mục tiêu dạy học, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học,
cách đánh giá kết quả học tập và thông báo trước cho người học. Đối với người
học: cần phải tăng cường tính chủ động, tích cực; giảm đi sự phụ thuộc vào giảng
viên; cần có phương pháp phù hợp để việc tự học, tự nghiên cứu có hiệu quả; say
mê, sáng tạo trong quá trình học tập. Các điều kiện khác phục vụ cho quá trình đào
tạo đòi hỏi cũng phải thay đổi đồng bộ như: điều kiện ăn ở, học tập, thư viện, thực
hành, thí nghiệm... và các quan hệ bên trong nhà trường cũng phải được điều chỉnh
cho phù hợp đặc biệt là mối quan hệ giữa nhà giáo, người học và nà quản lý.
Cụ thể trên thực tế Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Quyết định số 52/2008 ngày
18/09/2008 cơ cấu lại đề cương chương trình giảng dạy các môn Lý luận chính trị
trong các trường Đại học, Cao đẳng và từ năm học 2009 đến nay, các trường Đại
học, Cao đẳng trong và ngoài quân đội đã chuyển sang hình thức đào tạo theo học
chế tín chỉ. Theo hình thức đào tạo này thì số tiết giảng dạy trên lớp giảm xuống
đáng kể, thời gian chuẩn bị nội dung giảng dạy của giáo viên và thời gian chuẩn bị
bài ở nhà của sinh viên tăng lên. Vì vậy cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy
các môn Lý luận chính trị nói chung, môn Lịch sử Đảng nó riêng cho phù hợp với
thực tiễn đặt ra và phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Đại
học hiện nay. Mục tiêu của học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam là giới thiệu, phân tích và lý giải để sinh viên nắm được đầy đủ quan
điểm, chủ trương, đường lối và quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng Dân tộc dân chủ, trong
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước
hiện nay.
13
Vì vậy, đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ tạo được động lực cho cả người
dạy và người học để đào tạo ra con người một cách toàn diện và tạo ra sự bình
đẳng giữa người dạy và người học vì khoa học luôn đòi hỏi phải tìm ra nhiều con
đường, biện pháp mới để áp dụng vào thực tiễn cho kết quả cao nên việc tìm ra
những con đường, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và giảng dạy bộ môn
này là hết sức quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian
sắp tới. Như vậy, nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn Lịch sử Đảng ở các nhà
trường qua việc đổi mới phương phương pháp giảng dạy là hết sức cần thiết.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
LỊCH SỬ ĐẢNG HIỆN NAY
1.Yêu cầu giảng dạy môn Lịch sử Đảng
Để đề ra được giải pháp đổi mới đúng đắn, hệu quả trước tiên đòi hỏi phải
nắm chắc phần nguyên tắc và vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn quá trình
giảng dạy để đề ra những giải pháp phù hợp.
Trước tiên phải nắm chắc về yêu cầu của việc giảng dạy môn Lịch sử Đảng:
Yêu cầu của việc giảng dạy lịch sử Đảng là trình bày khách quan, toàn diện và có
hệ thống các sự kiện cơ bản về lịch sử Đảng qua từng giai đoạn và thời kỳ cách
mạng trong sự vận động, phát triển và những mối liên hệ nội tại của nó. Trên cơ sở
đó so sánh với yêu cầu thực tiễn để phân tích, đánh giá các hoạt động của Đảng;
khẳng định những thắng lợi, thành tựu và những sai lầm, khuyết điểm trong quá
trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; khái quát được các sự kiện và biến cố
lịch sử, vạch ra bản chất, khuynh hướng chung và những quy luật khách quan chi
phối sự vận động của lịch sử. Yêu cầu quan trọng trong việc giảng dạy lịch sử
Đảng là phải căn cứ vào các nguồn sử liệu của Đảng, nhất là Văn kiện Đảng Toàn
14
tập và Hồ Chí Minh Toàn tập. Bởi vì "Với bộ Văn kiện Đảng Toàn tập, tất cả
những người cần nghiên cứu và sử dụng văn kiện Đảng đều có thể dễ dàng tìm
thấy những tài liệu chính thức và xác thực". "Việc xuất bản Văn kiện Đảng Toàn
tập nhằm cung cấp những tư liệu lịch sử xác thực, có hệ thống cho công tác nghiên
cứu lý luận, nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng". "Công bố các văn kiện Đảng
cũng là để cung cấp một nguồn tư liệu chứa đựng những thông tin chân thực,
chống lại những luận điệu xuyên tạc, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
hiểu rõ hơn hoạt động của Đảng và phong trào cách mạng của nhân dân, đồng thời
cũng giới thiệu với bạn bè quốc tế về lịch sử vẻ vang và những bài học kinh
nghiệm của Đảng ta". Giảng dạy và học tập môn lịch sử Đảng phải chú ý sử dụng
phương pháp tích hợp, sử dụng những kiến thức đã biết từ các môn học khác.
Phương pháp giảng dạy và học tập ở bậc đại học cần không ngừng phát huy tính
chủ đạo của giảng viên và tính chủ động của sinh viên. Điều đáng chú ý là sinh
viên có khả năng tự nghiên cứu theo sự hướng dẫn của giảng viên, có yêu cầu kiểm
tra tính đúng đắn của các thông tin và khả năng cung cấp cho nhau các tri thức
trong quá trình học tập. Trong sự nghiệp đổi mới, việc giảng dạy và học tập môn
Lịch sử Đảng cần đổi mới mạnh mẽ về phương pháp để đáp ứng yêu cầu đào tạo.
2. Nội dung đổi mới phương pháp giảng dạy Lịch sử Đảng
Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn lý luận nói chung, môn Lịch sử
Đảng nói riêng trong các nhà trường luôn được sự quan tâm, giúp đỡ của toàn
Đảng, toàn dân. Cuối tháng 2/1996, nhân kỉ niệm 15 năm ngày thành lập Viện lịch
sử quân sự các nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta đã căn dặn: “Muốn đổi mới
thì phải kế thừa di sản quý báu của quá khứ, lịch sử là người thầy vĩ đại đối với
mọi thế hệ trẻ, phải coi lịch sử là tài liệu giáo khoa số 1 trong nhà trường”. Nghị
quyết TW2 (Khoá VIII) đề ra nhiệm vụ: Coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã
hội và nhân văn, trong đó đặc biệt là môn Lịch sử và Lịch sử Đảng công sản Việt
15
Nam. Dưới ánh sáng của Đảng, và sự lãnh đạo của Bộ giáo dục về đổi mới phương
pháp giảng dạy nói chung và phương pháp sử học nói riêng đang từng bước tiến
hành đổi mới.
Tuy nhiên cần phải hiểu rõ như thế nào được gọi là đổi mới phương pháp
giảng dạy lịch sử và đổi mới như thế nào? Đã có nhiều ý kiến cho rằng đổi mới
phương pháp giảng dạy sử học là xoá bỏ hoàn toàn phương pháp cũ thay vào đó là
hoàn toàn phương pháp mới, và cho rằng phương pháp giảng dạy lịch sử truyền
thống là phương pháp lạc hậu, cần phải vứt bỏ. Đó là một suy nghĩ hoàn toàn sai
lầm. Chúng ta thay đổi phương pháp giảng dạy sử có nghĩa là trên cơ sở phương
pháp dạy cũ ta tiếp thu những cái tiến bộ, cái có ích ở phương pháp dạy học cũ ta
xây dựng một phương pháp mới tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát triển mới
trong giáo dục. Đổi mới phương pháp giảng dạy thực chất không phải là sự thay
thế các phương pháp giảng dạy cũ bằng một loạt các phương pháp giảng dạy mới.
Về mặt bản chất, đổi mới PPDH là đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi
mới các phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt
để ưu điểm của các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp
mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học. Như
vậy, mục đích cuối cùng của đổi mới phương pháp giảng dạy là làm thế nào để
người học phải thực sự tích cực, chủ động, tự giác, luôn trăn trở tìm tòi, suy nghĩ
và sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có được tri
thức ấy nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình.
Đơn cử như phương pháp thuyết trình, phân tích và giảng giải trong sử học
không thể bỏ bởi vì dạy học lịch sử nói chung, lịch sử Đảng nói riêng mà không
thuyết trình, phân tích, giảng giải minh hoạ chỉ nêu vấn đề cho người học tự tìm tòi
giải đáp hoặc thảo luận nhóm thì làm sao dựng được hình ảnh của quá khứ một
cách sống động, làm sao có thể giúp người học hiểu và biết được sâu sắc về lịch
16
sử. Với môn lịch sử nói chung ở bất kỳ cấp học nào, vẫn rất cần ghi nhớ, thuộc các
sự kiện cơ bản. Bởi không nhớ, không thuộc sự kiện thì làm sao có thể phát triển tư
duy được. Do đó, dù muốn hay không muốn giáo dục lịch sử vẫn phải dạy cho
người học ghi nhớ và thuộc các sự kiện lịch sử (tất nhiên không phải là ghi nhớ
máy móc, học thuộc lòng). Trên cơ sở đó phát triển tư duy, sự thông minh, sáng
tạo của người học để hiểu sâu sắc bản chất sự kiện, tránh quan điểm, cho rằng học
lịch sử không cần ghi nhớ, chỉ cần biết tư duy. Theo Phó tiến sĩ Nguyễn Hữu Chí viện Khoa học giáo dục (tạp chí Nghiên cứu giáo dục 3/1997 - trang 13) cho rằng:
“Điều cốt lõi của phương pháp dạy học lịch sử là cần tổ chức để người học làm
việc với sử liệu (dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau) một cách hứng thú,
tích cực, tự lập càng cao, càng tốt. Giảng viên dạy sử không chỉ là người cung cấp
thông tin, về quá khứ của xã hội loài người, mà chủ yếu là tổ chức, hướng dẫn,
điều khiển, giúp đỡ người học tiếp nhận và xử lý các thông tin đó. Chính người học
tự mình tạo ra cho mình những hình ảnh cụ thể về lịch sử và tự mình khám phá ra
bản chất, quy luật, xu hướng vận động… của các sự kiện, hiện tượng lịch sử tự
mình đánh giá chúng chứ không phải chủ yếu là ghi nhớ những điều nói trên từ sự
trình bầy của giảng viên”. Hoặc Những phương pháp giảng dạy thường được sử
dụng trước đây mà người ta vẫn gọi là phương pháp giảng dạy truyền thống,
phương pháp thuyết trình, phương pháp hỏi - đáp, vẫn đang được thực hiện trong
tất cả các giờ dạy của giảng viên hiện nay. Nhưng nếu các phương pháp này vẫn
được tiến hành theo cái cách mà ở những thập niên trước sử dụng thì chắc chắn nó
trở nên kém hiệu quả. Giảng viên nên tập trung vào việc tổ chức quá trình lĩnh hội
kiến thức. Phương pháp thuyết trình sẽ trở nên tích cực khi giảng viên thuyết trình
trong một lượng thời gian phù hợp và biết kết hợp một cách nhuần nhuyễn, hợp lí
và khoa học với các phương pháp khác để làm sao người học thích thú và hào hứng
hoạt động.
17
Những phương pháp có thể kết hợp với thuyết trình như: phương pháp minh
hoạ bằng sơ đồ biểu bảng hay hiện vật, phương pháp hỏi - đáp với các câu hỏi kích
thích được tư duy người học, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp tình huống,...
Tuy nhiên nếu những phương pháp giảng dạy này không được tiến hành theo đúng
ý nghĩa và chức năng của nó thì chúng cũng không được gọi là phương pháp giảng
dạy tích cực.
Như vậy, đổi mới phương pháp giảng dạy không phải là sự thay thế các
phương pháp quen thuộc hiện có bằng những phương pháp mới lạ. Thực chất
chúng ta phải hiểu lại cho đúng cách làm, cách tiến hành các phương pháp giảng
dạy, và cách linh hoạt sáng tạo trong sử dụng nó ở những hoàn cảnh và tình huống
khác nhau để những phương pháp giảng dạy có tác động tích cực đến người học.
Ngoài ra, cùng với sự phát triển của phương tiện dạy học, một số phương pháp
giảng dạy hiện đại cần được bổ sung vào phương pháp giảng dạy của giảng viên.
Với tất cả những điều đã trình bày ở trên tôi xin mạnh dạn đề xuất những ý kiến về
đổi mới phương pháp giảng dạy Lịch sử Đảng hiện nay theo hướng phát huy tính
tích cực, lấy hoạt động của người học làm trung tâm:
Một là: Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy cao độ tính
tích cực chủ động sáng tạo của người học trong quá trình lĩnh hội tri thức
Tính tích cực chủ động và sáng tạo là gì? Tính tích cực là một đặc điểm vốn
có của con người. Con người không chỉ là khách thể mà còn là chủ thể của các
quan hệ xã hội, thể hiện ở chỗ tích cực tiếp thu có chọn lọc tất cả những tác động
bên ngoài để sáng tạo và xây dựng nhân cách riêng của mình. Nguồn gốc của tính
tích cực là nhu cầu. Con người sinh ra cùng với một loạt nhu cầu bẩm sinh khác
nhau, thí dụ nhu cầu ăn, uống... và sau đó xuất hiện nhu cầu xã hội... Những nhu
18
cầu này không bao giờ cạn và luôn trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt
động. Khi nhu cầu nhận thức xuất hiện thì nó sẽ thúc đẩy hoạt động học tập.
Lí luận dạy học cũng chỉ ra rằng, muốn xây dựng động lực của quá trình dạy
học có hai điều quan trọng cần phải lưu ý: Phải biến yêu cầu của chương trình dạy
học thành nhu cầu nhận thức của người học bằng cách tạo dựng các tình huống
nhận thức, đưa người học tới đỉnh điểm của những mâu thuẫn chứa đựng những
khó khăn vừa sức đối với người học. Phải giáo dục tính tích cực, tự giác học tập và
tạo điều kiện cho những cố gắng vươn tới của người học bằng khả năng của mình.
Trong quá trình lĩnh hội kiến thức, kĩ năng kĩ xảo ở ngườ học, tính tích cực
được thể hiện từ cấp độ thấp nhất đến cấp độ cao nhất như sau: Bắt chước: tính tích
cực thể hiện ở sự cố gắng làm theo mẫu hành động, thao tác, cử chỉ hành vi hay
nhắc lại những gì trải qua. Tìm hiểu và khám phá : tính tích cực thể hiện ở sự chủ
động hoặc ý muốn hiểu thấu đáo vấn đề nào đó để sau đó có thể tự giải quyết vấn
đề.
Sáng tạo : tính tích cực thể hiện ở khả năng linh hoạt và hiệu quả trong giải quyết
vấn đề.
Trong quá trình giảng dạy, giảng viên là chủ thể tổ chức, điều khiển và
người học là chủ thể hoạt động học tích cực chủ động và sáng tạo. Giảng viên phải
cải tiến không ngừng phương pháp giảng dạy và giúp người học cải tiến phương
pháp học.
Những tri thức đã học sẽ tạo ra một trình độ ở người học, giảng viên phải
dựa vào trình độ này để hướng dẫn người học nâng cao lên một trình độ mới.
Từ cơ sở đó trong quá trình giảng dạy cần phải hướng dẫn, xác định rõ động
cơ học kiến thức Lịch sử Đảng cho sinh viên. Bước rất quan trọng của công việc tổ
19
chức lớp nói chung và của công việc giảng dạy lịch sử Đảng nói riêng đó là làm
thế nào để khêu gợi được hứng thú của học sinh đối với việc học tập làm rõ mục
đích học tập. Hoạt động học tập dần dần phải được các em xem như là để thoả mãn
nhu cầu nhận thức. Để các em có động cơ, thái độ học tập đúng đắn thì tài liệu học
tập phải có nội dung khoa học súc tích, phải được định hướng rõ rệt, phải gắn với
thực tiễn cuộc sống. Giáo viên phải biết gợi mở, khêu gợi nhu cầu tìm hiểu của học
sinh, phải giúp các em có phương pháp học tập phù hợp để tránh bị thất bại.
Hai là: Phải hướng dẫn người học một số phương pháp ghi nhớ sự kiện
Quá trình học tập:
Là quá trình tích luỹ kiến thức. Ở các cấp học trước, những kiến thức cơ bản
của một số môn học có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt quá trình dạy
học.
Thứ 1: Ghi nhớ thời gian xảy ra sự kiện lịch sử. Mỗi bài, mỗi chương, mỗi
khoá trình đều có những sự kiện gắn với thời gian nhất định. Cần dạy các em có
khả năng ghi nhớ một cách logic, biết tìm ra điểm tựa để nhớ, lập dàn ý , lập bảng
hệ thống hoá.
Thứ 2: Phải hướng dẫn các em học sinh ghi nhớ các nhân vật lịch sử. Thông
thường trong giảng dạy lịch sử, mỗi sự kiện đều gắn liền với những nhân vật nhất
định. Giảng viên cần nhắc trong các sự kiện đều gắn liền với những nhân vật nào.
Giảng viên cần làm nổi bật những nhân vật nào, nhằm đạt yêu cầu giai đoạn nào?
Để học sinh ghi nhớ các nhân vật lịch sử, thông thường có hai cách: Lấy người để
nói việc hoặc lấy việc để nói người.
Ba là: Sử dụng giáo trình SGK nhằm phát triển tư duy người học. Giáo
trình SGK để chuẩn bị bài giảng:
20
Trước khi soạn giáo án, cần nghiên cứu nội dung bài trong giáo trình xác
định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung tinh thần mà tác giả mong muốn ở
người học về từng mặt kiến thức, tư tưởng, kỹ năng. Khi đã có cái nhìn toàn cục
khái quát, cần đi sâu từng mục nhằm tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, sự khái
quát cần đi sâu từng mục nhằm tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, sự khái quát
của kiến thức đó đối với kiến thức cơ bản của toàn bài. Mỗi bài có từ 2 đến 3 đề
mục nhỏ, có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Song không nên dàn đều về mặt thời
gian cũng như khối lượng kiến thức của từng phần mà xác định phần nào lướt qua,
phần nào trọng tâm. Mỗi bài cần phải xác định rõ phần đóng góp cụ thể về mặt nội
dung, tư tưởng, kỹ năng, kỹ xảo, tức là ở cuối bài giáo viên phải xác định rõ cần
củng cố kiến thức gì? giáo dục tư tưởng, tình cảm gì? kĩ năng nào cần rèn luyện
cho người học?
Sử dụng giáo trình SGK trong quá trình dạy học trên lớp. Bài giảng của
giảng viên không nên lặp lại ngôn ngữ trong SGK mà diễn đạt lại bằng lời của
mình để tránh tình trạng người học không theo dõi bài giảng của giảng viên mà
ngồi chép lại SGK. Cho ác em nghiên cứu giáo trình GSK, rồi tự viết thu hoạch
hoặc trao đổi thảo luận từ đó rèn luyện cho sinh viên từng bước để ngôn ngữ sử
học của họ phát triển.
Hướng dẫn người học sử dụng giáo trình, SGK khi học ở nhà. Vở ghi ở trên
lớp và sách giáo khoa là phương tiện, là nguồn kiến thức chủ yếu để sinh viên tự
học ở nhà. Khi hướng dẫn các em học ở nhà theo giáo trình, GSK nên hướng dẫn
có trọng điểm. Khi được giao những công việc cụ thể, các em sẽ phải hoàn thành
và phải học tập một cách độc lập, sáng tạo.
Bốn là: Phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực
cho người học trong dạy học lịch sử Đảng
21
Sử dụng câu hỏi trong dạy học nói chung và trong giờ học lịch sử Đảng nói
riêng là một trong những biện pháp quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy
người học. Khi đưa ra câu hỏi cho người học trả lời, thì cần: Câu hỏi và bài tập
phải vừa sức, đúng với từng đối tượng. Không nên đặt câu hỏi quá khó, vượt khả
năng tư duy của người học như: “Đánh giá, nhận xét, phân tích”… nhưng cũng
không quá đơn giản. Cần nên tránh tình trạng giảng viên chưa giảng, chưa trình
bầy sự việc, hiện tượng lịch sử mà đã đặt câu hỏi cho người học. Cách đặt câu hỏi
như vậy trái với đặc trưng của bộ môn, buộc người học phải nhìn vào giáo trình để
trả lời chứ hoàn toàn không hiểu gì về câu hỏi mà giảng viên vừa nêu ra.
Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng 5 - 7 câu hỏi. Sau mỗi chương cần có câu hỏi
bài tập, các câu hỏi của bài phải tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, có mối quan
hệ chặt chẽ, lôgic, làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của bài.
Triệt để khai thác các loại câu hỏi trong giáo trình để lựa chọn nội dung,
phương pháp thích hợp cho từng bài cụ thể. Sử dụng câu hỏi trong giáo trình kết
hợp với câu hỏi được sáng tạo trong quá trình soạn giáo án của giảng viên. Phải
đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng, đồng thời phát huy được tư duy, rèn luyện
các kỹ năng học tập của người học.
Năm là: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử để
phát triển tư duy người học.
Đồ dung trực quan nếu được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của
nhiều giảng viên, sẽ kết hợp chặt chẽ được hai hệ thống tín hiệu với nhau: nghe,
nhìn. Tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được những mối liên hệ
thần kinh tạm thời khá phong phú, phát triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát,
hứng thú. Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử có nhiều loại, mỗi loại lại có
cách sử dụng riêng: sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong giáo trình SGK, sử dụng chân
22
dung nhân vật lịch sử trong SGK, sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử nhằm phát
triển tư duy người học.
Sáu là: Tổ chức các cuộc thảo luận
Tăng cường các cuộc thảo luận dưới nhiều hình thức khác nhau, tạo điều
kiện cho người học độc lập giải quyết các vấn đề học tập, được tự do trình bày ý
kiến của mình đối với vấn đề đó. Từ đó người học lĩnh hội được nội dung mới theo
tinh thần tự khám phá, tự phát hiện. Tăng cường tổ chức các cuộc thảo luận bên
cạnh đó còn làm tăng tinh thần đoàn kết tập thể cho các em.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản theo hướng phát huy tính tích cực của
người học nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy đối với các môn lý luận
nói chung và đặc biệt là đối với môn Lịch sử Đảng nói riêng trong giai đoạn hiện
nay.
KẾT LUẬN
Việc học tập đối với người học muốn có kết quả cao thì trước tiên phải có
phương pháp học phù hợp. Mỗi phương pháp đều có những ưu và nhược điểm
nhất định, do đó buộc chúng ta phải lựa chọn, phải trải nghiệm và tự đánh giá
hiệu quả của các phương pháp. Phương pháp hiện đại, tích cực và mang nhiều ưu
điểm vượt trội, là cần thiết và là chìa khóa của sự thành công đối với việc thực
hiện đổi mới phương pháp giảng dạy và đánh giá quá trình học tập sinh viên của
các trường.
Trong quá trình phát triển của ngành giáo dục và đào tạo trên cả nước chúng
ta đã thấy được vai trò tầm quan trọng và ảnh hưởng chi phối của việc đổi mới
phương pháp giảng dạy của giảng viên đối với quá trình hoạt động đào tạo nên cần
phải có sự chỉ đạo đồng bộ bằng nhiều biện pháp ở mọi cấp để không ngừng nâng
23
cao chất lượng giáo dục đào tạo. Việc đổi mới hình thức, phương pháp giảng dạy,
các môn lý luận nói chung, môn Lịch sử Đảng nói riêng theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người dạy đối với người học lấy hoạt động của
người học làm trung tâm có ý nghĩa hết sức quan trọng đến chất lượng giáo dục,
đào tạo nên cần được mọi cấp, mọi ngành và toàn xã hội quan tâm đặc biệt đối với
môn lịch sử Đảng trong giai đoạn hiện nay vì: Nghiên cứu, học tập, nắm vững tri
thức khoa học về lịch sử Đảng có ý nghĩa rất to lớn trong việc giáo dục phẩm chất
chính trị, lòng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và dân tộc Việt Nam, tính kiên định cách mạng trước tình hình chính trị quốc tế có
những diễn biến phức tạp và trong việc giáo dục đạo đức cách mạng, mà Hồ Chí
Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam là một mẫu mực
tuyệt vời. Việc nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng cũng có ý nghĩa to lớn trong việc
giáo dục về truyền thống cách mạng, về chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc
chân chính, về lòng tự hào đối với Đảng và đối với dân tộc Việt Nam; đồng thời
còn có tác dụng bồi dưỡng ý chí chiến đấu cách mạng, thôi thúc ở người học ý
thức biết noi gương những người đã đi trước, tiếp tục cuộc chiến đấu dũng cảm
ngoan cường, thông minh, sáng tạo để bảo vệ và phát triển những thành quả cách
mạng mà Đảng và nhân dân ta đã tốn biết bao xương máu để giành được, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Hảo (2011), Những vấn đề về học tập của sinh viên, Phòng
ĐBCL&KT – Trường ĐH Nha Trang
2. Đặng Vũ Hoạt – Hà Thị Đức (2004), Lý luận dạy học đại học, NXB đại
học sư phạm.
3. Trường Đại học Nha Trang, Kỷ yếu hội nghị: Triển khai thực hiện chỉ thị
số 296/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và chương trình hành động của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về đổ mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012. Ngày
7/5/2010.
4. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2006.
5. Tập thể tác giả, Nguyễn Ngọc Quang, Nhà sư phạm - Người góp phần đổi
mới lý luận dạy học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998
6. Nguyễn Kỳ (chủ biên), Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm
trung tâm, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội, 1995.
7. Phương pháp học tập cộng tác: làm việc theo nhóm nhỏ,
8.Tạp chí khoa học Giáo dục, số 89, 90,91,92, tháng 5/2013. Viên Khoa học
Giáo dục Việt Nam.
9. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Ban tuyên giáo Trung ương. NQHN lần thứ 8 BCH Trung ương Đảng
Cộng Sản Việt Nam khóa XI. NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội. 2014.
25