NGUYÊM TắC TậP TRUNG DÂN CHủ trong công cuộc đổi mới của đảng
--- --Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản hàng đầu, bảo đảm quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngay sau khi ra đời ngày 3 tháng 2 năm 1930,
Đảng ta đã có một đường lối đúng đắn, sáng tạo. Trên cơ sở, nắm vững bản chất
cách mạng, khoa học của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam
để để đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, sáng tạo đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi ngay cả trong cuộc cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và trong cả cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt,
qua hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhân
dân ta đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử: “Đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng
trưởng khá nhanh. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển
vọng tốt đẹp hơn”1
Đạt được những thành tựu to lớn trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác
nhau. Song nguyên nhân cơ bản quan trọng hàng đầu là do Đảng ta có một đường
lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, thể hiện rõ quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Đảng trong hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ giai đoạn
cách mạng. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất là Đảng ta luôn trung thành tuyệt
đối với những nguyên lý cơ bản về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng sáng
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H,2006, tr68.
2
tạo những nguyên lý đó vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam để
xây dựng Đảng ta vững mạnh về mọi mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm
cho Đảng luôn đáp ứng tốt yêu cầu thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua từng
thời kỳ và giai đoạn lịch sử cụ thể.
Trong các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng Đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng ta đặc biệt coi trọng hàng đầu đến việc thực
hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ. Xác định rõ đây là nguyên tắc tổ
chức cơ bản của Đảng, chỉ đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt, và hoạt động của
Đảng, qua các thời kỳ cách mạng. Cùng với mặt chính trị và tư tưởng, nguyên tắc
này nó bảo đảm tăng cường sự đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động trong
toàn Đảng, làm cho Đảng trở thành một đội ngũ có tổ chức có kỷ luật chặt chẽ
nghiêm minh, có sức chiến đấu cao, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
trí tuệ của các tổ chức Đảng và mọi đảng viên trong toàn Đảng. Do vậy, nghiên
cứu nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc tổ chức của Đảng qua các
thời kỳ cách mạng. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay vừa có ý
nghĩa giá trị về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với công tác xây dựng Đảng
hiện nay. Đồng thời qua đó thấy rõ vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với cách mạng nước ta - nhân tố cơ bản hàng đầu bảo đảm quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam từ trước tới nay và mãi mãi về sau. Từ đó tin tưởng
phấn đấu vì mục tiêu cao cả của Đảng trong tình hình hiện nay.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc xây dựng tổ chức
sinh hoạt và hoạt động của Đảng Cộng sản, là một nội dung quan trọng hàng đầu trong
nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; là một tiêu chí để phân biệt
chính Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng cách mạng chân chính với các Đảng
khác. Đó là cơ sở bảo đảm cho Đảng Cộng sản tạo thành một khối thống nhất về ý chí và
hành động; tạo lên sức mạnh vô địch của Đảng cách mạng chân chính mác xít. Sự ra đời
của nguyên tắc tập trung dân chủ là một tất yếu khách quan trong xây dựng, tổ chức và
sinh hoạt Đảng của giai cấp công nhân thế giới nói chung và của giai cấp công nhân Việt
Nam nói riêng. Những tiền đề lý luận và thực tiễn luôn chứng minh tính tất yếu khách
3
quan đối với Đảng Cộng sản phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc này. Có như vậy
Đảng Cộng sản mới đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Nguyên tắc tập trung dân chủ do C.Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu phát triển thành
tư tưởng lý luận trong nguyên lý xây dựng đảng của giai cấp vô sản, đặt cơ sở nền móng
đầu tiên cho việc xây dựng một Đảng mác xít chân chính. Đồng thời, tư tưởng đó đã
được V.I.Lênin kế thừa và phát triển trong điều kiện mới trở thành một trong những nội
dung quan trọng trong nguyên những lý cơ bản về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng sáng tạo nguyên
lý đó vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng ta trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng;
bảo đảm cho Đảng ta luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngày càng đáp
ứng tốt yêu cầu lãnh đạo cách mạng của Đảng qua từng thời kỳ lịch sử cách mạng nước
ta.
Nguyên tắc tập trung dân chủ ra đời là đòi hỏi khách quan đối với một Đảng mác
xít chân chính trong lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới. Chúng ta biết rằng,
Đảng Cộng sản là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, là tổ chức chính trị cao nhất
của giai cấp công nhân - là giai cấp do địa vị kinh tế- chính trị trong nền sản xuất vật chất
xã hội. Từ khi ra đời và trong suốt quá trình hoạt động xã hội, giai cấp công nhân luôn
gắn liền với nền sản xuất công nghiệp. Chính yêu cầu đòi hỏi cao của nền sản xuất công
nghiệp đã từng bước tôi luyện cho giai cấp công nhân có những thuộc tính cơ bản: như
tính tập trung chuyên môn hoá cao, ý thức tổ chức kỷ luật chặt chẽ nghiêm minh, có
trình độ tổ chức trong trong nền sản xuất xã hội. Cũng chính từ môi trường đó, đã nảy
sinh ra tư tưởng đoàn kết, hợp tác, dân chủ, tập thể, tương trợ lẫn nhau để cùng sản xuất
ra một sản phẩm vật chất xã hội, cùng chung sức, chung lòng đấu tranh đòi quyền lợi và
lợi ích chính đáng của mình đối với giai cấp tư sản. Hơn nữa, trong cuộc đấu tranh giai
cấp để tự giải phóng mình, giai cấp vô sản phải đương đầu với một kẻ thù là giai cấp tư
sản có tổ chức, có bộ máy Nhà nước, có sự liên minh quốc tế rộng lớn... Do vậy, muốn
chiến thắng được giai tư sản, giai cấp vô sản phải được tổ chức lại, phải có sự đoàn kết
4
thống nhất cao trong cuộc cách mạng đó và đây cũng chính là tiền đề của việc hình thành
nên nguyên tắc rập trung dân chủ trong Đảng của giai cấp vô sản. Mặt khác, từ yêu cầu
khách quan của nền sản xuất công nghiệp và đấu tranh giai cấp, tính tập trung và tính dân
chủ trong giai cấp công nhân được hình thành và phát triển không ngừng. Chính vì vậy,
Đảng của giai cấp vô sản phải là người tiêu biểu cho sự đoàn kết thống nhất về ý chí và
hành động, và thực hiện nghiêm ngặt nguyên tác tập trung dân chủ và là yêu cầu khách
quan đối với Đảng của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng vô sản.
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học và Đảng của giai cấp vô sản
ngay từ đầu và trong suốt cả quá trình tổ chức, xây dựng và hoạt động của mình đã
luôn luôn thấm nhuần sâu sắc và thực hiện triệt để về vấn đề nguyên tắc tập trung
dân chủ, kiên quyết đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng cơ hội, xét lại
về mặt tổ chức. Đặc biệt, là những người sáng lập ra Đảng Cộng sản đầu tiên trong
lịch sử nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên những tư tưởng cơ bản về tổ
chức và hoạt động của Đảng Cộng sản. Hai ông đã đưa ra tư tưởng về xây dựng
một Đảng vô sản, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ vào Điều lệ của Liên
đoàn những người cộng sản (năm 1847), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm
1848), và các văn kiện của Hội liên hiệp công nhân quốc tế (năm 1864). Đó là,
Đảng Cộng sản phải là một tổ chức độc lập mang bản chất giai cấp công nhân rõ
rệt “Đảng công nhân phải hành động sao cho thật có tổ chức, thật thống nhất, thật
độc lập nhất, nếu như nó không muốn… lại bị giai cấp tư sản lợi dụng và phải bám
đuôi nó mà lê đi”2 . C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ: “ Mỗi hội viên của Liên
đoàn phải liên lạc ít nhất là ba tháng một lần, còn mỗi chi bộ phải liên lạc mỗi
tháng một lần với Ban Chấp hành khu bộ của mình; ít nhất cứ hai tháng một lần
mỗi khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của đại phương mình với tổng khu bộ,
ít nhất ba tháng một lần mỗi tổng khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của địa
phương mình với Ban Chấp hành Trung ương” 3 Mặt khác, Đảng phải được xây
dựng trên những nguyên tắc dân chủ triệt để. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng được
bầu ra đều có thể bị thay thế hoặc bãi miễn; mọi đảng viên đều bình đẳng, được tự
do thảo luận những vấn đề sinh hoạt đảng, được tranh luận trong khuôn khổ tính
2
3
C.Mác- Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập1, Nxb ST H, 1970, tr493.
5
đảng, các đảng viên phải giúp đỡ lẫn nhau, thường xuyên nộp đảng phí, người vi
phạm Điều lệ Đảng sẽ bị khai trừ hoặc đình chỉ sinh hoạt đảng; kiên quyết chống
những phần tử vô tổ chức, những phần tử cơ hội, xét lại...
Từ những tư tưởng cơ bản của C.Mác và Ph. Ăngghen về nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng có ý nghĩa rất quan trọng tạo ra những điều kiện tiền đề
lý luận để V.I.Lênin kế thừa và phát triển và làm sâu sắc thêm tư tưởng về tập
trung dân chủ trong điều kiện mới. Nâng tư tưởng tập trung dân chủ lên thành
nguyên tắc trong xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân về mặt tổ chức.
V.I.Lênin cho rằng: Đảng phải được tổ chức theo chế độ tập trung dân chủ, chế độ
tập trung dân chủ là nền tảng tổ chức của một Đảng vô sản kiểu mới. Thực hiện
chế độ tập trung dân chủ trong Đảng sẽ làm cho Đảng thống nhất về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; củng cố và tăng cường sức mạnh của Đảng, làm cho đường lối
của Đảng được thực hiện một cách có hiệu lực. Mặt khác, thực hiện tốt chế độ tập
trung dân chủ sẽ góp phần ngăn ngừa sự phá hoại của các phần tử không kiên định,
vô chính phủ, cơ hội chủ nghĩa trong Đảng. Trong tác phẩm “ Một bước tiến hai
bước lùi”, V.I.Lênin chỉ rõ: “Trước kia Đảng ta chưa phải là một khối chính thức
có tổ chức, mà chỉ là một tổng số những nhóm riêng biệt và do đó giữa các nhóm
ấy không thể có những quan hệ nào khác, ngoài sự tác động về mặt tư tưởng. Hiện
nay chúng ta đã trở thành một Đảng có tổ chức, điều đó có nghĩa là chúng ta đã tạo
ra một quyền lực, khiến cấp dưới phải phục tùng cấp trên của Đảng” 4. Đồng thời
V.I.Lênin cho rằng: Đảng muốn có sức mạnh để lãnh đạo giai cấp vô sản và quần
chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, Đảng phải có sự thống
nhất về ý chí và hành động. Điều kiện cho sự thống nhất của Đảng, trước hết Đảng
phải có Cương lĩnh chính trị và sau đó phải có tổ chức chặt chẽ. Làm được điều đó
tức là tránh được tình trạng chia rẽ, phân tán ở trong Đảng. Tổ chức là cái bảo
đảm cho sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và hành động. Ngoài ra Đảng phải có
một điều lệ thống nhất, một cơ quan chỉ đạo thống nhất do Đại hội Đảng bầu ra,
Đảng phải có kỷ luật sắt, tự giác nhưng nghiêm minh. V.I.Lênin khẳng định “Từ
4
V. I. Lênin, toàn tập, Tập 8, Nxb tiến bộ Mát xcơva, 1979, tr. 429.
6
chối không chịu phục tùng sự lãnh đạo của các cơ quan Trung ương, tức là từ chối
không muốn làm người Đảng viên, tức là phá hoại Đảng”5.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong công tác xây dựng
Đảng, nhưng thực hiện nguyên tắc đó như thế nào cho đúng là một vấn đề không
đơn giản, nó hoàn toàn phụ thuộc vào chủ thể nhận thức. Nếu chủ thể nhận thức có
bản lĩnh chính trị và một động cơ trong sáng thì nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ
phát huy tác dụng tốt và ngược lại, nếu như chủ thể nhận thức không có bản lĩnh
chính trị và động cơ trong sáng thì nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ phản tác dụng
gây nguy hại cho Đảng và cho cách mạng. Theo V.I.Lênin: tập trung đi liền với
dân chủ. Tập trung càng cao thì dân chủ càng cao. Không thể có dân chủ mà thiếu
tập trung và ngược lại không thể có tập trung mà thiếu dân chủ, đó là mối quan hệ
biên chứng của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thực tế thuật ngữ ( tập trung dân chủ ) được nêu lên lần đầu tiên với tư cách
là một nguyên tắc chính thức - nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Đảng Cộng
sản - tại Hội nghị Tammécpho của những người Bôn sê vích năm 1905. Nghị
quyết của Hội nghị nêu rõ: thừa nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên
tắc không thể tranh cãi được. Theo V.I.Lênin: “Các đảng gia nhập Quốc tế Cộng
sản phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong thời kỳ nội chiến
gay gắt hiện nay, Đảng Cộng sản chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình nếu
Đảng được tổ chức một cách tập trung nhất, nếu trong Đảng có một kỷ luật sắt gần
giống như kỷ luật quân sự và nếu trung Trung ương Đảng là một cơ quan có uy tín
mạnh mẽ, có quyền lực rộng rãi được toàn thể đảng viên tin cậy”6. V.I. Lênin đã
kịch liệt phê phán quan điểm của bọn cơ hội chủ nghĩa, chủ trương tổ chức một
đảng không có hình thù rõ rệt, không đòi hỏi đảng viên phải tham gia hoạt động
trong một tổ chức đảng, không cần có nguyên tắc tập trung dân chủ ngay từ Đại
hội II Đảng công nhân dân chủ- xã hội Nga (1903).
Trong cuộc đấu tranh về mặt tổ chức của Đảng xoay quanh tiết 1 của Điều lệ
Đảng, V.I.Lênin đã coi công thức của Mác tốp là một công thức vô dụng, mang nội
dung tư tưởng cơ hội chủ nghĩa về mặt tổ chức. Người nhấn mạnh: “ Giai cấp vô
5
6
Sđ d, tr. 424.
V. I. Lênin, toàn tập,Tập 41, Nxb tiến bộ Mát xcơva, 1977, tr. 34.
7
sản có thể thực hiện một cách đúng đắn vai trò tổ chức của nó (và đó là vai trò
chính của nó) một cách có kết quả và thắng lợi thì chính đảng của giai cấp vô sản
phải thực hiện được trong nội bộ của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ và một
kỷ luật nghiêm ngặt... Kẻ nào làm yếu dù chỉ là một chút ít - kỷ luật sắt trong đảng
của giai cấp vô sản... là thực tế giúp cho giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản” 7.
V.I.Lênin cho rằng, kẻ nào từ chối không chịu phục tùng kỷ luật Đảng, làm yếu kỷ
luật Đảng “ Tức là từ chối không muốn làm đảng viên, tức là phá hoại đảng”8.
Nguyên tắc tập trung dân chủ theo V.I.Lênin là nguyên tắc cơ bản cốt lõi
trong những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Nguyên
tắc này quy định cơ cấu tổ chức, chế độ sinh hoạt, chế độ giải quyết các mối quan
hệ nội bộ, phương pháp, tác phong lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân
chủ bảo đảm cho Đảng thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thống nhất về ý
chí và hành động; sự thống nhất về chính trị, tư tưởng chỉ có thể vững chắc và trở
thành sức mạnh hiện thực khi được bảo đảm bằng sự thống nhất về mặt tổ chức
thông qua nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm
cho sự lãnh đạo của Đảng thông suốt, nhất quán từ trên suống, là cơ sở để xây
dựng, củng cố sự đoàn kết trong Đảng, làm cho Đảng luôn luôn là một chỉnh thể
thống nhất được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh, đồng thời khắc phục
tình trạng phân tán, cục bộ, bè phái, vô tổ chức vô kỷ luật.
Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí
Minh không chỉ trung thành tuyệt đối nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân mà còn quán triệt và thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung
dân chủ trong công tác xây dựng và củng cố Đảng ta . Đặc biệt, bổ sung và làm
sáng tỏ bản chất của “Tập trung, dân chủ” và mối quan hệ giữa chúng trong tổ
chức, xây dựng và sinh hoạt Đảng. Theo Hồ Chí Minh “ Tập trung” không hề mâu
thuẫn với “ Dân chủ” mà nó thống nhất, tác động qua lại với nhau “ Tập trung trên
nên tảng dân chủ…..Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung” 9 Có dân chủ trong Đảng
mới có dân chủ trong xã hội. Song dân chủ không có nghĩa là vô chính phủ. Người
V. I. Lênin, toàn tập, Tập 41,Nxb tiến bộ Mát xcơva, 1977, tr. 34.
V. I. Lênin, toàn tập, Tập 8, Nxb tiến bộ Mát xcơva, 1977, tr 424.
9
Hồ Chí Minh, toàn tập,Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 240-241.
7
8
8
viết: “ Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào?
Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân
lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã
phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự
do phục tùng chân lý”10.
Trong khi chỉ đạo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng yếu tố tập trung, kỷ luật thống nhất; đồng thời nhấn
mạnh phát triển dân chủ nội bộ Đảng. Người cho rằng bản chất của chế độ ta là
dân chủ “ Dân chủ là cái quí nhất của nhân dân” do đó cũng là cái quí nhất của mỗi
đảng viên. Nếu thực hành dân chủ nội bộ tốt sẽ làm cho Đảng phát huy, phát triển
và tập trung được trí tuệ, tạo nên bầu không khí cởi mở, tin tưởng lẫn nhau, làm
cho Đảng thoát khỏi tình trạng “ Âm u” thiếu đoàn kết - một nhân tố làm suy yếu
sức mạnh của Đảng. Mở rộng dân chủ còn chống được tệ độc đoán, chuyên quyền
trong Đảng. Có thể khẳng định rõ Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân của
dân chủ và gương mẫu thực hành dân chủ. Dân chủ đã thành nếp hằn sâu trong tư
chất, phong cách và đời thường của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những vấn đề về “Tập
trung”, “ Dân chủ” đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong xây dựng, sinh hoạt và
hoạt động của Đảng ta. Nhờ thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc này mà Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động, Bảo đảm cho Đảng
ta luôn trong sạch vững mạnh.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức cơ bản, là một trong những điều kiện cơ bản tạo nên sức mạnh
vô địch của Đảng; đồng thời kiên trì và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này. Nhờ
đó, trong suốt quá trình xây dựng và hoạt động của Đảng, dù trong điều kiện hoạt
động bí mật hay hoạt động công khai, khi chưa có chính quyền cũng như khi có
chính quyền, trong điều kiện chiến tranh cũng như trong hoà bình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng luôn là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí
và hành động, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nước ta đI từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác.
10
Hồ Chí Minh, toàn tập,Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1996, tr 126
9
Thực tiễn gần 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng
định rõ tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ, kiên trì và thức hiện
nghiêm ngặt nguyên tắc này trong từng giai đoạn cách mạng, ngay cả trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cả cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt,
bước vào công cuộc đổi mới đất nước trước những diễn biến phức tạp của tình
hình thế giới và trong nước nhất là sự khủng hoảng trầm trọng của các nước xã hội
chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Do quá trình cải tổ đã phạm phải những sai lầm
nghiêm trọng, xa dời nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tự do hoá dân chủ trong
Đảng đã dẫn tới sự sụp đổ nhanh chóng vào những năm 1990 -1991. Song điều đó
đã để lại cho Đảng ta những bài học sâu sắc trong việc thực hiện nghiêm ngặt
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, để đưa sự nghiệp đổi mới do Đảng ta
khởi xướng tiên lên giành được những thắng lợi to lớn góp phần xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cũng từ thực tiễn quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo cách mạng Đảng ta rút ra bài học là: nếu trong nhiệm vụ, lĩnh vực
hoạt động của Đảng, nếu cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ đảng viên nào không thực
hiện hoặc thực hiện sai nguyên tắc tập trung dân chủ thì ở đó sẽ nảy sinh hiện
tượng vô tổ chức, vô kỷ luật, chia rẽ, bè phái , mất đoàn kết, làm giảm sút nghiêm
trọng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta là Đảng cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tình hình nhiệm vụ của cách mạng phát triển nhanh chóng, phức tạp,
khác với thời kỳ Đảng lãnh đạo chiến tranh giải phóng Tổ quốc. Nguyên tắc tập
trung dân chủ cần được nhận thức đúng đắn đầy đủ và vận dụng phù hợp với đặc
điểm tổ chức, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
Tình hình nhiệm vụ càng nặng nề, phức tạp, đặt ra yêu cầu càng cao đối với năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, càng đòi hỏi Đảng phải giữ vững và thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ có như vậy mới không ngừng nâng
cao năng lực, trí tuệ lãnh đạo của Đảng đáp ứng đòi hỏi nhiệm vụ cách mạng trong
tình hình hiện nay.
10
2. Những vấn đề cơ bản nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng Đảng ta. Qua hoạt
động thực tiễn lãnh đạo chỉ, đạo cách mạng của Đảng và từ bài học “Xương máu”
của các đảng anh em về công tác xây dựng Đảng và thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ,
thống nhất ý chí và hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ
chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình,
thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh. Đồng thời thực hiện các nguyên tắc tự
phê bình và phê bình đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, giữ
mối liên hệ mật thiết với nhân dân hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật”5.
Trong điều 9, chương II Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X của Đảng
ta xác định rõ nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ tập trung biểu hiện
các vấn đề sau. Một là, cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Hai là, cơ quan lãnh đạo cao nhất của
Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu
hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban
Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp
uỷ). Ba là, cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình
hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê
bình. Bốn là, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức,
các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp
hành Trung ương. Năm là, nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có
giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành.
Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên
có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho
đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
5
Điều lệ ĐCSVN, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 5
11
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền
nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số. Sáu là, tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền
hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các Đảng
cộng sản, nguyên tắc này chỉ đạo toàn bộ và xuyên suốt quá trình xây dựng tổ
chức, sinh hoạt nội bộ và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trước hết, nguyên tắc này
quy định việc xây dựng cơ cấu, hình thức tổ chức của Đảng như: vấn đề chế độ
sinh hoạt, tổ chức đại hội, chế độ thủ tục bầu cử, các cơ quan lãnh đạo của đảng;
nguyên tắc quy định các chế độ để giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ đảng,
như giữa cấp trên với cấp dưới, giữa tập thể với cá nhân, giữa đa số với thiểu số...;
nguyên tắc quy định các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt đảng, phương pháp, tác
phong lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho các cấp uỷ, tổ chức đảng và mỗi đảng viên,
vừa phát huy trách nhiệm sáng tạo, tích cực, chủ động, vừa tập trung được sức
mạnh trí tuệ và sức mạnh của toàn Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở
bảo đảm cho sự đoàn kết thống nhất trong đảng về mặt tổ chức, đồng thời sự thống
nhất về mặt tổ chức là điều kiện vật chất để đảm bảo cho sự thống nhất về mặt
chính trị, tư tưởng được giữ vững và biến thành hiện thực. Nguyên tắc này còn là
cơ sở để xây dựng và giữ nghiêm kỷ luật đảng, là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt
Đảng Cộng sản chân chính với các đảng cơ hội, cải lương về mặt tổ chức.
Nguyên tắc tập trung dân chủ mang bản chất tổ chức của giai cấp công nhân.
Nó là sự thống nhất, tác động biện chứng giữa hai thành tố tập trung và dân chủ. Hai
thành tố này là thuộc tính bản chất của giai cấp công nhân trong lao động sản xuất
và đấu tranh giai cấp. Thuộc tính bản chất giai cấp công nhân của Đảng được xác
định từ vị trí, vai trò của giai cấp công nhân, từ sự ra đời của giai cấp công nhân, từ
yêu cầu khách quan của sản xuất công nghiệp. Qua đó đã từng bước tôi luyện làm
cho giai cấp công nhân có những thuộc tính cơ bản như: tính tập trung hoá cao độ, ý
thức và trình độ tổ chức chặt chẽ, tính kỷ luật nghiêm minh, tinh thần đoàn kết, hợp
tác, tương trợ, dân chủ tập thể..vv. Tập trung là điều kiện, là tiền đề cho sự vận động,
phát triển của dân chủ và ngược lại. Hai thành tố này không mâu thuẫn nhau, mà luôn
12
thống nhất, tác động bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ, tăng cường tập
trung trên cơ sở mở rộng và phát triển dân chủ. Thực hiện dân chủ phải có sự bảo đảm
của tập trung và hướng tới tập trung, chuyển hoá và quy tụ trí tuệ, sức mạnh của từng
người thành ý chí chung tạo nên sức mạnh của tập thể. Mở rộng và phát huy dân chủ
phải đồng thời giữ vững và tăng cường tập trung, thống nhất. Dân chủ càng phát triển
càng có cơ sở vững chắc để tăng cường tập trung. Tập trung trong Đảng càng vững
chắc thì sự bảo đảm cho dân chủ càng phát triển, hiệu lực của dân chủ càng lớn. Tăng
cường tập trung với phát triển dân chủ phải luôn tiến hành đồng thời, gắn bó chặt chẽ
và hỗ trợ cho nhau. Mối liên hệ giữa tập trung và dân chủ là mối liên hệ nội tại bên
trong của một nguyên tắc, trong một chỉnh thể thống nhất đó là Đảng. Do vậy, những
hiện tượng tập trung quan liêu, chuyên quyền độc đoán, dân chủ hình thức, dân chủ
vô tổ chức kỷ luật, phân tán, bè phái, cục bộ là sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ, trái với bản chất của nguyên tắc này.
Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng, từ lịch sử phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
đã khẳng định vai trò to lớn của nguyên tắc tập trung dân chủ đối với việc xây
dựng và hoạt động của Đảng cộng sản. Nguyên tắc tập trung dân chủ mang bản
chất tổ chức của giai cấp công nhân. Giữ vững và thực hiện tốt nguyên tắc này là
giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trên lĩnh vực tổ
chức. Phủ nhận và từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ là phủ nhận Đảng từ bản
chất. Chính vì vậy trong nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng nhấn mạnh: “ Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt
chính Đảng kiểu mới của các giai cấp công nhân, Đảng cách mạng chân chính với
các đảng phái khác. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản
chất. Đảng chống tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền song triệt để tuân
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Chỉ có thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
mới có thể vừa chống được bè phái, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của
Đảng. Chỉ có như vậy, Đảng mới có sức mạnh và sức chiến đấu” 11. Nguyên tắc tập
trung dân chủ có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng
cộng sản. Vì vậy, ngay từ khi nguyên tắc này được khẳng định và thực hiện trong
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 130.
13
xây dựng và hoạt động của Đảng Cộng sản, nó đã trở thành vấn đề trung tâm của
cuộc đấu tranh giữa các trào lưu mác xít, cách mạng triệt để với các trào lưu cơ
hội, xét lại. Các thế lực thù địch luôn tim đủ mọi âm mưu, thủ đoạn để xuyên tạc
nguyên tắc tập trung dân chủ, hòng phá hoại nền tảng tổ chức của Đảng Cộng sản.
Vì vậy, đấu tranh làm thất bại những thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực
thù địch, bảo vệ và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ là trách nhiệm
chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, là vấn đề cốt tử, ảnh hưởng trực
tiếp đến việc thực hiện mục tiêu, lý tưởng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta hiện nay.
3. Đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
công cuộc đổi mới
Gần 8 thập kỷ qua xây dựng và hoạt động lãnh đạo, Đảng ta đã quán triệt,
vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; nhất là vận dụng các nguyên lý
về xây dựng Đảng, trọng tâm thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ
trong điều kiện Đảng cầm quyền. Vì vậy, Đảng ta vững mạnh về mọi mặt chính trị,
tư tưởng và tổ chức, luôn đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động, phát huy cao
độ trí tuệ tập thể trong hoạch định đường lối, tổ chức chỉ đạo thực hiện đường lối
đúng đắn, sáng tạo trực tiếp góp phần đưa cách mạng nước ta liên tiếp giành thắng
lợi, hoàn thành thắng lợi trong cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cả
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước.
Đặc biệt, qua hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng
và lãnh đạo nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử : đất
nước ra khỏi khủng “ Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi
cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh
được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục
14
đi lên với triển vọng tốt đẹp”7. Đạt được những thành tựu to lớn đó là Đảng ta có
đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo khẳng định rõ vai trò to lớn của Đảng- nhân tố
cơ bản hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thành công nổi
bật của Đảng trong việc phát huy vai trò lãnh đạo của mình đối với cách mạng Việt
Nam qua các giai đoạn cách mạng chính là Đảng ta thường xuyên quan tâm chăm no
xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong đó Đảng
thường xuyên coi trọng việc thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ trong
xây dựng và hoạt động của Đảng. Từ việc xác định rõ nguyên tắc trong điều lệ đảng
cho tới việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả qua các giai đoạn lịch sử của cách
mạng Việt Nam, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt, thực tiễn, khi bước vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đánh
dấu bắt đầu từ đường lối Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng (12/ 1986). Trên cơ sở
tổng kết những thành tựu đạt được; những khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế trong công tác xây dựng Đảng. Đảng ta chỉ rõ nguồn gốc của những sai
lầm khuyết điểm đó bắt nguồn từ sai lầm khuyết điểm trong công tác, tư tưởng, công
tác tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Để khắc phục khuyết điểm, yếu kém về công
tác xây dựng Đảng. Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ: “ Đảng phải đổi mới về nhiều mặt:
đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ;
đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”12. Trong đổi mới phong cách làm việc, giữ
vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong Đảng. Đại hội VI của Đảng nhấn
mạnh: thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ- nguyên tắc quan trọng nhất trong
sinh hoạt Đảng. Điều đó có nghĩa là, phải tăng cường sự lãnh đạo tập thể và mở rộng
sinh hoạt dân chủ trong Đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt của các cấp uỷ; tự phê
bình và phê bình trở thành một chế độ sinh hoạt thường xuyên; lập lại kỷ cương, củng
cố kỷ luật trong bộ máy Đảng và bộ máy Nhà nước.
Trên cơ sở cụ thể hoá trong thực hiện đường lối Đại hội lần thứ VI , Đảng đã có
nhiều nghị quyết Trung ương chỉ đạo công tác xây dựng Đảng cũng như khắc phục tình
trạng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI ( 6/1988) ra Nghị quyết một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng. Hội nghị đánh giá vai trò của Đảng trong công tác xây dựng Đảng
7
Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 17.
Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ VI, Nxb ST, H. 1987, tr. 124.
12
15
khi thực hiện đường lối Đại hội VI ; đánh giá những kết quả đạt được và khuyết điểm
tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, đáng chú ý hai khuyết điểm nghiêm trọng nhất
trong công tác xây dựng Đảng là: vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; chậm thay đổi
quan điểm và chính sách cán bộ. Tình hình đó đòi hỏi phải gấp rút phải củng cố Đảng,
nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; tăng cường và đổi mới công
tác xây dựng Đảng. Hội nghị đề ra những nhiệm vụ cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng. Trong đó xác định: thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; mở rộng
dân chủ, lập lại trật tự, kỷ cương; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, củng cố sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng; đấu tranh chống quan liêu, chống vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng. Trong việc tăng cường
công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, Hội nghị chỉ rõ: các cấp uỷ Đảng, mọi tổ
chức Đảng, mọi cán bộ và đảng viên phải thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, mở rộng tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ
luật của Đảng. Củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, xây dựng phong cách lãnh
đạo và lề lối làm việc mới, khắc phục bệnh quan liêu, lời nói không đi đôi với việc làm.
Từ quá trình chỉ đạo chặt chẽ công tác xây dựng Đảng coi trọng việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng đã không ngừng phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng trong thực hiện đường lối Đại hội VI, đem lại những kết quả bước đầu trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/ 1991)
đã khẳng định: qua hơn 4 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI bước đầu mang lại
những kết quả quan trọng; tình hình chính trị của đất nước ổn định; nền kinh tế có
những bước phát triển đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong thực hiện các mục tiêu
của 3 chương trình kinh tế. Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Quyền làm chủ của nhân
dân được phát huy. Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm, từng
bước phá vỡ thế bao vây về kinh tế, chính trị. Quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, tạo
ra môi trường thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Tuy nhiên bên cạnh những kết
quả đạt được những yếu kém và khó khăn đất nước còn rất lớn: đất nước chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế- xã hội. Tình trạng vi phạm dân chủ còn nhiều. Sự nghiệp văn hoá,
xã hội có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, bất công
trong xã hội tăng thêm. An ninh trật tự và an toàn xã hội còn phức tạp, vẫn còn nhân tố
16
gây mất ổn định chính trị. Bộ máy Nhà nước, Đảng và các đoàn thể nhân dân cồng
kềnh, phong cách làm việc quan liêu, kém hiệu quả. Nguyên nhân của những yếu kém
trên là chậm xác định rõ yêu cầu và nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo trong giai
đoạn mới, chưa tập trung nghiên cứu đề ra phương hướng, chủ trương rõ ràng và chỉ
đạo thực hiện tích cực việc tổ chức lại bộ máy, còn thiếu những biện pháp có hiệu lực
để nâng cao chất lượng đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
tổ chức đảng ngang tầm đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng; công tác cán bộ còn nhiều
khuyết điểm. Từ những yếu kém trên, Đại hội VII của Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ
giải pháp chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng cũng như thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ là: đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Đổi mới nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận; đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng theo phương hướng mà cương lĩnh đã đề ra;
chấn chỉnh tổ chức và bộ máy của Đảng; phát huy dân chủ nội bộ, thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; không ngừng
làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; tiếp tục đổi mới cán bộ và
công tác cán bộ.
Trên cơ sở đường lối Đại hội VII về công tác xây dựng Đảng, Đảng ta đã co
nhiều nghị quyết cụ thể hoá trong chỉ đạo thực hiện đường lối Đại hội VII về công tác
xây dựng Đảng và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Nghị quyết
Trung ương ba khoá VII của Đảng (6/ 1992) đánh giá tình hình và nhiệm vụ của Đảng
trong tình hình mới. Trong đó xác định nội dung chỉnh đốn Đảng về mặt tổ chức là:
thực hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên
tắc tập trung dân chủ, ngăn chặn và khắc phục tệ vô tổ chức, vô kỷ luật, độc đoán,
chuyên quyền trong Đảng; chấn chỉnh hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng ở các cấp;
lập ban cán sự Đảng ở Chính phủ, các bộ, các uỷ ban Nhà nước…, chỉnh đốn tổ chức
cơ sở Đảng, xây dựng củng cố các chi bộ theo địa bàn dân cư. Đến Hội nghị Trung
ương tám khoá VII của Đảng( 1/1995) ra Nghị quyết về tiếp tục xây dựng hoàn thiện
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trọng tâm là cải cách một bước nền
hành chính nhà nước. Trong đó Nghị quyết nhấn mạnh việc quán triệt nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo và
điều hành tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính
17
chủ động, sáng tạo của từng địa phương, từng cơ sở, từng tổ chức, từng cá nhân và toàn
hệ thống. Tiếp đó là nghị quyết Trung ương chín khoá VII của Đảng (11/ 1995) xác
định để xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ mới, Đảng ta luôn chú trọng công tác
xây dựng Đảng nhằm giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao
năng lực chính trị, trình độ trí tuệ và phẩm chất cách mạng; củng cố Đảng về mặt tổ
chức, thực hiện tốt công tác tập trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ
phẩm chất và năng lực, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng; tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Từ sự chỉ đạo của Đảng trong công tác xây dựng Đảng cũng như quá trình thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng đã đem lại những kết quả quan trọng. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII tổng kết chỉ rõ 4 thành tựu quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng. Trong đó có thành tựu là: giữ vững được nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Có tiến bộ được thực hiện dân chủ trong Đảng
và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong xã hội, phát huy trí tuệ của tập thể, phát huy sức
mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân…Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu,
công tác xây dựng Đảng vẫn còn nổi lên một số vấn đề lớn như: sự tác động của cơ chế
thị trường và hoạt động chống phá của kẻ thù làm một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý
thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức lối sống, một số thái hoá về chính trị; trình độ
kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt chưa theo kịp yêu cầu sự nghiệp đổi mới,
còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được làm sáng tỏ; tổ chức cơ sở đảng ở
nhiều nơi còn yếu kém, phương thức lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng, có tình trạng vừa
kém dân chủ vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương; công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối,
quan điểm, chỉ thị, nghị quyết của Đảng chưa được chú trọng.
Từ những khuyết điểm trên, Đại hội VIII của Đảng xác định: Đảng phải tiếp tục
tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của
mình, khắc phục các khuyết điểm, các biểu hiện tiêu cực và yếu kém. Đảng phải mạnh
từ Trung ương đến cơ sở, ở tất cả các cấp các ngành. Trong công tác xây dựng Đảng
phải thường xuyên nắm vững và quán triệt các nhiệm vụ sau: giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng
lực cán bộ đảng viên; kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, thực hiện nghiêm túc
18
nguyên tắc tập trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán
bộ chủ chốt các cấp, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận; nâng cao sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường và đổi
mới công tác kiểm tra của Đảng. Thông qua kiểm tra mà phát hiện nhân tố mới, phát
huy ưu điểm, ngăn ngừa và khắc phục khuyết điểm; bổ sung phát triển, hoặc điều chỉnh
chủ trương, chính sách, xử lý sai phạm. Đặc biệt quan tâm làm tốt công tác bảo vệ
chính trị nội bộ Đảng trong tình hình mới.
Trên cơ sở đường lối Đại hội VIII về công tác xây dựng Đảng cũng như việc
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng ta đã có nghị quyết quan trọng cụ thể hoá
chỉ đạo việc tổ chức thực hiện. Nghị quyết Trung ương sáu( lần 2 ) khoá VIII (1/1999)
ra nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay. Nghị quyết xác định 10 nhiệm vụ chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng trong
công tác xây dựng Đảng. Trong đó nhiệm vụ thứ sáu xác định là: thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng. Nâng cao
nhận thức thống nhất trong Đảng về nguyên tắc tập trung dân chủ. Giữ vững chế độ
sinh hoạt định kỳ của các tổ chức đảng, mở rộng dân chủ, khuyến khích tranh luận
thẳng thắn; tôn trọng, tập hợp và xem xét để tiếp thu ý kiến đúng đắn của các cấp uỷ
viên và đảng viên trước khi quyết định. Quá trình triển khai và sự chỉ đạo chặt chẽ việc
thực hiện đường lối Đại hội VIII về công tác xây dựng Đảng cũng như việc tổ chức
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chúng ta đã đạt được kết quả quan trọng như:
công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố.
Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình
và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 ( lần 2) khoá VIII. Nhà nước tiếp
tục được xây dựng và hoàn thiện. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Tuy
nhiên bên cạnh những kết quả đạt được công tác xây dựng Đảng còn bộc lộ yếu kém:
tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy
của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế. Việc tổ chức thực hiện Nghị
quyết, chủ trương, chính sách của Đảng viên chưa tốt, kỷ luật chưa nghiêm. Tình trạng
tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ làm cho một số nghị quyết của Đảng khó đi vào cuộc sống…để khắc
19
phục tình trạng trên, Đại hội IX của Đảng (4/2001) khẳng định: phải coi xây dựng
Đảng trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ then chốt; là yếu tố quyết định sự tồn tại và
phát triển của Đảng ta; nhân tố bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, hội nhập khu vực và thế giới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.Về
nhiệm vụ, giải pháp xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Đại hội IX xác định: trong những năm tới, toàn Đảng phải tiếp tục
thực hiện có hiệu quả các nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Trung
ương 6 ( lần 2) khoá VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đặc biệt tập trung làm tốt một số mặt công tác
quan trọng như: tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ. Xây dựng,
củng cố các tổ chức cơ sở Đảng. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng.
Trên cơ sở đường lối Đại hội IX của Đảng về công tác xây dựng Đảng, Đảng đã
co nhiều nghị quyết chỉ đạo thực hiện. Nghị Trung ương lần thứ tư khoá IX (11/ 2001)
về đánh giá tình hình, đề ra 9 giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 6 ( lần 2 ) khoá VIII, đẩy mạnh cuộc vận động, xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn
chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí. Nghị quyết Trung ương chín khoá IX (1/ 2004)
xác định chủ trương, giải pháp trong xây dựng Đảng là: nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác giáo dục chính tri tư tưởng, kiên quyết khắc phục sự suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ Đảng viên. Đẩy mạnh xây dựng , kiện toàn và
tăng sức chiến đấu cho tổ chức cơ sở Đảng gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận các
đoàn thể cơ sở và phong trào cách mạng của quần chúng. Tiếp tục đổi mới công tác cán
bộ cả về quan điểm, nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý, chế độ trách nhiệm, bộ
máy và con người làm công tác cán bộ; triển khai đồng bộ các mặt đánh giá, quy hoạch,
luân chuyển, đào tạo, bôi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ. Đẩy mạnh công tác nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tiếp
đến là Nghị quyết Trung ương 12 khoá IX (7/ 2005) xác định rõ: công tác xây dựng
Đảng trong giai đoạn mới là nhiệm vụ then chốt, do vậy phải tiếp tục đổi mới và chỉnh
đốn Đảng, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng ngang tầm với đòi hỏi thực tiễn cuộc sống, với yêu cầu của nhiệm
20
vụ tình hình mới. Đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng và chế độ, và là nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, cả trước mắt cũng như lâu dài.
Từ việc đề ra đường lối và lãnh đạo và tiến hành chỉ đạo chặt chẽ công tác xây
dựng Đảng cũng như việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng trong thực
hiện đường lối Đại hội IX đã đạt kết quả quan trọng như : công tác xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức được coi trọng. Đảng đã quan tâm xây dựng, kiện toàn hệ
thống tổ chức. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm
chỉ đạo bảo đảm tốt. Việc thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo
Nghị quyết Trung ương sáu( lần2) và kết luận Hội nghị Trung ương 4 khoá IX về đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí đã đạt một số kết quả nhất định. Ban Chấp
hành Trung ương và các cấp uỷ quan tâm việc kiểm tra chấp hành đường lối, chủ
trương, Điều lệ Đảng và công tác cán bộ….Đã từng bước cụ thể hoá và thể chế hoá các
quan điểm và phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy tốt hơn vai trò của cơ quan nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, khắc phục dần khuynh hướng Đảng bao biện
làm thay, cũng như buông lỏng xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng. Dân chủ trong
Đảng, trong quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, trong tổ chức hoạt động của Nhà nước
và dân chủ trong xã hội có tiến bộ. Về khuyết điểm, yếu kém trong công tác xây dựng
Đảng là: cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong các
cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đặt ra. Công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu sót . Công tác tổ chức trên một số mặt còn yếu chưa
thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Nhiều khuyết điểm, yếu
kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục, nhất là việc quản lý, giáo dục, rèn
luyện cán bộ về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hành dân chủ và chế độ trách
nhiệm trong công tác. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế, nhất là trong
việc xem xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay. Công tác kiểm tra trong Đảng
còn yếu, chất lượng và hiệu quả chưa cao; nhiều khuyết điểm sai lầm của Đảng viên và
tổ chức đảng chậm được phát hiện khắc phục. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng còn chậm và lúng túng. Chậm nghiên cứu ban hành những quy định cụ thể về
phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước; chậm xây dựng các cơ chế phối hợp giữa các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Thiếu những quy định cụ thể đảm bảo thực hiện đúng
đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Đảng. Chưa thật sự coi trọng
21
đổi mới phong cách, lề lối làm việc thực hiện nói đi đôi với làm; tình trạng nói nhiều
làm ít, né tránh đùn đẩy trách nhiệm còn diễn ra ở nhiều nơi.
Trên cơ sơ đánh giá những ưu, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng và
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, Đại hội X của Đảng (4/ 2006) đề ra
phương hướng và mục tiêu tổng quát công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới; đồng
thời xác định 9 nhiệm vụ giải pháp lớn trong công tác xây dựng Đảng như: tăng cường
xây dựng Đảng về chính trị, hoàn thiện đường lối đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức
thực hiện. Tăng cường công tác tư tưởng; rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đổi mới kiện toàn tổ
chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ,
công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng; nâng cao
chất lượng đảng viên. Đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Xây dựng và
tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Đổi mới và hoàn thiện
phương thức lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, trong nhiệm vụ giải pháp đổi mới kiện toàn
tổ chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị Đảng xác định rõ: tiếp tục hoàn
thiện, cụ thể hoá, quy chế hoá nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ chức,
hoạt động của Đảng. Hoàn thiện quy chế, quy trình về công tác tổ chức bảo đảm mở
rộng và phát huy dân chủ trong Đảng. Trên cơ sở đường lối Đại hội X về công tác xây
dựng Đảng và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng ta cũng đã có các nghị
quyết chỉ đạo công tác xây dựng Đảng nhờ vậy mà công tác xây dựng Đảng đã đạt
được những kết quả quan trong bảo đảm cho Đảng ta luôn vững mạnh về mọi mặt
chính trị, tư tưởng và tổ chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
cách mạng mới.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là một nội
dung giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dưng Đảng và là vấn đề có ý
nghĩa sống còn đối với Đảng ta. Nội dung của nguyên tắc rất phong phú, phản ánh
sâu sắc bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc
tập trung dân chủ trong Đảng là yêu cầu khách quan, bảo đảm cho Đảng luôn luôn
là một khối thống nhất về ý chí và hành động, phát huy cao độ được trí tuệ và sức
mạnh của Đảng - bộ phận lãnh đạo trong hệ thống chính trị và đối với toàn xã hội
hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đổi mới. Thực hiện không nghiêm ngặt, hoặc xa
22
rời, từ bỏ nguyên tắc đều ảnh hưởng và quyết định tới sự tồn vong của Đảng và của
chế độ. Chính vì vậy, xây dựng và chỉnh đốn Đảng phải gắn liền với thực hiện
nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ và là vấn đề cốt tử của Đảng ta. Đây nó
là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp đòi hỏi Đảng ta phải luôn luôn trung
thành với nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, đồng thời vận dụng sáng tạo vào việc đề ra đường lối, chủ trương đối với
công tác xây dựng Đảng gắn công tác xây dựng chỉnh đốn đảng với việc thực hiện
nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng cho phù hợp với thực tiễn giai
đoạn lịch sử cách mạng.
Đặc biệt, ngày nay khi đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới đẩy mạnh công
nghiệp hoá đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và vận hội lớn song
bên cạnh đó đứng trước những nguy cơ thách thức lớn diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn khó lường. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy
mạnh thực hiện chiến lược “ Diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ hòng xoá bỏ
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó chúng coi Việt Nam là trọng điểm
để chống phá. Do vậy, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với toàn Đảng và toàn dân
và toàn quân ta. Song điều cốt yếu cơ bản hàng đầu phát huy vai trò to lớn của
Đảng trong lãnh đạo cách mạng nước ta - nhân tố cơ bản hàng đầu quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; để làm tròn trọng trách đó đòi hỏi
Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng vững mạnh về
mọi mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất về ý
chí và hành động trong toàn Đảng và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân
dân; phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Đặc biệt, Đảng phải nắm vững
bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; bám sát
23
vào yêu cầu thực tiễn cách mạng nước ta để đề ra đường lối, chủ trương đúng
đắn, sáng tạo trong công tác xây dựng Đảng, thực hiện nghiêm ngặt nguyên
tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo đảm
cho Đảng ta luôn trong sạch vững mạnh về mọi mặt đáp ứng ngang tâm đòi
hỏi nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.
Nghiên cứu về nguyên tắc tập trung dân chủ qua các thời kỳ cách mạng
của Đảng. Đặc biệt, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay bản thân mỗi chúng ta là
những cán bộ, đảng viên trong quân đội phải tỏ rõ trách nhiệm của mình trong
việc quán triệt và thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ trong
xây dựng, tổ chức và hoạt động của Đảng. Trong công tác và sinh hoạt phải
nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ,
thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa nhận thức và hành động. Phải tích
trong học tập, nghiên cứu khoa học và trong công tác và chủ động, sáng tạo
vượt mọi khó khăn, thử thách vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời bên cạnh đó phải làm tốt công tác tuyên truyền vận động
nhân dân chấp hành tốt mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước. Thường xuyên nâng cao tinh thần đấu tranh phê bình chống
mọi biểu hiện tập trung quan liêu, độc đoán dân chủ hình thức, cũng như mọi biểu
hiện phân tán, cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa, tự do vô kỷ luật, bè phái trong
Đảng. Đề cao cảnh giác cách mạng; kiên quyết đấu tranh chống lại các luận
điệu, sai trái, phản động hiện nay như phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ
nhận hệ tư tưởng của Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, tự do hoá dân
chủ, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phi chính trị hoá quân
đội..vv. Tích cực, chủ động đấu tranh phòng ngừa và làm thất bại mọi âm mưu
chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; góp phần cùng toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân, kiên trì đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đi tới thắng lợi hoàn
toàn trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
……………………………
1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, H.1987.
2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, H.1991.
3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia , H,1996.
4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001.
5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006.
6) Các Đại hội đại biểu toàn quốc và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam (1930- 2006), Nxb Chính trị quốc gia.H. 2006.
7) Hồ Chí Minh, toàn tập,Tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
8) Hồ Chí Minh, toàn tập,Tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
9) C.Mác- Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập1, Nxb ST, H 1970.
10) V. I. Lênin, toàn tập, Tập 8, NXB tiến bộ Mát xcơva, 1979.
11) V.I.Lênin, toàn tập, Tập 41, NXB tiến bộ Mát xcơva, 1977.