Tải bản đầy đủ (.pdf) (274 trang)

Quan Hệ An Ninh - Chính Trị Nhật Bản - Mỹ (1874-1931)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.44 MB, 274 trang )

Header Page 1 of 126.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HOÀNG THỊ HẢI YẾN

QUAN HÖ AN NINH - CHÝNH TRÞ NHËT B¶N - Mü
(1874 - 1931)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2013
Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HOÀNG THỊ HẢI YẾN

QUAN HÖ AN NINH - CHÝNH TRÞ NHËT B¶N - Mü
(1874 - 1931)
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 62.22.03.11

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:



1. GS.TS Đỗ Thanh Bình
2. PGS.TS Nguyễn Thị Hạnh

HÀ NỘI - 2013
Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án này là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu được công bố
trong luận án chưa từng được công bố trong một công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Hoàng Thị Hải Yến

Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ...........................................................................................................
1

2. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................
2
3. Các nguồn tài liệu ..........................................................................................................
5
4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................
5
5. Đóng góp của luận án ....................................................................................................
5
6. Bố cục của luận án .........................................................................................................
6
Chương 1: TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ........................... 7
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ..........................................7
1.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết ......................................................
19
Chương 2: QUAN HỆ AN NINH - CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN - MỸ GIAI ĐOẠN
1874 - 1905................................................................................................... 20
2.1. Những nhân tố tác động đến quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ
(1874 -1905) .....................................................................................................
20
2.2. Quan hệ Nhật - Mỹ trên lĩnh vực an ninh - chính trị giai đoạn 1874 - 1905 ...........
39
Chương 3: QUAN HỆ AN NINH - CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN - MỸ GIAI ĐOẠN
1905 - 1931...................................................................................................

63

3.1. Những nhân tố tác động tới sự thay đổi trong quan hệ an ninh - chính trị
Nhật - Mỹ (1905 - 1931) ..............................................................................................
63
3.2. Quan hệ Nhật - Mỹ trên lĩnh vực an ninh - chính trị giai đoạn 1905 - 1931 ............

78
Chương 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ AN NINH - CHÍNH TRỊ
NHẬT BẢN - MỸ (1874 – 1931) ......................................................................... 113
4.1. Đặc điểm của quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ giai đoạn 1874 - 1931 ...........
113
4.2. Vị trí của quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ giai đoạn 1874 - 1931 trong
lịch sử quan hệ Nhật - Mỹ ...........................................................................................
131
4.3. Tác động của quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874 - 1931) .........................
136
KẾT LUẬN .....................................................................................................................

145

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ............................. 150

.................................................................................... 151
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 162

Footer Page 4 of 126.


Header Page 5 of 126.

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ nói chung luôn thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của khá nhiều học giả, nhưng riêng giai đoạn 1874 - 1931 dường
như vẫn là một khoảng trống. Có thể nói đây vừa là giai đoạn bản lề của mối quan hệ,

vừa là ngưỡng cửa của thế kỉ mới, nên có rất nhiều vấn đề diễn ra đã định hình cho quan hệ
Nhật - Mỹ đến tận ngày nay. Do đó, triển khai nghiên cứu quan hệ an ninh - chính trị
Nhật - Mỹ (1874-1931) mang cả ý nghĩa khoa học lẫn thực tiễn.
1.1. Việc đi sâu tìm hiểu về bối cảnh, những nhân tố tác động đến sự hình thành,
phát triển quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874 - 1931), đặc điểm và tác động
của mối quan hệ này đối với bản thân hai chủ thể cũng như tình hình chính trị và xu thế
quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương không chỉ có ý nghĩa tích cực
trong việc khảo cứu mà còn góp phần hiểu hơn lịch sử quan hệ hai nước cũng như lịch
sử quan hệ quốc tế.
1.2. Nghiên cứu quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874 - 1931) giúp hiểu
thêm về lịch sử Nhật Bản, đặc biệt là cách lựa chọn đối tác, đường hướng phát triển, cách
tiếp cận và hoà nhập với thế giới của người Nhật Bản để hiểu hơn về con đường mà dân
tộc Nhật Bản đã và đang đi. Đồng thời làm sáng tỏ hơn lịch sử nước Mỹ, tầm nhìn chiến
lược, cách tiếp cận thế giới, hiểu thêm con đường đi rất riêng của nước Mỹ trong việc tìm
kiếm và khẳng định quyền lực trên thế giới.
1.3. Trong lịch sử quan hệ quốc tế thời cận - hiện đại, quan hệ Nhật - Mỹ là
một trong số những cặp quan hệ chủ chốt và đóng vai trò quan trọng. Lịch sử quan hệ
hai nước được hình thành từ khá sớm, nhưng giai đoạn 1874 -1931 giữ vai trò đặc
biệt. Đây là thời kỳ diễn ra những biến cố lịch sử to lớn trên các phương diện kinh tế,
chính trị, xã hội của hai nước Nhật Bản và Mỹ. Chỉ trong vòng gần một thế kỷ (1854 1951), quan hệ Nhật Bản - Mỹ đã liên tục chuyển biến qua nhiều mức độ khác nhau,
từ phụ thuộc chuyển sang đồng minh, từ đối thủ cạnh tranh chuyển sang kẻ thù và
cuối cùng lại trở thành đồng minh của nhau. Việc chỉ ra chất kết dính mối quan hệ
này, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi tính chất của mối quan hệ, lý do khiến hai quốc
gia sau nhiều biến cố lớn vẫn thấy cần có nhau và là đồng minh chiến lược của nhau
cũng là điều cần thiết trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp.

Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.


2
1.4. Tìm hiểu quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ giai đoạn 1874-1931 là cơ
sở để hiểu và lý giải về quan hệ Nhật - Mỹ hiện tại. Cho đến thời điểm này, quan hệ
Nhật - Mỹ vẫn là cặp quan hệ đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân hai
nước và ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Trong bối cảnh Mỹ quyết định chuyển hướng trọng tâm chiến lược sang khu
vực châu Á - Thái Bình Dương ở những thập niên đầu thế kỷ XXI, Nhật Bản và Mỹ
phải đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ năm 2008, sự trỗi dậy của
Trung Quốc cũng như những diễn biến phức tạp của môi trường an ninh ở châu Á Thái Bình Dương đã khiến cho mối quan hệ đồng minh chiến lược Nhật Bản - Mỹ
càng quan trọng hơn trong việc theo đuổi những lợi ích cốt lõi của hai cường quốc.
1.5. Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, đang
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên rất cần có môi trường hoà bình,
an ninh và duy trì mối quan hệ hữu nghị, hợp tác hiệu quả với các cường quốc trên thế
giới. Nhật và Mỹ là hai đối tác quan trọng của Việt Nam, do đó tìm hiểu lịch sử của
hai nước, của mối quan hệ Nhật - Mỹ trong quá khứ giúp chúng ta hiểu rõ thêm về hai
cường quốc đang đóng vai trò lớn trong các vấn đề quốc tế; hiểu được vị trí của khu
vực châu Á - Thái Bình Dương (trong đó có Việt Nam) trong chiến lược đối ngoại của
Nhật và Mỹ. Qua đó, chúng ta cũng có thể rút ra được những kinh nghiệm tham khảo
trong việc đánh giá tình hình quốc tế, khu vực để xác định, lựa chọn và thiết lập quan hệ
với các đối tượng cụ thể, đặc biệt là học hỏi được những kinh nghiệm hội nhập quốc tế
của các nước lớn. Do vậy, việc nghiên cứu quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ không
chỉ cần thiết cho việc nhận thức lịch sử mà còn có ý nghĩa thời sự sâu sắc.
Với những ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, chúng tôi chọn “Quan hệ an
ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ (1874-1931)” làm đề tài Luận án Tiến sĩ.
2. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ
(1874-1931)”.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:

Hợp tác an ninh - chính trị trong quan hệ quốc tế là những hoạt động của các
chủ thể quan hệ quốc tế nhằm tạo ra môi trường chung mà các bên tham gia hướng

Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.

3
đến. Dựa trên lý thuyết và đối chiếu với thực tế lịch sử quan hệ Nhật - Mỹ cho thấy
những vấn đề nổi bật trong quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ giai đoạn 1874-1931
là: vấn đề Đài Loan (1874), Chiến tranh Trung - Nhật (1894-1895), Chiến tranh Nga Nhật (1904-1905), cạnh tranh Nhật - Mỹ trong Hội nghị Washington, vấn đề Mãn
Châu (chúng tôi có mở rộng phạm vi nghiên cứu của mình bằng việc đề cập tới yếu tố
kinh tế như: tranh chấp đường sắt Mãn Châu, việc thành lập Tập đoàn Tài chính ngân
hàng mới và phân tích các yếu tố này phục vụ cho mục tiêu làm rõ hơn quan hệ an
ninh - chính trị, vì thực chất của vấn đề này vẫn là cuộc tranh giành lợi ích, phạm vi
ảnh hưởng giữa Nhật và Mỹ). Theo lý thuyết của Barry Buzan, sau đó được phát triển
thành trường phái Copenhagen thì quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ giai đoạn
1874 - 1931 còn nổi lên vấn đề người Nhật nhập cư vào Mỹ. Những nội dung được
lựa chọn tìm hiểu trong luận án là trụ cột trong quan hệ hai nước và chi phối chiều
hướng phát triển của quan hệ hai nước cuối thời cận đại và buổi đầu thời hiện đại
Về thời gian: chúng tôi lấy mốc năm 1874 làm mốc mở đầu của việc nghiên cứu
quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ vì đây là năm Nhật Bản tiến hành xâm lược Đài
Loan dưới sự ủng hộ “ngầm” của Mỹ. Sự kiện này tiêu biểu cho sự hợp tác và lợi dụng lẫn
nhau đầu tiên giữa Nhật và Mỹ trong việc thực hiện mục tiêu bành trướng ở Đông Bắc Á.
Năm 1931 được chúng tôi chọn làm mốc kết thúc bởi ngày 18/9/1931, sự kiện Mãn Châu
bắt đầu. Nhật Bản xâm lược Mãn Châu là hành động nhằm xoá bỏ Hiệp ước Washington.
Bằng hành động này, quân đội Nhật Bản vi phạm nguyên tắc không can thiệp vào công
việc nội bộ của Trung Quốc và cam kết giữa các cường quốc lớn. Sau sự kiện này, Chính
phủ Mỹ tuyên bố Nhật Bản không còn là một đối tác cho sự ổn định ở châu Á -Thái Bình

Dương. Quan hệ Nhật - Mỹ bước sang giai đoạn cạnh tranh khốc liệt hơn.
Tuy nhiên, hai mốc thời gian này không phải là sự phân định máy móc. Để làm rõ đề
tài, luận án đã mở rộng nghiên cứu giai đoạn trước và sau để có cái nhìn liên tục và logic.
Trong quan hệ quốc tế không có hợp tác hay cạnh tranh đơn thuần, tùy điều kiện
lịch sử mà hai mặt này “nặng”, “nhẹ” khác nhau. Trên cơ sở khảo cứu quan hệ an ninh chính trị Nhật Mỹ, chúng tôi chọn năm 1905 làm mốc phân chia giữa hai giai đoạn bởi vì:
Trong giai đoạn 1874 - 1905, cả hai nước đều có nhu cầu hợp tác để vươn lên trở
thành cường quốc của thế giới. Với Mỹ, Nhật là cầu nối, là bàn đạp quan trọng để vươn
sang lục địa châu Á và phát triển hải thương. Còn với Nhật, Mỹ là chỗ dựa an ninh để
chống lại mối đe dọa từ bên ngoài, xa hơn nữa là tìm kiếm sự ủng hộ về mọi mặt để cải

Footer Page 7 of 126.


Header Page 8 of 126.

4
thiện địa vị trên trường quốc tế. Do vậy trong giai đoạn 1874 - 1905, Nhật - Mỹ đã hợp
tác, lợi dụng lẫn nhau để thực hiện tham vọng ở Viễn Đông và Thái Bình Dương.
Thế nhưng, sự thay đổi trong quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ bắt đầu từ
trong cuộc Chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905). Ban đầu, Mỹ đã ủng hộ Nhật phát
động cuộc chiến tranh với Nga nhằm xoá bỏ chính sách đóng cửa Mãn Châu của Nga,
tạo cơ hội cho Mỹ len chân vào nơi đây. Tuy nhiên, kể từ trận chiến Phụng Thiên (20/2 –
10/3/1905), hay nói cách khác là từ khi chiến thắng của Nhật đã trở nên rõ ràng thì thái
độ của Mỹ cũng thay đổi. Âm mưu của Mỹ là “nhìn thấy cuộc chiến tranh kết thúc với
kết quả Nga và Nhật Bản bị khóa chặt trong thế bất lợi, nỗ lực chống lại nhau và tiếp
tục suy yếu” [156]. Vì vậy, trong quá trình đàm phán, Tổng thống Mỹ - với vai trò hoà
giải đã dẫn dắt nó theo hướng không có lợi nhất cho Nhật Bản. Mặc dù vậy, chiến thắng
của Nhật Bản trong cuộc Chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905) đã đưa Nhật trở thành
cường quốc chiếm ưu thế ở Viễn Đông với ảnh hưởng mở rộng đến Mãn Châu và bán
đảo Triều Tiên, tạo ra sự chuyển biến căn bản trong cán cân quyền lực ở Đông Á. Tham

vọng của Nhật Bản cũng gia tăng cùng với sự phát triển của tiềm lực kinh tế và quốc
phòng. Cũng trong giai đoạn 1905 - 1931, Mỹ dần vươn lên trở thành một trung tâm
công nghiệp và tài chính của thế giới, tham vọng mở rộng quyền lợi ở Thái Bình Dương
ngày càng lớn. Với ưu thế về nhiều mặt, Mỹ đã gây sức ép lên Nhật Bản và bắt Nhật
phải chấp nhận nhiều nhượng bộ thua thiệt. Những xung đột lợi ích trong việc giành ưu
thế tại khu vực này giữa Nhật và Mỹ đã quy định tính chất chủ yếu trong quan hệ hai
nước giai đoạn này là cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau.
Về không gian: Quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874 -1931) chịu sự chi
phối bởi nhiều yếu tố, trong đó có những vấn đề xảy ra ở khu vực Đông Bắc Á (Đài
Loan, Triều Tiên, Trung Quốc). Vì vậy chúng tôi sẽ đề cập đến quan hệ Nhật - Mỹ ở
cả khu vực Đông Bắc Á vào những thời điểm có liên quan.
2.3. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Làm rõ vai trò, vị trí, mức độ của các nhân tố tác động đến sự vận động, phát
triển của quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874-1931).
- Làm rõ những vấn đề cơ bản trong quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ
(1874-1931) thông qua việc đi sâu phân tích các sự kiện tiêu biểu.
- Đưa ra những nhận xét, đánh giá về quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ
(1874-1931).

Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.

5
3. Các nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu được sử dụng trong luận án này bao gồm:
- Tài liệu gốc: các hiệp ước kí kết giữa Nhật Bản và Mỹ; các nghị định, công
hàm trao đổi giữa hai bên; các báo cáo của các bộ, ngành gửi Ngoại trưởng hai nước;
các bức thư của các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước... được khai thác từ nguồn lưu trữ

của Bộ ngoại giao Mỹ, trên trang web của Thư viện Quốc hội Nhật Bản, hoặc qua các
tư liệu gốc được in trong các công trình tuyển chọn.
- Các công trình chuyên khảo có nội dung phản ánh trực tiếp quan hệ Nhật - Mỹ.
- Các bài báo khoa học có liên quan đến đề tài được công bố trên các tạp chí khoa
học trong nước và ngoài nước.
- Các trang web
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic. Với các phương pháp này, mối quan hệ an ninh- chính
trị Nhật - Mỹ sẽ được tái hiện thông qua việc phân tích các sự kiện lịch sử cụ thể, các
giai đoạn theo logic và mang tính liên kết. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương
pháp tổng hợp, phân tích và so sánh để giải quyết vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. Đóng góp của luận án
Giải quyết được các nhiệm vụ đặt ra, Luận án có những đóng góp sau:
- Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu có hệ thống về quan hệ
Nhật - Mỹ trên lĩnh vực an ninh - chính trị giai đoạn 1874-1931, góp phần lấp khoảng
trống trong nghiên cứu quan hệ Nhật - Mỹ cuối thời cận đại và đầu thời hiện đại; Bổ
sung, cập nhật những tư liệu mới cho giảng dạy, nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế
nói chung và quan hệ Nhật - Mỹ nói riêng.
- Dựng lại bức tranh về quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874-1931) với
những nét đặc thù, dưới tác động của các nhân tố cụ thể.
- Luận án chỉ ra đặc điểm, vị trí, ảnh hưởng và tác động của quan hệ an ninh chính trị Nhật - Mỹ (1874-1931) tới hai chủ thể Nhật, Mỹ và tình hình khu vực Đông Bắc
Á và thế giới; rút ra những kinh nghiệm lịch sử hữu ích cho Việt Nam trong thực tiễn
hoạt động đối ngoại.

Footer Page 9 of 126.


Header Page 10 of 126.


6
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội dung luận
án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Chương 2: Quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1874-1905.
Chương 3: Quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1905-1931.
Chương 4: Một số nhận xét về quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ
(1874-1931).

Footer Page 10 of 126.


Header Page 11 of 126.

7
Chương 1
TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Các học giả Việt Nam
Nhật và Mỹ là hai cường quốc trên thế giới, do vậy, chính sách đối ngoại của
hai quốc gia này nói chung và quan hệ Nhật - Mỹ nói riêng là một nội dung quan
trọng của lịch sử thế giới. Sự phát triển nhanh chóng và có tính chất đặc biệt của mối
quan hệ giữa hai cường quốc Thái Bình Dương này trong thời gian qua đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Cho đến nay, đã có nhiều bài viết, nhiều công
trình liên quan đến chủ đề này, song tựu trung có 2 nhóm sau:
* Nhóm thứ nhất: nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Nhật Bản và Mỹ:
Về chính sách đối ngoại và quan hệ đối ngoại của Nhật Bản, đã có khá nhiều
bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí và sách chuyên khảo. Đó là các tác phẩm của
Nguyễn Văn Kim như: Mấy suy nghĩ về thời kỳ Tokugawa trong lịch sử Nhật Bản,

TCNCLS, số 6.1994; Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa, Nguyên
nhân và hệ quả, NXB Thế giới, HN.2000; Nhật Bản mở cửa - Phân tích nội dung các
bản hiệp ước bất bình đẳng do Mạc Phủ Edo ký với phương Tây”, TCNCLS, số3 & số
4.2001. Những tác phẩm này đề cập đến thái độ, quan điểm, hành động của Nhật Bản
khi đối diện với các nước phương Tây; đề cập đến quan hệ Nhật - Mỹ trong những
ngày đầu Nhật thực thi chính sách mở cửa với thế giới. Đây là nguồn tham khảo có
giá trị để chúng tôi làm rõ nhân tố lịch sử, một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến
quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ.
Bên cạnh đó, một số bài viết đề cập đến quan hệ đối ngoại của Nhật Bản cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trong đó tập trung làm rõ mối quan hệ của Nhật Bản ở
Đông Á cũng như chính sách Đông Á-Thái Bình Dương của Nhật Bản. Những bài
viết này phác họa bức tranh tổng thể và các mối quan hệ của Nhật Bản ở khu vực,
trong đó có quan hệ Nhật - Mỹ, là cơ sở để hiểu hơn về sự tác động của nhân tố quốc
tế và khu vực đến quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ. Chẳng hạn như: Khảo sát
lịch sử quốc tế hóa của Nhật Bản, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, Số
4.1996 của Hoàng Đại Tuệ; Đường lối chính trị đối ngoại và quân sự của Chính
quyền Minh Trị thời kỳ 1868- 1912, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 5.2002
của Hoàng Minh Lợi. Nhìn lại chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong những năm

Footer Page 11 of 126.


Header Page 12 of 126.

8
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và hệ quả cuả nó, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông
Bắc Á, số 4. 2000; Đông Á - Đông Nam Á, những vấn đề lịch sử và hiện tại, Đại học Quốc
gia Hà Nội 2004; Cơ sở tạo lập chính sách Đông Á - Thái Bình Dương của Nhật Bản khía cạnh lịch sử và lợi ích quốc gia, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7. 2008 của Ngô
Xuân Bình; Đáng chú ý là cuốn Quan hệ quốc tế ở Đông Á trong lịch sử (Trung Quốc,
Triêu Tiên, Nhật Bản), Trường ĐHTH TPHCM, 1993 của Lê Văn Quang. Trong cuốn này,

tác giả Lê Văn Quang đã dành chương II, III, IV để làm rõ quan hệ quốc tế ở Đông Á từ
giữa thế kỉ XIX đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các chương này đã dựng lên bức
tranh khá rõ về quan hệ giữa các nước Đông Bắc Á cũng như sự can thiệp của các cường
quốc phương Tây vào khu vực này.
So với Nhật Bản, những công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại và
quan hệ đối ngoại của Mỹ nhiều hơn và phong phú hơn. Có thể kể đến một số bài
nghiên cứu liên quan đến chủ đề Luận án dưới góc độ văn hóa, kinh tế, chính trị và
vai trò của cá nhân đối với quá trình hoạch định, thực thi đường lối đối ngoại của Mỹ.
Tiêu biểu là Thử bàn về văn hóa Mỹ và chính sách đối ngoại Mỹ (2003), của
Nguyễn Quốc Hùng và Nguyễn Thái Yên Hương; Ảnh hưởng của tổng thống với
tiến trình hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ, Châu Mỹ ngày nay, số 2-2004 của
Nguyễn Thị Hạnh; Xu hướng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong lịch sử, Châu
Mỹ ngày nay, số 5/1999 của Lê Thu Hằng… Các bài viết trên đã chỉ ra và lí giải sự
chi phối của cá nhân tổng thống, của hệ thống chính trị cũng như yếu tố con người
và xã hội Mỹ đến chính sách và hoạt động đối ngoại của Mỹ; đồng thời đề cập đến
những xu hướng nổi bật của chính sách đối ngoại Mỹ trong lịch sử. Tuy nhiên,
những bài viết trên không đi sâu vào giai đoạn 1874 - 1931 mà luận án quan tâm.
Bên cạnh đó, một số bài viết về các học thuyết, các trào lưu tư tưởng định hình
cho sự ra đời đường lối đối ngoại của Mỹ. Liên quan đến khía cạnh này là Khái niệm
“quyền lợi dân tộc” trong việc nghiên cứu chính trị đối ngoại của Mỹ, Viện TTKHXH,
HN, 1974 của Krivokhigia; Chủ nghĩa biệt lệ trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Tạp
chí châu Mỹ ngày nay, số 3(72)/2004 của Nguyễn Thị Nga; Học thuyết “Sứ mệnh bành
trướng” và ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Viện Nghiên cứu châu
Mỹ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2006 của Nguyễn Lan Hương; Nguồn gốc lịch sử
của học thuyết “sứ mệnh bành trướng” trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và Các
luận điểm và biểu hiện của học thuyết sứ mệnh bành trướng trong chính sách đối ngoại

Footer Page 12 of 126.



Header Page 13 of 126.

9
Hoa Kỳ, Châu Mỹ ngày nay, số 10(103)/2006 & số 11(129)/2008) của Nguyễn Lan
Hương. Đáng chú ý là Chính sách của Mỹ đối với các cường quốc châu Âu trong việc
mở rộng lãnh thổ (1787-1861), Luận án tiến sĩ lịch sử (2011) của Lê Thành Nam. Luận
án này là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống về chính
sách của Mỹ đối với các cường quốc châu Âu trong việc mở rộng lãnh thổ (1787 1861), góp phần hiểu sâu sắc hơn về chính sách đối ngoại Mỹ thời cận đại.
Nhìn chung, những tác phẩm trên mang lại những kiến thức hữu ích, là cơ sở
để hiểu và luận giải mối quan hệ Nhật - Mỹ cũng như đặc điểm của mối quan hệ này
trên lĩnh vực an ninh - chính trị.
* Nhóm thứ hai: nghiên cứu trực tiếp về quan hệ Nhật - Mỹ
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu quan hệ Nhật - Mỹ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
dưới dạng công trình chuyên khảo dường như không có. Chỉ có một số bài báo đề cập trực
tiếp đến quan hệ Nhật - Mỹ được đăng rải rác trên các tạp chí chuyên ngành, ví như: Quan
hệ Nhật Bản - Châu Âu - Hoa Kỳ - giai đoạn trước kỷ nguyên Minh Trị: đóng cửa nhưng
không cài then, Nghiên cứu Nhật Bản, Số 1.1998, của Ngô Xuân Bình; Sự hình thành tam
giác quyền lực Đức - Mỹ - Nhật trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và hệ quả
của nó, Nghiên cứu Nhật Bản, số 2 (32) 4- 2001 của Nguyễn Văn Tận; Mỹ và Đông Á:
nhìn từ lịch sử và hiện tại, 2006 của Nguyễn Quốc Hùng... Những bài viết này đã dựng lại
mối quan hệ ngoại giao của Mỹ với các nước Đông Á nói chung, trong đó có quan hệ
Nhật - Mỹ. Tuy nhiên, do dung lượng có hạn của bài nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên
ngành nên nội dung được đề cập đến chưa sâu, bối cảnh và thời gian nghiên cứu khá dàn
trải. Đặc biệt, tài liệu có giá trị tham khảo với chủ đề Luận án là Chính sách đối ngoại của
Mỹ đối với Nhật Bản trong nửa đầu thế kỉ XX, Luận án tiến sĩ lịch sử (2008), của Trần
Thiện Thanh. Nội dung luận án này đã phân tích, lí giải nguyên nhân, mục đích, các yếu tố
tác động, nội dung, kết quả và đặc điểm cơ bản trong chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản
trong nửa đầu thế kỉ XX. Do vậy, dù không trùng khớp về thời gian nghiên cứu, nhưng
luận án này đã góp phần giúp tác giả hiểu thêm về chủ đề nghiên cứu.
1.1.2. Các học giả trên thế giới

* Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Nhật và Mỹ
- Chính sách đối ngoại của Nhật Bản
Những tác phẩm viết về chính sách đối ngoại của Nhật Bản, như: "A Brief
Diplomatic A History of modern Japan" (Giới thiệu tóm tắt về lịch sử ngoại giao Nhật

Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.

10
Bản hiện đại), C.E. Tuttle Co, 1965 của Morinosuke Kajima; "Japan‟s Foreign Policy
1868-1941, A Research Guide" (Chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ 1868 - 1941,
một định hướng nghiên cứu), Columbia University Press, 1974 của Fames William
Morley; "The Foreign Policy Of Modern Japan" (Chính sách đối ngoại của Nhật Bản
thời hiện đại), University of California Press, 1977 của Robert A. Scalapino. Đây là
những công trình nghiên cứu về lịch sử đối ngoại của Nhật Bản từ thế kỉ XVI đến thế
kỉ XX. Trên cơ sở nhiều tư liệu có giá trị, các tác phẩm đã đưa lại cái nhìn khá chỉnh
thể về đường lối đối ngoại của Nhật Bản qua các thời kì. "Japan Foreign Relations
1542-1936- A Short History” (Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ 1542 - 1936 - lịch
sử tóm tắt), The Hokuseido Press, 1937 của Roy Hidemichi Akagi là tác phẩm viết
khá kĩ về mối quan hệ giữa Nhật Bản, Triều Tiên và Trung Quốc trong nhiều thế kỉ,
đặc biệt là trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tác giả đã dành nhiều trang
để phản ánh cuộc Chiến tranh Nga - Nhật, về vấn đề Mãn Châu trong quan hệ Nhật
Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu rộng về không gian và thời
gian, dung lượng dành cho quan hệ Nhật - Mỹ nói chung và quan hệ an ninh - chính
trị Nhật - Mỹ còn rất ít.
- Chính sách đối ngoại của Mỹ
Tại Mỹ, các trung tâm, các viện nghiên cứu và nhiều trường đại học đã thực
hiện nhiều công trình liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ, góp phần làm phong

phú và đa dạng nguồn tư liệu về chủ đề này. Có thể kể một số công trình tiêu biểu
như: U.S. Foreign Policy (Chính sách đối ngoại của Mỹ )(1943), Boston: Little,
Brown and Co, của Walter Lippmann; American Foreign Relations Reconsidered,
1890- 1993 (Xét lại quan hệ đối ngoại của Mỹ, 1890 - 1993), NewYork, 1994 của
Gordon Martel; "American Foreign Relations: A History to 1920" (Quan hệ đối
ngoại Mỹ- giai đoạn lịch sử đến năm 1920), Cengage Learning, 2009 của Thomas
G. Paterson, J. Garry Clifford, Shane J. Maddock; "The history of American
foreign policy from 1895" (Lịch sử chính sách đối ngoại Mỹ từ 1895), M. E.
Sharpe Inc, 2012, của Jerald A. Combs ; "US Foreign policy in world history" (The
New International History) (Chính sách đối ngoại của Mỹ trong lịch sử thế giới ),
Routledge, 2000, của David Ryan; "From Colony To Superpower - U.S. Foreign
Relations since 1776" (Từ thuộc địa đến siêu cường - quan hệ đối ngoại của Mỹ từ
1776), Oxford University Press, 2008, của George C. Herring. “A History of The

Footer Page 14 of 126.


Header Page 15 of 126.

11
United Foreign Policy” (Lịch sử chính sách đối ngoại Mỹ), Prentice-Hall, Inc,
New York, 1955,của Julius W. Pratt ; “American Diplomacy A History” (Lịch sử
ngoại giao Mỹ), W.W. Norton & Company, Inc, New York, 1975, của Robert H.
Ferrell; “The History of American Foreign Policy” (Lịch sử chính sách đối ngoại
Mỹ), The McGraw - Hill Companies, Inc, 1986, của Jerald A. Combs & Arthur G.
Combs... Đây là bộ sưu tập khá lớn các công trình nghiên cứu về lịch sử đối ngoại
của Mỹ. Những công trình này đã phân tích cơ sở, chính sách đối ngoại của Mỹ
qua các thời kì, các đặc điểm cũng như nhận định về xu hướng đối ngoại của nước
Mỹ trên cơ sở xâu chuỗi, kết nối và luận giải khá logic các nhân tố tác động, các sự
kiện ngoại giao đã diễn ra. Vì thế, bức tranh ngoại giao của Mỹ đã được dựng lên

một cách khá rõ ràng theo chiều dài lịch sử.
Bên cạnh đó, một số tác phẩm chuyên sâu nghiên cứu về các học thuyết, trào
lưu tư tưởng định hình cho sự ra đời của các chính sách, là công cụ lí luận để giải
thích, cổ vũ cho cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Công trình tiêu biểu đề cập đến nội
dung này là “The doctrines of American Foreign Policy: Their Meaning, Role, and
Future” (Những học thuyết trong chính sách đối ngoại Mỹ (Ý nghĩa, vai trò và tương
lai), Louisiana State University Press, 1982 của Cecil Van Meter Crabb.
* Nhóm thứ hai: Nghiên cứu trực tiếp về quan hệ Nhật - Mỹ
- Các học giả Nhật Bản
Một trong những cuốn sách viết tổng quan nhất về quan hệ Nhật - Mỹ là cuốn
Japan - American Diplomatic Relations in the Meiji-Taisho Era (Quan hệ Ngoại giao
Nhật - Mỹ trong thời kỳ Minh Trị - Đại Chính, Tokyo: Pan-Pacific Press, 1958 do
Kamikawa Hikomatsu biên tập. Tuy nhiên, các khía cạnh khác nhau trong mối quan
hệ Nhật - Mỹ cũng như sự trình bày từng chủ đề chưa sâu sắc, mới chỉ dừng lại ở xâu
chuỗi các sự kiện với rất ít diễn giải và đánh giá. Nghiên cứu giai đoạn đầu đến năm
1867 là sản phẩm của tác giả Maruyama Kunio, và từ năm 1868 đến 1895 là sản phẩm
của Hanabusa Nagamichi. Giáo sư Hanabusa đã đề cập đến nội dung tương tự trong
một bối cảnh quốc tế rộng hơn với cuốn Meiji gaiko shi (Lịch sử Ngoại giao thời kỳ
Minh Trị), Tokyo: Shibundo, 1960. Cũng cần phải đề cập đến công trình nghiên cứu
tiên phong của Nitobe Inazo, The Intercourse between the United States of America
and Japan (Mối giao hảo giữa Mỹ và Nhật), Baltimore: Johns Hopkins Press, 1891 và
Kitazaki Susumu với cuốn Nichibei kosho gojunen shi (History of Fifty Years of

Footer Page 15 of 126.


Header Page 16 of 126.

12
Japanese - American Relations: Lịch sử 50 năm mối quan hệ Nhật - Mỹ), xuất bản

năm 1909 bởi Dai Nihon Bummei Kyokai.
Quan hệ Nhật - Mỹ cuối thế kỉ XIX đến những năm đầu thế kỉ XIX được phản
ánh khá rõ trong các tác phẩm được dịch sang tiếng Anh của các sử gia Kiyoshi K.
Kawakami và IIChiro Tokutomi với các chuyên khảo "American- Japanese
Relations" (Quan hệ Mỹ - Nhật) (1912), Fleming H. Revell Company, New York ;
"Japanese- American Relations" (Quan hệ Nhật - Mỹ), (1922), The Macmillan Co.,
N.Y. Hai công trình này đã đề cập đến các khía cạnh của quan hệ Nhật- Mỹ như vấn
đề người Nhật nhập cư vào Mỹ và quan hệ quốc tế ở Mãn Châu, là nguồn tài liệu
tham khảo quý, góp phần hữu ích trong việc giải quyết một phần nội dung của Luận
án. Trong cuốn "Japanese - American Relations", tác giả IIChiro Tokutomi đã dựng
lại mối quan hệ giữa Nhật - Mỹ từ khi Perry xuất hiện trên vùng biển Nhật Bản cho
đến đầu thế kỉ XX. Sự “hiểu lầm” giữa hai nước và thái độ chống Nhật ở Mỹ cũng
được tác giả đề cập đến qua vấn đề người Nhật nhập cư vào Mỹ. Ở cuốn "AmericanJapanese Relations", Kiyoshi K. Kawakami đề cập đến vấn đề Mãn Châu, chỉ ra
quyền lợi của Nhật Bản sau Chiến tranh Nga - Nhật; Quá trình thúc đẩy thương mại
của Nhật, Mỹ ở Mãn Châu và học thuyết mở cửa. Về vấn đề người Nhật nhập cư vào
Mỹ, tác giả đã đi sâu mô tả về cuộc sống của người Nhật trên đất Mỹ như là một phần
vấn đề chính trị - xã hội của Mỹ (chứ chưa đi sâu phân tích nó dưới góc độ quan hệ
giữa hai nước Nhật - Mỹ). Tuy nhiên, thời gian khảo cứu của hai công trình này rất
ngắn (những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX) nên chưa phác họa được bức tranh
tổng thể về quan hệ giữa hai nước và điều quan trọng là hai tác giả đều là người Nhật
nên các sự kiện thuộc về quan hệ Nhật - Mỹ chưa được đánh giá khách quan.
- Các học giả Mỹ
Từ khi người Mỹ đặt chân đến những vùng bờ biển phía tây Thái Bình Dương
và thiết lập mối quan hệ với các nước châu Á, nhu cầu dựng lại lịch sử mối quan hệ để
làm tăng vốn hiểu biết trong quá khứ và thúc đẩy quan hệ giao lưu hợp tác trong
tương lai được đặt ra. Đây là điều kiện kích thích, đẩy mạnh công tác nghiên cứu
chuyên sâu, do đó Hiệp hội Sử học Mỹ (AHA) đã thiết lập Ủy ban về Quan hệ giữa
Mỹ - Đông Á vào năm 1968. Sau đó, Quỹ Ford đã tài trợ cho ủy ban này triển khai
một chương trình nhỏ cung cấp học bổng, tài trợ nghiên cứu và tổ chức hội nghị. Do
vậy, đã có khá nhiều công trình ra đời đáp ứng mục tiêu ấy.


Footer Page 16 of 126.


Header Page 17 of 126.

13
Các nhà nghiên cứu rất quan tâm đến chính sách đối ngoại của Mỹ đối với
Đông Á- một khu vực mang tính chiến lược với Mỹ, trong đó, quan hệ an ninh-quân
sự Nhật - Mỹ cũng được các tác giả đề cập đến. Hai cuốn tiêu biểu, tập trung vào đề
tài này là Americans in Eastern Asia (Người Mỹ ở Đông Á) ,New York: Macmillan,
1922 của Tyler Dennett và The Far Eastern Policy of the United States (Chính sách
Viễn Đông của Mỹ), New York: Harcourt, Brace, 1938 của A. Whitney Griswold. Ngoài
ra cũng có một số cuốn đại cương khác như cuốn The United States and Asia (Nước Mỹ
và châu Á), New York: Praeger, 1955 của Lawrence H. Battistini là một ví dụ. Có rất
nhiều các giáo trình về lịch sử ngoại giao của Mỹ đều đề cập đến mối quan hệ giữa Mỹ Đông Á. Tuy nhiên, các tác phẩm của Dennett và Griswold được đánh giá cao hơn cả.
Hầu hết các tác giả khác đều vay mượn ý tưởng từ hai tác giả này.
Trong cuốn Americans in Eastern Asia (Người Mỹ ở Đông Á), Dennett đã cố gắng
chứng minh rằng trong quá khứ, Mỹ đã được hưởng lợi từ một chính sách hợp tác. Theo
quan điểm của Dennett, các mục tiêu của Mỹ tại châu Á chưa từng bị nghi ngờ trong suốt
thế kỷ XIX. Đối với Nhật Bản, ban đầu Mỹ đóng một vai trò độc lập. Thiếu tướng hải
quân Perry đã ép buộc Nhật phải mở cửa thông thương với nước ngoài. Mục đích duy nhất
của ông chỉ là mối quan hệ thương mại, trong đó cả hai bên đều có lợi. Các nỗ lực của
Harris, như Dennett đã viết, hoàn toàn phù hợp với bản chất chính sách truyền thống của
Mỹ tại Trung Quốc:“Mỹ mong muốn quan hệ thương mại được mở rộng tới tất cả các
công dân của mình, và cách chắc chắn nhất để mở và giữ cánh cửa này luôn được mở,
chính là thuyết phục các quốc gia có chủ quyền tại châu Á mở cửa thông thương, và sau
đó là tăng cường sức mạnh các quốc gia này để họ có khả năng giữ cánh cửa đó luôn
mở” (P. 358). Theo Dennett, từ năm 1870 tới 1899, Chính phủ Mỹ đã không bắt kịp được
nhu cầu hợp tác tất yếu phải phát sinh giữa các nước phương Tây cùng chung mối quan

tâm đối với Chính sách Mở cửa. Mỹ có xu hướng ngày càng hậu thuẫn Nhật Bản nhiều
hơn. Theo Dennett, đây là một sai lầm. Tiến trình đúng đắn cho Mỹ chính là hợp tác công
bằng với tất cả các nước ủng hộ nguyên tắc tối huệ quốc, và các công hàm thời Mở cửa
của John Hay trong năm 1899 và 1900 đã dựng lại tiến trình lịch sử này của nước Mỹ.
Cuốn sách The Far Eastern Policy of the United States (Chính sách Viễn Đông
của Mỹ) của Griswold đã tiếp nối những điều mà cuốn sách của Dennett chưa làm được.
Cuốn sách này bắt đầu bằng cuộc chiến tranh năm 1898 và mô tả xuyên suốt Chiến tranh
Trung - Nhật năm 1937. Theo Griswold, các sự kiện lớn trong quan hệ của Mỹ với vùng

Footer Page 17 of 126.


Header Page 18 of 126.

14
Viễn Đông bao gồm thôn tính Philippines, ban hành công hàm “Mở cửa”, hòa giải trong
Chiến tranh Nga - Nhật, nỗ lực của chính quyền thời Taft nhằm kiến tạo một vị trí vững
chắc tại Trung Quốc, việc Wilson phản đối 21 yêu sách Nhật đưa ra đối với Trung Quốc
năm 1915, các hiệp ước bắt nguồn từ Hội nghị Washington, chính sách cấm người Nhật
Bản nhập cư vào Mỹ. Mặc dù Griswold xuất bản cuốn sách này ba năm trước khi xảy ra
trận Trân Châu Cảng, nhưng ông đã nhận thấy tầm quan trọng của những yếu tố kể trên
trong việc châm ngòi nổ cho chiến tranh Mỹ - Nhật. Đâu là những mối quan tâm của
nước Mỹ? Chính phủ Mỹ có nhận thức những mối quan tâm đó một cách đúng đắn hay
không? Nếu không thì tại sao? Chính phủ đã theo đuổi những chính sách nào? Tại sao?
Những chính sách đó có thành công hay không?
Việc người Mỹ lại một lần nữa thể hiện sự quan tâm đối với vùng Viễn Đông
vào cuối thế kỷ XIX đã thúc đẩy sự ra đời nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ
giữa Mỹ - Đông Á và chính sách ngoại giao của Mỹ đối với các nước Đông Á trong
những năm 20 của thế kỷ XX.
Tuy nhiên, một thực tế hiện hữu là các nghiên cứu về mối quan hệ Mỹ - Nhật

thời kỳ đầu khó tìm hơn so với các nghiên cứu về Trung Quốc. Trong cuốn American
Doctoral Dissertations on Asia, 1933-1958 (Các luận án tiến sĩ Mỹ về châu Á, 19331958), của Curtis W. Stuckf đã liệt kê ra 46 luận án về mối quan hệ Trung - Mỹ, trong
đó chỉ có 17 luận án đề cập đến thời kỳ trước thế kỷ XX và 4 luận án nói về thời kỳ
trước hiệp ước Cushing (giữa Trung Quốc và Mỹ, ký ngày 3/7/1844), tuy vậy, chúng
cũng góp phần hình thành cơ sở bước đầu cho việc hiểu biết một thời kỳ tích cực hơn
trong mối quan hệ đó, bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ XIX. Cuốn Aliens in the
East: A New History of Japan's Foreign Intercourse (Người nước ngoài ở phương
Đông: Một lịch sử quan hệ đối ngoại Nhật Bản), Philadelphia: University of
Pennsylvania Press, 1937 của Harry Emerson Wildes đã nghiên cứu cách tiếp cận của
phương Tây đối với Nhật vào những năm 60 của thế kỷ XIX, đặt các kinh nghiệm của
người Mỹ trong một bối cảnh rộng hơn và nhấn mạnh sự nhất quán trong hành động
phản đối của Nhật đối với sự xâm lược từ nước ngoài cả trước và sau chuyến đi của
Perry như là một lời giải thích cho vị thế và quan điểm của Nhật trong những năm
1930. Các mối quan hệ trước đó của các thương gia và các tàu săn cá voi được mô tả
trong những chương đầu của cuốn Yankees and Samurai: America's Role in the
Emergence of Modern Japan (Người Yankee và Samurai: Vai trò của Mỹ trong sự nổi

Footer Page 18 of 126.


Header Page 19 of 126.

15
lên của Nhật Bản hiện đại), New York: Harper & Row,1965 của Foster Rhea Dulles.
Dulles phân tích rằng mong muốn tìm hiểu lẫn nhau và mối quan tâm giữa Nhật và
Mỹ luôn là bản chất truyền thống trong mối quan hệ giữa hai quốc gia này ngay từ
đầu và rằng thời kỳ mất lòng tin và đẩy sự thù địch lên đến cực điểm dẫn đến Chiến
tranh Thế giới thứ hai chính là một sai lầm.
Từ năm 1853 đến 1895, một thời kỳ mà người Mỹ cho là mối quan tâm cũng
như khả năng của họ đã bị thu hẹp lại rất nhiều. Điều tương tự cũng có thể áp dụng để

nói về người Nhật, lần ra mắt thực sự của họ trên trường quốc tế đã không được thực
hiện cho đến tận sau Chiến tranh Trung - Nhật (1894 - 1895). Chỉ có việc nghiên cứu
sự liên quan của người Mỹ đối với những thay đổi quan trọng diễn ra trong nước Nhật
mới có thể giúp chúng ta tìm hiểu được nội dung quan trọng nhất của đề tài. Các học
giả đã gặp khó khăn trong việc tìm ra các chủ đề thống nhất cho toàn bộ thời kỳ này.
Tyler Dennett, trong quá trình tìm hiểu, có đưa ra khẳng định rằng Mỹ đã tuân thủ một
“chính sách hợp tác” hết sức nhất quán. Tuy nhiên, bằng thuật ngữ này, ông đã bao
hàm hai khía cạnh hết sức khác nhau: sự điều chỉnh của người Mỹ nhằm hài hòa hóa
chính sách của Mỹ với chính sách của Anh, Pháp và Nga đối với chính phủ Nhật và ý
định của Mỹ muốn tham gia “hợp tác hoặc hỗ trợ đối với Nhật Bản mà không cần bất
cứ thủ tục hoặc cam kết bằng văn bản nào”. Bên cạnh thái độ nước đôi này là sự thiếu
nhất quán trong hành động của Mỹ và lời biện hộ rằng “Mỹ đã không hủy bỏ quan hệ
hợp tác, Mỹ chỉ đơn thuần là thay đổi đối tác” trở thành một câu nói tổng kết không
mang nhiều ý nghĩa. Học giả Mỹ hàng đầu chuyên nghiên cứu về các mối quan hệ
Nhật - Mỹ trong thế kỷ XIX là Payson J. Treat của Đại học Stanford. Ông đã xuất bản
một nghiên cứu chuyên sâu từ các bài giảng của Albert Shaw về Lịch sử Ngoại giao,
cuốn The Early Diplomatic Relations between the United States and Japan, 18531865 (Mối quan hệ Ngoại giao thời kỳ đầu giữa Mỹ và Nhật, 1853-1865), Johns
Hopkins Press, 1917. Trong những bài giảng về sau tại Nhật, ông đã mô tả toàn bộ các
mối quan hệ đến thời điểm những năm 20 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, công trình lớn
nhất của Treat chính là công trình gồm hai tập, Mối quan hệ Ngoại giao giữa Mỹ và
Nhật, 1853 - 1895 (Diplomatic Relations between the United States and Japan, 1853 1895, Tokyo: Nihon Gaku-jutsu Shinkokai, 1965 cùng với một tập thứ ba mô tả
những tài liệu ghi chép đến năm 1905. Những nghiên cứu này được dựa trên một khảo
sát tỉ mỉ những tài liệu ngoại giao lưu trữ của Mỹ. Giáo sư Treat coi việc khảo sát này

Footer Page 19 of 126.


Header Page 20 of 126.

16

là cần thiết bởi vì trong số 2.180 chỉ thị được gửi tới các đại diện của Mỹ tại Nhật từ
năm 1855 tới 1894, chỉ có 194 chỉ thị được in trong các tập san Foreign Relations
(Quan hệ Ngoại giao) hàng năm, 8 chỉ thị được đưa vào các ấn phẩm chính thức khác;
trong số 4,433 thư tín được gửi bởi các nhà ngoại giao Mỹ tại Nhật từ năm 1856 tới
1894, chỉ có 599 bức thư tín được xuất hiện trong tập san Foreign Relations và 38
xuất hiện trong các tài liệu chính phủ khác. Tuy nhiên, công trình của Treat có khá
nhiều hạn chế, trong đó không đối chiếu được các tài liệu ngoại giao Nhật Bản hoặc
những lưu trữ tương tự của phương Tây.
Bên cạnh đó, còn có hàng loạt các tác phẩm được khảo cứu trong một khoảng
thời gian dài như "The United States and the Far East" (Mỹ và Viễn Đông), PrenticeHall, INC 1962 của Willard L.Thorp; "America encounters Japan (From Perry to
MacArthur)" (Cuộc "chạm trán" Mỹ - Nhật (từ Perry đến MacArthur) New York :
Harper & Row, 1965 của William L. Neumann; "American - East Asian Relations: A
survey" (Quan hệ Mỹ - Đông Á: một cuộc khảo sát), Harvard University Press, 1972
của Ernest R.May and James C.Thomson Jr; "The United States and East Asia”(Mỹ
và Đông Á), W.W. Norton Company. INC.New York 1973 của Van Alstyne, Richard
W (1973); "The clash - A history of U.S- Japan Relations" (Cuộc đụng độ - Lịch sử
các mối quan hệ Mỹ - Nhật), Walter LaFeber, 1997 của W W Norton & Co Inc;
Payson J.Treat với công trình “Japan and the United States 1853-1921” (Quan hệ
Nhật Bản - Mỹ 1853-1921), Roberts Press, 2009; các công trình của William Crane
Johnstone, Institute of Pacific Relations. American Council với “The United States
and Japan's new Order” (Mỹ và trật tự mới của Nhật Bản), Oxford University Press,
1941; Lawrence Henry Battistini với “Japan and America from earliest times to the
present” (Nhật Bản và Mỹ từ những tiếp xúc đầu tiên tới nay), Greenwood Press,
1954; Đặc biệt là tác phẩm The United States and Japan, New York: Viking Press,
1965 của Edwin O. Reischauer, một học giả có uy tín, đồng thời là nhà ngoại giao đã
từng có nhiều năm sống và làm việc tại Nhật Bản. Những tác phẩm trên là cơ sở quan
trọng cho việc tìm hiểu và giải quyết vấn đề luận án đề ra. Quan hệ Nhật - Mỹ trên tất
cả các lĩnh vực được dựng lên rõ nét với nhiều tư liệu phong phú. Đặc biệt, mối quan
hệ Nhật - Mỹ ngay từ khi mới bắt đầu được phân tích, đánh giá khá kĩ. Các câu hỏi vì
sao Mỹ đến và đặt mối quan hệ với Nhật? Mối quan hệ đó diễn ra như thế nào? Vai

trò của Mỹ trong sự trỗi dậy đi lên của Nhật Bản ra sao đều được chú ý luận giải.

Footer Page 20 of 126.


Header Page 21 of 126.

17
- Các học giả Trung Quốc
Quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ giai đoạn 1874-1931 được thể hiện qua
nhiều sự kiện nổi bật liên quan đến Trung Quốc, thậm chí diễn ra ngay trên lãnh thổ
Trung Quốc. Do vậy, việc tiếp cận với nguồn tư liệu ở Trung Quốc là điều rất cần
thiết. Trong điều kiện có hạn, chúng tôi chỉ tiếp cận được một số tác phẩm sau:
Chính sách Viễn Đông của Mỹ trong thời kì duy tân ở Nhật Bản (1868 - 1898),
Viện Thông tin KHXH, Hà Nội, 1977, của Thiệu Đình Huân đã được Trần Độ dịch
ra tiếng Việt. Đây là một trong số nguồn tư liệu ít ỏi đề cập đến quan hệ Nhật - Mỹ
giai đoạn 1868-1895 qua các sự kiện Nhật - Mỹ tấn công Đài Loan (1874), Chiến
tranh Trung - Nhật (1894-1895). Tuy nhiên, tác phẩm này mang nặng tính kể lể, mô
tả sự kiện và quan hệ Nhật - Mỹ được đề cập mờ nhạt hơn quan hệ Nhật - Trung.
Bên cạnh đó có một số bài báo đăng trên các tạo chí chuyên ngành như:
陶文钊:日美在中国东北的争夺(1905一1910)》,世界历史研究》杂志,2006年4
月(Đào Văn Chiêu: “Tranh chấp của Nhật - Mỹ tại Đông Bắc Trung Quốc giai đoạn
1905-1910”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử thế giới, số 4/2006);

高乐才:

《日俄战争前后美国远东扩张政策与日美对中国东北铁路的争夺》,东北师大学
报(哲学社会科学版) 2004 年第3期 (Cao Lạc Tài: “Chính sách bành trướng của Mỹ
ở Viễn Đông trước và sau chiến tranh Nga - Nhật với tranh chấp Nhật - Mỹ đối với
đường sắt tại Đông Bắc Trung Quốc”, Học báo ĐH Sư phạm Đông Bắc (bản KHXH

Triết

học),

spps

3/2004);

张建人:

二战以前日本在中国东

北的特殊利益

与日美冲突的源流》,西北第二民族学院学报(哲学社会科学版反),1991年第2
期 (Trương Kiến Nhân: “Lợi ích đặc biệt của Nhật Bản tại Đông Bắc Trung Quốc
trước Chiến tranh Thế giới thứ hai với nguồn gốc xung đột Nhật - Mỹ”, Học báo của
Viện Dân tộc học 2 của Tây Bắc, số 2/1991). 郎维成:《第一次世界大战前
后曰美俄对我国东北的争夺》,吉林师范大学学报,1979年第8期 (Lang Duy Thành:
“Tranh chấp Đông Bắc TQ giữa Nhật, Mỹ, Nga giai đoạn trước và sau Chiến tranh

Footer Page 21 of 126.


Header Page 22 of 126.

18
Thế giới thứ nhất”, Học báo ĐHSP Cát Lâm, số tháng 8/1979). Các bài viết này đã đề
cập đến quá trình tranh chấp giữa các đế quốc (đặc biệt là giữa Nhật, Mỹ, Nga) tại
Mãn Châu trên nhiều phương diện. Đây là những tư liệu hữu ích cho chúng tôi trong

việc luận giải vấn đề Mãn Châu trong quan hệ Nhật - Mỹ đầu thế kỉ XX.
Trong giới hạn khảo cứu những công trình có liên quan đến đề tài Luận án,
chúng tôi có thể rút ra một số nhận xét sau:
Ở trong nước, mảng nghiên cứu về quan hệ Nhật - Mỹ thời cận đại chưa nhiều,
đặc biệt là chưa có công trình chuyên khảo và hệ thống về “Quan hệ an ninh - chính
trị Nhật - Mỹ (1874-1931), nếu có chỉ là những nét sơ thảo hoặc đề cập đến một vài
khía cạnh riêng biệt của chủ đề.
- Có rất nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử hai nước Nhật, Mỹ, về chính sách
đối ngoại của hai quốc gia này, nhưng ở Việt Nam chưa có một công trình nào trực tiếp
chỉ ra những nhân tố tác động đến quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874-1931).
- Những công trình kể trên đề cập đến lịch sử quan hệ Nhật - Mỹ ở tất cả các lĩnh
vực, rất rộng, dàn trải. Đây là những tư liệu cần thiết, là cơ sở quan trọng để đi sâu tìm hiểu
quan hệ Nhật - Mỹ cũng như nhìn nhận, so sánh, đánh giá quan hệ Nhật - Mỹ trong phạm
vi đề tài. Tuy nhiên, một phần chủ đề của Luận án là quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ
cuối thế kỉ XIX, là khoảng thời gian quan hệ giữa hai chủ thể Mỹ - Nhật không diễn ra trực
tiếp, mà nó được thể hiện thông qua các quan hệ Nhật - Đài Loan, Nhật - Trung, Nhật Nga. Những tài liệu đề cập đến nội dung này rất ít, và nếu có cũng chỉ bàn về quan hệ song
phương Nhật - Trung, Nhật - Nga, chứ không tập trung làm rõ quan hệ Nhật - Mỹ.
Về quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ giai đoạn 1905 - 1931 với nội dung
chính là quan hệ Nhật - Mỹ trong vấn đề Mãn Châu, vấn đề người Nhật nhập cư vào
Mỹ và trong Hội nghị Washington được đề cập đến trong một số công trình với mức độ
nông sâu khác nhau và dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Đây là những thành quả để chúng
tôi kế thừa và giải quyết vấn đề luận án đặt ra. Tuy nhiên, vấn đề Mãn Châu mà các công
trình ấy đề cập đến rất rộng và đặt trong mối quan hệ giữa các nước lớn nói chung, chứ
không đi sâu phản ánh và luận giải nguyên nhân, biện pháp tiến hành, diễn tiến tranh
chấp giữa Nhật và Mỹ. Cũng tương tự như vậy, một số công trình đề cập đến vấn đề
người Nhật nhập cư vào Mỹ dưới góc độ phản ánh tình hình chính trị - xã hội của nước
Mỹ, chứ không phải là một khía cạnh của quan hệ an ninh Nhật - Mỹ.
- Nhìn chung, chưa có tác phẩm nào đề cập đến đặc điểm và tác động của quan

Footer Page 22 of 126.



Header Page 23 of 126.

19
hệ Nhật - Mỹ trên lĩnh vực an ninh - chính trị đối với hai chủ thể này và đối với khu
vực Đông Bắc Á.
- Ở nước ngoài, chính sách đối ngoại của Nhật, Mỹ và quan hệ Nhật - Mỹ được
giới nghiên cứu quan tâm và đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, nguồn tư liệu mà
chúng tôi tiếp cận được chủ yếu là những nghiên cứu tổng quan về chính sách đối ngoại
của Nhật, Mỹ, cũng như mối quan hệ Nhật - Mỹ nói chung. Hầu hết các tác phẩm đề cập
đến quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ tại một số thời điểm cụ thể, theo quan điểm, lập
trường, lợi ích quốc gia và tinh thần dân tộc. Do đó, một số vấn đề luận giải và đánh giá
chưa thực sự khách quan, đòi hỏi tiếp tục được nghiên cứu để có nhìn nhận thoả đáng hơn
về quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874 - 1931).
1.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu trước, khảo cứu, bổ sung
những nguồn tư liệu mới, chúng tôi hệ thống hoá các sự kiện và phân tích sâu hơn về
“Quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ (1874-1931)”. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng
mạnh dạn đưa ra những nhận xét, đánh giá để lí giải những vấn đề còn tồn tại trong nghiên
cứu quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ trên cơ sở các luận chứng, luận cứ. Cụ thể là:
- Chỉ ra các nhân tố tác động đến quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ, qua đó
làm rõ vai trò, vị trí, mức độ của các nhân tố tác động đến sự vận động, phát triển của
quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874-1931). Từ sự phân tích các nhân tố ảnh
hưởng, quá trình vận động của quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874-1931),
luận án rút ra đặc điểm của mối quan hệ này trong giai đoạn nghiên cứu. Kết quả
nghiên cứu của luận án giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn ngọn nguồn của mối quan hệ
này; nghệ thuật hoá giải nguy cơ, thách thức lịch sử của Nhật Bản qua việc phân tích,
lựa chọn đối tác và đường hướng phát triển.
- Tái hiện một cách khách quan, sinh động về quan hệ an ninh - chính trị Nhật Mỹ (1874 - 1931) thông qua chọn lọc, liên kết các sự kiện để thấy được sự vận động

của mối quan hệ này. Luận án cũng phản ánh mối quan hệ hợp tác, cạnh tranh trên cơ
sở chỉ ra mục tiêu bất biến và khả biến của mỗi bên trong hợp tác an ninh - chính trị
Nhật - Mỹ. Tìm ra cái bất biến để xâu chuỗi mối quan hệ trong hai giai đoạn và cái khả
biến để thấy sự tác động của nó đến cái bất biến (mục tiêu chiến lược). Bên cạnh đó, chỉ
ra nguyên nhân và sự chuyển biến từ mối quan hệ hợp tác sang cạnh tranh trong quan hệ
Nhật - Mỹ cũng là mục tiêu hướng tới của luận án.

Footer Page 23 of 126.


Header Page 24 of 126.

20
- Ngoài ra, trong công trình này, chúng tôi sẽ chỉ ra vị trí, đặc điểm, tác động của
quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874 - 1931) đến hai chủ thể Nhật, Mỹ và đến khu
vực châu Á - Thái Bình Dương (chủ yếu là Đông Bắc Á). Do vậy, kế thừa các thành tựu
nghiên cứu trên để góp phần luận giải các nội dung khoa học mà đề tài đòi hỏi, đóng góp
vào việc nghiên cứu quan hệ Nhật - Mỹ ở Việt Nam là mong muốn của tác giả.
Chương 2
QUAN HỆ AN NINH - CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN - MỸ
GIAI ĐOẠN 1874 - 1905
2.1. Những nhân tố tác động đến quan hệ an ninh - chính trị Nhật - Mỹ (1874 -1905)
2.1.1. Nhân tố địa lý và lịch sử
Nhật Bản là một quốc đảo được bao quanh bởi Thái Bình Dương, trải dài trên
3800 km theo hình cánh cung từ 20o25’ đến 45o33’ vĩ độ bắc. Tuy khí hậu khắc nghiệt
và nguồn tài nguyên có hạn, song bù lại, Nhật có nhiều hải cảng tốt, là nơi neo đậu an
toàn cho các đoàn tàu vượt đại dương.
Đối diện với Nhật Bản qua Thái Bình Dương là Mỹ - một quốc gia rộng lớn và
giàu tiềm năng. Vị trí nằm giữa hai biển lớn Thái Bình Dương và Đại Tây Dương là
điều kiện thuận lợi cho Mỹ phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản, phát triển kinh tế

biển và hải thương. Đối với con đường giao thương trên biển giữa Mỹ và phương
Đông, Nhật Bản là cầu nối quan trọng để thâm nhập vào các quốc gia châu Á và châu
Đại Dương. Trên con đường vươn sang phương Đông của Mỹ, Nhật quả là một tiêu
điểm hấp dẫn, vô cùng cần thiết đối với việc cung cấp nhiên liệu, lương thực, yếu
phẩm cho các chuyến vượt đại dương.
Vào giữa thế kỉ XIX, trước làn sóng xâm nhập của thực dân phương Tây, Nhật
Bản đã thực thi chính sách “đóng cửa”. Thế nhưng, Mỹ đã đưa Nhật vào tầm ngắm,
mong muốn biến nơi đây thành bàn đạp để tiến xa hơn nữa trong việc chinh phục
Trung Quốc và lục địa châu Á. Tham vọng của Mỹ đã được thể hiện rõ trong tuyên bố
của Bộ trưởng Ngoại giao John Quicy Adams:“Sứ mệnh của các quốc gia Cơ Đốc
giáo là mở cửa Nhật Bản và Nhật Bản phải đáp ứng điều đó. Cơ sở của sứ mệnh đó là
ở chỗ, không có một dân tộc nào lại có thể chối từ trách nhiệm của mình vì lợi ích của
toàn thể nhân loại” [115, tr.32].
Với lí do vì “lợi ích của nhân loại”, Mỹ đã sớm hướng tới Nhật Bản, song
những cố gắng của người Mỹ nhằm thiết lập quan hệ với Nhật Bản trong nửa đầu thế
kỷ XIX đều không thành công. Tuy nhiên, những thất bại này vẫn không làm suy

Footer Page 24 of 126.


Header Page 25 of 126.

21
giảm quyết tâm của người Mỹ. Năm 1853, Mỹ quyết định dùng vũ lực mở cửa Nhật
Bản. Đô đốc Matthew Calbraith Perry được giao trọng trách này và ông đã tạo ra bước
ngoặt mới trong quan hệ Nhật- Mỹ. Kết quả là ngày 31 tháng 3 năm 1854, Nhật đã
phải kí với Mỹ “Hiệp ước hoà bình và hữu nghị” (Hiệp ước Kanagawa), đặt dấu chấm
hết cho chính sách đóng cửa lâu dài với bên ngoài, “mở ra một thế cuộc mới trong quan
hệ quốc tế của Nhật Bản giai đoạn tiền Minh Trị” [24, tr. 491].
Trong vòng 4 năm (1854-1858), Nhật Bản đã phải ba lần kí hiệp ước nhân

nhượng Mỹ1. Trong các hiệp ước đó, bên cạnh những thỏa thuận về luật pháp và kinh
tế, thoả thuận hợp tác xây dựng lực lượng quân sự với Mỹ rất được chú trọng. Đến
giữa thế kỉ XIX, “Mỹ là trọng tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển lực lượng quân
sự của Nhật Bản. Và như vậy, sau hơn 200 năm, nguồn cung cấp quân sự của Hà Lan
được thay thế bằng tiềm lực quân sự hùng mạnh của Mỹ....” [24, tr. 496]. Nếu so sánh
những hiệp ước mà Nhật Bản kí với các nước khác thì những điều khoản kí với Mỹ đề
cập đến nhiều khía cạnh của quan hệ quốc tế. Đây chính là mối quan hệ trọng yếu và
có ý nghĩa chi phối các mối quan hệ khác. Điều này thể hiện rõ nét trong Hiệp ước
Yedo2 (1858): Tổng thống Hoa Kì, theo đề nghị của Chính phủ Nhật Bản, sẽ đóng vai
trò hoà giải thiện chí đối với các vấn đề khác biệt, có khả năng nảy sinh giữa chính
quyền Nhật Bản với các nước châu Âu [122, tr.28 - 29]. Bằng các hiệp ước kí với
Nhật Bản, Mỹ đã đạt được những thắng lợi lớn hơn về ngoại giao, được quyền can
thiệp sâu hơn vào chủ quyền của Nhật.
Như vậy, vào giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản cũng như các quốc gia châu Á nói
chung phải đối diện trực tiếp với sức ép mở cửa từ các nước phương Tây, với vấn đề
an ninh, chủ quyền. Sự xuất hiện của người Mỹ ngay từ buổi đầu đã hàm chứa yếu tố
an ninh- chính trị. Thông qua Hà Lan, Nhật nhận thức được rằng, vào thời điểm đó,
Mỹ là một thế lực mới, là một thế lực quân sự mạnh. Điều này đặt ra cho Nhật Bản
thách thức và vận hội. Dù không phải là quốc gia đầu tiên nỗ lực tìm cách để khai
thông lối vào Nhật Bản, nhưng sự xuất hiện của Mỹ giúp Nhật Bản có thêm cơ hội lựa
chọn đối tác tốt. Với ưu thế của một quốc gia tư bản trẻ, Mỹ đã gây nên hiệu ứng đặc
biệt tới “chính sách đóng cửa” của Nhật Bản. Trong hơn 200 năm cô lập trong ốc đảo,
Nhật Bản vẫn tìm cách kết nối với bên ngoài để nắm bắt được những chuyển biến cơ
bản của thế giới. “Nhật luôn có những đánh giá chính xác về sức mạnh văn hóa cùng
tiềm lực kinh tế, quân sự của từng nước để rồi đưa ra những quyết định lựa chọn đồng
1

Hiệp ước Kanagawa (31/3/1854), Hiệp ước Shimoda (17/6/1857), Hiệp ước Yedo (29/7/1858)

2


Tiếng Nhật là Hiệp ước Edo

Footer Page 25 of 126.


×