"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" và việc giải quyết vấn đề dân
tộc ở nước ta hiện nay
GẦN 160 NĂM trước đây, trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản", C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: "Hãy xoá bỏ tình trạng người
bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng
sẽ bị xoá bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ
dân tộc không còn nữa thì sự nô dịch giữa các dân tộc cũng đồng
thời mất đi". Tư tưởng đó của C.Mác và Ph.Ăngghen cho đến nay
vẫn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa các dân tộc không những trong cộng đồng quốc tế mà cả
trong cộng đồng quốc gia Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc,
trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam, nhất là trong giai
đoạn hiện nay. Bởi lẽ, sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, tình trạng áp bức
dân tộc, vấn đề đấu tranh sắc tộc vốn đã hết sức phức tạp lại càng
trở nên phức tạp hơn. ở nước ta, dẫu không có hiện tượng áp bức
dân tộc, không có đấu tranh sắc tộc, song vấn đề dân tộc không
phải không có gì đáng nói. Bởi vậy, kỷ niệm 150 năm ngày "Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản" ra đời, việc nhắc lại quan niệm của
C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc, thiết nghĩ, là cần thiết.
Khi đưa ra quan niệm đó trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản", C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, trong xã hội có giai cấp đối
kháng, vấn đề dân tộc luôn luôn mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp
quan niệm về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề chính trị đó đều
xuất phát từ quyền lợi của giai cấp mình.
Khi xuất hiện và tồn tại với tư cách một giai cấp, giai cấp tư
sản đã đóng một vai trò tiến bộ trong lịch sử nhân loại. Khi còn là
một giai cấp tiến bộ, giai cấp tư sản đã giương cao ngọn cờ dân
tộc, xoá bỏ chế độ phong kiến cát cứ, xây dựng thị trường thống
nhất, rộng lớn, thiết lập quốc gia dân tộc thống nhất, độc lập. Với
sự phát triển của giai cấp tư sản, với việc mở rộng tự do buôn bán,
thị trường thế giới, sự đồng đều của sản xuất công nghiệp và
những điều kiện sinh hoạt thích ứng với nền sản xuất ấy, C. Mác
và Ph.Ăngghen khẳng định, "những sự cách biệt dân tộc và những
sự đối lập giữa nhân dân các nước cũng ngày càng mất đi". Nhưng
sau đó, giai cấp tư sản không còn là giai cấp tiến bộ nữa, nó đã trở
thành phản động. Khi đó, nó đã lợi dụng ngọn cờ dân tộc, tinh thần
dân tộc để tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược các dân tộc
khác, để mở rộng thị trường, duy trì chế độ áp bức, bóc lột, duy trì
cái trật tự xã hội do nó thiết lập nên. "Nó buộc tất cả các dân tộc
phải thực hành phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị tiêu
diệt, nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh,
nghĩa là phải trở thành tư sản... Nó tạo ra cho nó một thế giới theo
hình dạng của nó... Nó đã bắt những dân tộc nông dân phải phụ
thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc
vào phương Tây".
Trong bối cảnh lịch sử cụ thể đó, cuộc đấu tranh để bảo vệ
nền độc lập, chống áp bức dân tộc đã gắn liền với cuộc đấu
tranh giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
lầm than để thoát khỏi ách áp bức bóc lột tàn nhẫn của giai
cấp tư sản.
Với tư cách là "giai cấp thực sự cách mạng", giai cấp vô sản,
trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, tất phải giương cao ngọn
cờ dân tộc trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử cao
cả của mình là: xoá bỏ mọi chế độ áp bức, bóc lột của chủ
nghĩa tư bản, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn - một chế
độ không có nạn người bóc lột người và do đó, xoá bỏ tận gốc
nạn áp bức, thù hằn, kỳ thị giữa các dân tộc. "Cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản,- C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ rõ, - dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc
đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân
tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh
toán xong giai cấp tư sản nước mình đã". Với tư tưởng đó, trong
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", C.Mác và Ph. Ăngghen khẳng
định: Chỉ khi nào chúng ta xoá bỏ được nạn người bóc lột người,
thì khi đó nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác mới vĩnh viễn bị
xoá bỏ và chỉ khi nào sự đối kháng giữa các giai cấp hoàn toàn bị
thủ tiêu, thì khi đó quan hệ thù địch giữa các dân tộc, sự cách biệt
dân tộc, sự đối lập giữa nhân dân và dân tộc các nước mới được
xoá bỏ triệt để.
Với tư tưởng đó, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra rằng
muốn giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc trong một quốc
gia đa dân tộc, chúng ta phải gắn liền nó với cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa và dựa trên cơ sở của cuộc cách mạng ấy. Rằng chỉ
có đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét và
giải quyết vấn đề dân tộc, chúng ta mới đảm bảo được lợi ích căn
bản và bền vững cho các dân tộc, mới thiết lập được sự bình đẳng
giữa các dân tộc và bảo đảm cho mọi dân tộc được phát triển bình
đẳng trong cộng đồng các dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc - Tổ quốc của hơn 54
dân tộc anh em. Các dân tộc ít người tuy chỉ chiếm 13% dân số,
nhưng lại cư trú rải rác trên những vùng núi cao, cao nguyên và
nơi biên cương xa xôi của Tổ quốc. Đó là những vùng lãnh thổ
rộng lớn, có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, môi trường
sinh thái, nhất là về chính trị và an ninh quốc phòng.
Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, các dân tộc
anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đã đoàn kết chặt chẽ,
chung lưng, đấu cật xây dựng đất nước Việt Nam thống nhất. Họ
đều có ý thức về một Tổ quốc chung, đều thừa nhận tiếng Việt là
ngôn ngữ chung trong quan hệ giao tiếp. Họ có lòng tự hào dân
tộc, lòng yêu nước thiết tha và tính cộng đồng. Họ luôn hướng về
một Tổ quốc Việt Nam thống nhất, đa dân tộc.
Thấm nhuần quan niệm về dân tộc, về sự kết hợp giữa cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa của các
nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản", Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ khi mới
thành lập, đã coi vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề
có tầm quan trọng chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân cũng như trong giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết đúng đắn vấn đề dân
tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc là một nhiệm vụ có tầm chiến
lược nhằm phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm
năng riêng của từng dân tộc, tạo nên nguồn động lực nội sinh để
giành thắng lợi trong các cuộc cách mạng.
Đứng vững trên lập trường tư tưởng của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác và vận dụng một cách sáng tạo quan niệm của các ông
về vấn đề dân tộc vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta, với đặc trưng
riêng có của vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc ở
nước ta hiện nay, Đảng ta đã đề ra và thực hiện một chính sách dân
tộc nhất quán.
Với đường lối đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng, Đảng ta đã khẳng định: "Sự phát triển mọi mặt của
dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc
trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là
một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất
không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong
bản sắc của mỗi dân tộc. Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn
tồn tại lâu dài và là một lĩnh vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các
mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng đối với những gì
liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi
người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng "dân tộc
lớn" và những biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi". Với đường
lối đó, Đảng ta chủ trương phát triển mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó
giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau,
cùng làm chủ tập thể, kết hợp phát triển kinh tế và phát triển xã
hội, đẩy mạnh sản xuất và chăm lo đời sống cho mọi người dân
thuộc tất cả các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Đường lối đó, chủ trương đó đã được Đảng ta tiếp tục khẳng
định tại Đại hội lần thứ VII của Đảng. Và một lần nữa, đường lối,
chủ trương nhất quán đó đã được Đảng ta khẳng định tại Đại hội
VIII của Đảng. "Trong thời kỳ mới của công cuộc xây dựng đất
nước, - Đảng ta chỉ rõ, - nhân dân ta càng có điều kiện mở rộng
khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng. Đoàn kết các giai
cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi,
mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam sống trong nước
hay định cư ở nước ngoài". Đảng ta chủ trương phát huy sức mạnh
của cả cộng đồng dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước và lòng
tự hào dân tộc vì mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên
dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, văn minh, lấy mục tiêu này
làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau
không trái với lợi ích chung của dân tộc. Nhằm thúc đẩy phong
trào cách mạng của nhân dân ta lên một trình độ mới, Đảng ta
khẳng định chúng ta cần xây dựng và thực hiện những chính sách
cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc trong cả nước
để tạo ra những động lực mới. Và hơn nữa, từ quan niệm cho rằng
"vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn", Đảng ta chủ trương thực
hiện "bình đẳng, đoàn kết, tương trợ" giữa các dân tộc trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta khẳng
định, để thực hiện chủ trương đó, chúng ta cần "xây dựng luật dân
tộc" và từ nay đến năm 2000, bằng nhiều biện pháp tích cực và
vững chắc thực hiện được 3 mục tiêu chủ yếu: "xoá được đói, giảm
được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khoẻ của
đồng bào các dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xoá
được mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn
hoá tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ
cán bộ, đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch
và vững mạnh".
Với đường lối và chủ trương đó, Đảng ta chỉ rõ việc phát
triển kinh tế hàng hoá ở miền núi - vùng các dân tộc thiểu số cư
trú, phải phù hợp với từng vùng, từng dân tộc, tạo điều kiện thuận
lợi cho đồng bào dân tộc vừa khai thác được thế mạnh của địa
phương (thế mạnh về đất rừng), vừa bảo vệ được tài nguyên vùng
cao, giữ được sự cân bằng về sinh thái, bảo đảm cho một sự phát
triển bền vững và làm sao cho đồng bào các dân tộc thiểu số vừa
làm giàu được cho chính mình, vừa đóng góp vào sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ tốt vùng biên ải rộng lớn của Tổ quốc, bảo vệ tốt tài
nguyên đất rừng trong tiến trình mở rộng giao lưu quốc tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vấn đề hết sức quan trọng là tìm ra và xây dựng những giải
pháp tối ưu để khắc phục sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá do điều
kiện tự nhiên và lịch sử để lại giữa người kinh và các dân tộc ít
người, thực hiện sự bình đẳng thực sự giữa các dân tộc. Sự bình
đẳng giữa các dân tộc, Đảng ta khẳng định, chỉ có thể thực hiện
từng bước trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, từ tất cả những vấn đề đã nói trên, chúng ta có thể khẳng
định rằng: Tuy ra đời đã GẦN 160 năm nay, nhưng những quan
điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc trong "Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản" vẫn có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam , đặc biệt là trong việc
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân
tộc, nhằm tăng cường sự đoàn kết giữa các dân tộc, giữ vững được
sự ổn định về chính trị, xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường, ngăn
chặn có hiệu quả âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoại sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta, để tạo ra sức
mạnh tổng hợp của toàn dân, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh".