quan niệm của C.Mác và Ph. Ăng ghen về văn hoá, văn nghệ
trong "tuyên ngôn của đảng cộng sản"
Có thể nói, người am hiểu chủ nghĩa tư bản sâu sắc nhất
trong vài thế kỷ nay là Các Mác, và cũng chính Mác là người bất
bình sâu sắc nhất đối với chủ nghĩa tư bản. Một trong những điều
mà chủ nghĩa tư bản làm cho Mác bất bình là: Chủ nghĩa tư bản
làm cho văn hoá, văn nghệ bị tha hoá, bị đánh mất thiên chức sáng
tạo của nó.
Trình bày mối quan hệ vô sản - tư sản trong "Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản", Mác và Ăngghen đã viết: "Giai cấp tư sản tước
hết hào quang thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay vẫn
được trọng vọng và tôn sùng. Bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác học
đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê được trả
lương của nó". Phân tích mối quan hệ giữa những người cộng sản
với những người vô sản, Mác và Ăngghen chỉ rõ: Những lời buộc
tội của giai cấp tư sản "nhằm chống lại phương thức cộng sản chủ
nghĩa của sự sản xuất và chiếm hữu những sản phẩm vật chất được
tung ra, cũng là nhằm chống lại sự sản xuất và chiếm hữu những
sản phẩm tinh thần. Nếu đối với người tư sản, sở hữu giai cấp bị
thủ tiêu có nghĩa là chính sản xuất cũng bị thủ tiêu, thì đối với họ,
văn hoá giai cấp bị thủ tiêu, cũng có nghĩa là văn hoá nói chung bị
mất đi. Cái văn hoá mà người tư sản than tiếc là bị tiêu diệt đi đó,
thì đối với tuyệt đại đa số, chỉ là việc biến họ thành vật phụ thuộc
vào máy móc mà thôi".
ý kiến của Mác và Ăngghen đã tỏ rõ sự bất bình của các ông
vì chủ nghĩa tư bản làm cho văn hoá, tư tưởng, văn học, nghệ thuật
bị tha hoá. ý kiến đó vô cùng phong phú, sâu sắc và được thể hiện
trên rất nhiều bài nói, nhiều trang viết của hai ông. ở đây, chỉ xin
đề cập tới một số ý kiến của riêng Mác về uy quyền của đồng tiền
đối với văn hoá, văn nghệ - những ý kiến thật đáng để chúng ta suy
nghĩ, nghiên cứu một cách có hệ thống lúc đất nước đang chuyển
từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế
thị trường.
Trình bày "Lý luận về giá trị thặng dư", Mác đã chỉ rõ "sản
xuất tư bản chủ nghĩa phản lại một số ngành sản xuất tinh thần như
nghệ thuật và thi ca" như thế nào. Trong bộ "Tư bản, ở tập 1, Mác
vạch rõ: Chủ nghĩa tư bản biến tác phẩm nghệ thuật thành hàng
hoá. Dưới chế độ tư bản "không có cái gì là không thể dùng tiền
mua được, bất cứ cái gì cũng có thể bán và mua! ". Mác ví sự lưu
thông trong xã hội tư bản như là một "cái lò luyện đan" khổng lồ
mà, qua cái lò đó, "tất cả mọi vật đều phân hoá, để khi trở ra đều
biến thành tiền". Rằng: Trong xã hội tư bản "không có cái gì thoát
khỏi cái lò luyện đan đó, ngay cả đến xương thánh...".
Nhằm làm rõ tư tưởng rằng, trong xã hội tư bản đồng tiền là
"kẻ triệt để san bằng tất cả mọi vật... xoá bỏ tất cả mọi sự khác
nhau", Mác đã dẫn ra một đoạn trong tác phẩm "Taimơn ở Aten"
(Timon d' Athènes) - một vở kịch nổi tiếng của Sếchspia, và ông
khẳng định:
"Vàng, hoàng kim óng ánh, quý giá vô ngần!...
"Chỉ bấy nhiêu cũng đủ để đổi trắng thay đen, biến xấu thành tốt,
biến kẻ gian thành người ngay, hèn mọn thành cao sang, già cả
thành trẻ trung, khiếp nhược thành dũng cảm!...
"Đó là cái gì? hỡi các đấng thần linh bất tử.
"Đó là một vật nó làm cho những người linh mục của các vị và đệ
tử của họ ngoảnh mặt làm ngơ đối với bàn thờ các vị...
"Tên nô lệ màu vàng ấy đã phá huỷ tôn giáo của các vị, làm
cho những kẻ độc ác được hưởng phúc lành, làm cho những kẻ ghê
tởm được tôn sùng, đặt bọn trộm cắp lên ghế thượng nghị sĩ và làm
cho bọn chúng được hưởng chức tước, danh vọng và được người
quỵ luỵ.
"Nó làm cho người goá bụa, già nua, tàn tạ trở thành cô dâu
mới!".
Sếchspia đã "miêu tả bản chất của tiền tệ rất đúng", đã "đặc
biệt nhấn mạnh hai thuộc tính của tiền tệ":
1) Tiền tệ là thần linh có thể thấy được, là sự chuyển hoá tất
cả những thuộc tính người và tự nhiên thành mặt đối lập của
chúng, là sự lẫn lộn và sự xuyên tạc phổ biến các sự vật; nó thực
hiện sự kết hợp mật thiết của những cái không thể được.
2) Nó là nàng hầu phổ biến, là người trung gian phổ biến của
người ta và của các dân tộc"1 . Mác phân tích: Đồng tiền có thể
mua được mọi thứ hàng hoá, nhưng chính đồng tiền cũng là một
thứ hàng hoá, một vật có thể rơi vào tay bất cứ người nào. Vì thế,
cái thế lực có tính chất xã hội trở thành thế lực tư hữu tư nhân. Cho
nên xã hội cổ đại mới lên án đồng tiền, cho nó là kẻ khuynh đảo, là
kẻ làm tan rã mạnh nhất tổ chức kinh tế và phong tục dân gian của
xã hội đó" mà nhà bi kịch nổi tiếng thời Hy Lạp Xôphôccơlơ đã
phản ánh rất sắc nét trong vở Antigôn (Antigone) như sau: "Trong
loài người không có cái gì như đồng tiền. Nó đã đẻ ra những đạo
luật xấu xa và những phong tục đồi bại. Chính nó đã gây ra to tiếng
ồn ào ở thành thị và làm cho dân cư phải mất cửa, mất nhà. Chính
nó đã hướng những tâm hồn trong sạch nhất đi theo tất cả những
cái gì là nhục nhã và tai hại đối với con người và dạy cho những
tâm hồn đó gặp việc gì cũng lợi dụng được để làm điều ác và điều
vô đạo".
Sự tàn bạo của chế độ tư bản đối với tự do chân chính của
văn nghệ sĩ là một trong những điều Mác rất quan tâm và nhiều lần
ông đã tỏ ra bất bình. Ngay từ hồi còn trẻ, trong loạt bài tranh luận
về tự do của người cầm bút đăng trên báo Rênani, Mác đã viết: "Dĩ
nhiên là nhà văn phải kiếm tiền để có thể sống và viết, nhưng dù
sao, nhà văn cũng không nên sống và viết để kiếm tiền". Rằng:
"Nhà văn quyết không bao giờ coi tác phẩm của mình là một
phương tiện. Những tác phẩm ấy là những mục đích tự thân, những
tác phẩm ấy căn bản không phải là phương tiện đối với chính nhà
văn và đối với những người khác. Cho nên nhà văn hy sinh cuộc
đời của mình cho sự sống còn của các tác phẩm đó khi cần thiết".
Mác đã phân tích về địa vị của văn nghệ sĩ trong xã hội tư
bản chủ nghĩa một cách vô cùng sâu sắc trong tác phẩm "Học
thuyết về giá trị thặng dư": "...Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
không phải chỉ là sản xuất hàng hoá. Đó là quá trình thu hút lao
động không trả công và biến tư liệu sản xuất thành phương tiện thu
hút lao động không trả công... Cùng một loại lao động...mà có thể
là lao động sinh lợi hoặc là lao động không sinh lợi".
Vào thế kỷ XVII, ở Anh có một nhà thơ tên là Giôn Mintơn
(1608 - 1674). Lúc về già Mintơn sống nghèo khổ, mù loà. Lúc bị
người đời bỏ quên, ông đã đọc cho vợ và hai con gái chép tập thơ
trứ danh nhan đề: "Thiên đàng đã mất". Và đó là tác phẩm bất tử
của ông. Mác đã gọi Mintơn, tác giả cuốn "Thiên đàng đã mất" là
một "người lao động không sinh lợi". Ngược lại, theo Mác, "nhà
văn nào làm việc cho một nhà xuất bản như một người làm công
cho một ngành công nghiệp thì nhà văn đó là một lao động sinh
lợi. Mintơn sáng tác ra tập thơ "Thiên đàng đã mất" giống như một
con tằm nhả tơ. Đó là một biểu hiện của bản chất ông ta. Về sau
ông bán tác phẩm đó với giá năm đồng bảng Anh. Nhưng, những
nhà văn vô sản ở Laixích, dưới sự điều khiển của một nhà xuất
bản, đã làm ra những cuốn sách, ví dụ như những sách giáo khoa
về kinh tế - chính trị, thì những người đó là những công nhân sinh
lợi. Bởi vì sự sản xuất của họ, ngay từ đầu đã bị lệ thuộc vào tư
bản và chỉ thực hiện để đem lại lợi nhuận cho tư bản. Mác cho rằng
tính chất lao động nghệ thuật của giới ca nhạc dưới chế độ tư bản
cũng như vậy: "Một nữ ca sĩ bán tiếng hát của mình vì lợi ích của
bản thân mình là một người lao động không sinh lợi. Nhưng nếu
nữ ca sĩ ấy lại đi làm thuê cho một ông bầu và đem tiếng hát của
mình để kiếm tiền cho ông ta thì nữ ca sĩ đó là một lao động sinh
lợi. Bởi vì nữ ca sĩ ấy đã sản xuất ra tư bản". Về lao động nghệ
thuật sân khấu, Mác phân tích: "... Một diễn viên sân khấu, một
anh hề cũng đều là công nhân sinh lợi nếu họ làm việc cho một nhà
tư bản (cho một ông bầu) và bỏ lao động ra cho hắn nhiều hơn là
nhận được của hắn trả dưới hình thức tiền công, còn người thợ
khâu, đến tại nhà tên tư bản để vá quần đùi cho hắn, chỉ cung cấp
cho hắn một giá trị tiêu dùng, thì như thế, người ấy chỉ là một công
nhân không sinh lợi mà thôi. Lao động của người diễn viên đổi lấy
tư bản, còn lao động của người thợ khâu đổi lấy thu nhập. Trường
hợp thứ nhất, tạo ra giá trị thặng dư, trường hợp thứ hai là tiêu
dùng thu nhập". Như vậy, theo Mác "nhà văn là một công nhân
sinh lợi, không phải vì anh ta sản xuất ra tư tưởng, mà bởi vì anh ta
làm giàu cho nhà xuất bản nhận in và phát hành tác phẩm của anh
ta: Nghĩa là vì anh ta là người làm công cho một nhà tư bản".
Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", Mác và Ăngghen
trình bày rất cô đúc tư tưởng về văn hoá, nghệ thuật; nhưng những
chỉ dẫn của các ông cho đến nay, vẫn mang ý nghĩa thời sự nóng
hổi trong quá trình xây dựng xã hội mới với một nền văn hoá tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Nếu gắn các hoạt động văn hoá, văn nghệ của chúng ta với
hoàn cảnh vô cùng khó khăn, phức tạp về chính trị, kinh tế, xã hội
của đất nước trong hơn hai thập kỷ qua, chúng ta phải thấy là
chúng ta đã đạt được những thành tựu cũng khá to lớn. Tuy nhiên,
cũng chính trên lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, cho đến nay, chúng ta
lại vẫn còn thấy tồn tại nhiều điều mà Mác đã từng bất bình, đã
từng phẫn nộ. Những ảnh hưởng xấu từ nhiều phía, cộng với
những tàn dư của văn hoá, văn nghệ cũ vẫn còn ăn sâu trong một
số công chúng, tạo ra những yêu cầu thưởng thức và thị hiếu thẩm
mỹ tầm thường, lạc lõng, thậm chí sai trái, cuốn hút một số người
làm văn hoá, văn nghệ không có chỗ đứng vững vàng, chạy theo
những dịch vụ văn hoá có lợi nhuận cao; chạy theo những đề tài
"ăn khách", những đề tài "vô thưởng, vô phạt" để tạo "vòng quay"
nhanh, kiếm tiền nhanh. Một số không ít người chịu ảnh hưởng của
những cung cách hoạt động kinh doanh văn hoá, văn nghệ mang
màu sắc "chụp giựt" của thị trường văn hoá, văn nghệ tư bản chủ
nghĩa, của thời chiến tranh thực dân xâm lược, bị tan rã sau ngày
giải phóng, nay thấy đất nước chuyển qua kinh tế thị trường, họ
bèn chớp ngay lấy cơ hội, bung ra tự thân mình và lôi kéo cả các
thế hệ sau phục hồi và phát triển các cung cách làm ăn với mục
đích thuần tuý trục lợi, làm ăn theo lối cũ... Tất cả những thứ đó
như là những độc tố tiềm tàng, chồng chất và có dịp buông lơi, sơ
hở về mặt quản lý là nó bộc lộ ngay thành những đợt phản kích,
chống chúng ta một cách ác liệt mà những năm vừa qua có thể cho
chúng ta nhiều ví dụ sôi động.
Do lịch sử của đất nước mấy thập kỷ qua cùng những biến
chuyển phức tạp của thế giới, cộng với sự chống phá bằng nhiều
cách, từ nhiều phía của những người vẫn đeo bám dai dẳng sự thù
địch với chúng ta mà các yếu tố sai trái vẫn tồn tại; và không phải
không có lúc, có nơi các yếu tố sai trái đó đã tác động làm chệch
hướng một số hoạt động văn hoá, văn nghệ không được chỉ đạo,
quản lý sát sao. Đó là một sự thực tồn tại ngoài ý muốn của chúng
ta, và suy cho cùng cũng là một sự thực mang tính tất yếu. Chính
Mác, trong tác phẩm "Ngày 18 tháng Sương mù của Lui
Bônapáctơ" đã xác nhận: "Con người làm ra lịch sử của mình,
nhưng không phải họ làm theo ý muốn tuỳ tiện của họ, trong
những điều kiện tự chọn, mà làm trong những điều kiện nhất định,
trực tiếp và sẵn có do quá khứ để lại. Truyền thống của tất cả các
thế hệ đã qua đè rất nặng lên đầu óc của những người đang sống".
Qua ý kiến này chúng ta cảm thấy dường như Mác đã nhìn rõ thực
trạng của chúng ta hiện nay. Mác đã thấy và Mác cũng đã chỉ ra
cho chúng ta những cách khắc phục.
Trong nỗi lo toan của chúng ta nhằm xác định một hệ thống
lý luận về một chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, một hệ thống lý
luận về văn hoá, văn nghệ của Việt Nam đổi mới, có một phần là
nỗi lo toan trong việc nhận định lại quá khứ văn hoá, văn nghệ
cách mạng; nhận định về quá trình cư xử, quá trình tổ chức đời
sống cho những người làm văn hoá, văn nghệ; quá trình đánh giá,
sử dụng tác phẩm văn hoá, văn nghệ trong quá khứ cách mạng...
Chúng ta xác định rằng có cái đúng lúc bấy giờ, nhưng bây giờ
không còn thích hợp nữa; có cái lúc bấy giờ làm như thế là sai và
có cái lúc bấy giờ làm như vậy là đúng và cho đến nay vẫn đúng,
vẫn hay, vẫn có thể áp dụng và phát triển trên một bình diện mới,
trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Sự xác định đó mang tinh thần
và tư tưởng của Mác và đó là một trong những cơ sở để cho chúng
ta tạo dựng nên những thành tựu mới. Thành tựu của hiện tại, của
tương lai sẽ không bao giờ có nếu chúng ta chỉ ca ngợi, tung hô
quá khứ theo phương hướng tô hồng. Và mặt khác, thành tựu đó
cũng sẽ không bao giờ đến nếu chúng ta bôi đen quá khứ, phủ nhận
sạch trơn quá khứ; khư khư bảo vệ cho quan niệm "đổi mới phải là
khác cũ" để rồi giao trách nhiệm cho việc "đổi mới là phải phủ
định..."! Chúng ta đổi mới trên tinh thần phê phán và loại trừ cả hai
thứ cực đoan đó đối với quá khứ.
Một nỗi lo toan cụ thể hơn là: Cần xoá bỏ, loại trừ các sai
trái, xấu xa trong quá khứ văn hoá, văn nghệ của ta để đi đến cái
tốt đẹp, đúng đắn mới. Nhưng liệu chừng công chúng còn chịu ảnh
hưởng của cái cũ đến đâu và sẽ tiếp nhận cái tốt đẹp, đúng đắn mới
này ở mức độ nào? Trong "Lời mở đầu" cuốn "Góp phần phê phán
khoa kinh tế chính trị", Mác đã viết: "Sản xuất không những đem
lại những vật liệu cho các nhu cầu, mà cũng đem lại cả nhu cầu
cho các vật liệu nữa... Cái nhu cầu mà sự tiêu dùng cần đòi hỏi ở
đối tượng đó là do sự nhận biết đối tượng đó làm phát sinh ra. Tác
phẩm nghệ thuật - và mọi sản phẩm nghệ thuật khác cũng thế - đều
tạo ra một thứ công chúng sính nghệ thuật cao và có khả năng
thưởng thức cái đẹp. Như vậy là sản xuất không những chỉ sản sinh
ra một đối tượng cho chủ thể, mà còn sản sinh ra một chủ thể cho
đối tượng". Lời chỉ dẫn đó của Mác cách đây đã hơn một trăm năm
hôm nay lại vang lên đối với văn nghệ sĩ của chúng ta ngày nay:
Hãy sáng tạo ra những tác phẩm thật tốt, thật hay. Chính những tác
phẩm ấy sẽ tạo ra nơi công chúng cũ những nhu cầu và những khả
năng tiếp nhận mới! Cũng như trong "Lời nói đầu" cuốn "Góp
phần phê phán khoa kinh tế chính trị", Mác đã chứng minh rằng:
"Đối với nghệ thuật thì có những thời kỳ phồn thịnh nhất định,
tuyệt nhiên không có quan hệ gì với sự phát triển chung của xã hội,
và do đó, cũng tuyệt nhiên không có quan hệ gì với cơ sở vật
chất...", tức là sản xuất vật chất và nghệ thuật có thể phát triển theo
một tỷ lệ không đều nhau. ý kiến đó gợi cho chúng ta nhiều suy
nghĩ liên quan đến một vấn đề thuộc loại nóng bỏng nhất hiện nay:
Phải chăng kinh tế nào thì chỉ có văn hoá, văn nghệ ấy? Và từ đó
có thể giúp chúng ta củng cố một niềm tin vào khả năng mình
trong việc sản sinh ra một nền văn hoá, văn nghệ phồn thịnh ngay
sau hai cuộc kháng chiến lâu dài, khốc liệt và ngay trong thời kỳ
sản xuất vật chất còn chưa tiếp cận được với các nước tiên tiến,
thậm chí còn lạc hậu, còn mang tính chất hậu chiến với vô vàn gian
khổ, khó khăn.
Cảm ơn đôi mắt thần của Các Mác đã nhìn xuyên qua quá
khứ tới tương lai không phải của chỉ một nước Đức, một châu Âu
mà của cả Việt Nam, cả thế giới.
Chúng ta chỉ nhắc lại vài khía cạnh bé nhỏ trong kho tàng tri
thức khổng lồ của Mác cũng đủ để nhớ ơn Ông và để suy ngẫm suy ngẫm trong mối liên hệ tổng thể với một kỳ tích thuộc loại lớn
nhất mà Mác đã đóng góp đối với sự phát triển tư tưởng loài
người: Phương pháp biện chứng mácxít. Việt Nam long trọng kỷ
niệm 150 năm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" chứng tỏ với Mác
và Ăngghen rằng: Cái "bóng ma chủ nghĩa cộng sản" cho đến tận
cùng của thế kỷ XX không chỉ "ám ảnh châu Âu".