MỘT SỐ PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH CỦA BÁC TRONG VIỆC
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ muôn vàn kính yêu của chúng ta. Người
không những là một nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sự thiên tài, nhà ngoại
giao kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới mà
tư tưởng của Người để lại như một cuốn "Bách khoa toàn thư" có giá trị
chân lý sâu sắc. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một bản anh hùng ca
bất hủ ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Trái tim của
Người đã ngừng đập hơn gần 50 năm nhưng tên tuổi và sự nghiệp của Người
còn sống mãi với non sông đất nước ta, sống mãi trong lòng mỗi người dân
Việt Nam. Chính vì vậy mà cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh đã và đang được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
hưởng ứng một cách có hiệu quả.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Là kết quả của sự
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại nhằm giải phóng dân tốc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Cội nguồn của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm cả những nhân tố
khách quan và chủ quan. Trong đó nhân tố khách quan là nhân tố có trước
ngoài ý muốn chủ quan của Hồ Chí Minh mà bằng năng lực chủ quan Hồ Chí
Minh có thể nhận thức được để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối
với nhân tố chủ quan là những nhân tố thuộc về phẩm chất cá nhân riêng có
của Hồ Chí Minh , nhờ đó mà Người có thể nhận thức đúng nhân tố khách
quan để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh . Giữa nhân t khách quan và
nhân tố chủ quan có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời trong
đó nhân tố khách quan là hết sức quan trọng không thể thiếu trong việc hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh còn nhân tố chủ quan giữ vai trò quyết định đến
việc hình thành tư tưởng vĩ đại của Người. Trong phạm vi bài viết này tôi xin
trình bày một số nhân tố chủ quan trong việc hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh .
2
Trước hết, ta có thể khẳng định rằng: Hồ Chí Minh là một người có tri
thức uyên bác. Người uyên bác trong việc đánh giá về thời cuộc, về kẻ thù và
khả năng giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam, sinh ra trong một gia đình
nhà giáo nghèo yêu nước, sớm được chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, ngay
từ thủa thiếu thời trong con người của Bác đã xuất hiện những tố chất đặc biệt
"thông minh hơn người". Ở chạc tuổi 13 khi còn cắp sách tới trường Bác đã
được tiếp cận và có những suy nghĩ về nghĩa của cụm từ "tự do, bình đẳng,
bác ái", ý nghĩa của nó ra sao thì Bác chưa hiểu và người quyết định tìm hiểu
xem thực chất của nó là như thế nào.
Ngày 5/6//1911 tại bến cảng Nhà Rồng, Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu
nước. Người không theo những con đường của Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh hay Hoàng Hoa Thám… mà Người đã quyết định lựa chọn cho mình một
con đường riêng, đó là đi sang phương Tây, vì Người suy nghĩ rằng: Nơi đây
có nền văn minh phát triển là quê hương của "tự do, bình đẳng, bác ái" là chủ
nhân của những kẻ đi sang An Nam khai phá văn minh, để chứng kiến nền văn
minh của họ là gì? Hành trang mà người mang theo không có gì ngoài hai bàn
tay trắng, lòng yêu nước và trí căm thù giặc sâu sắc. Trong suốt chặng đường
tìm đường cứu nước của mình Người đã phải làm nhiều công việc khác nhau
để kiếm sống như bồi bàn, quét tuyết, vẽ tranh, làm báo… Người đã vượt qua 3
đại dương, 4 châu lục và 30 nước trên thế giới để rồi Người đã tình cờ bắt gặp
chủ nghĩa Mác - Lênin như một cuộc "hẹn hò lịch sử":
Luận cương đến và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
..."Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
Cơm áo là đây, hạnh phúc đây rồi
Hình của Đảng lồng trong hình của nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười"
(Chế Lan Viên)
Từ đây con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam đã dần dần được hình
thành và hình ảnh của đất nước Việt Nam không còn đói khổ đã hiện lên
trong tâm trí Bác.
3
"Bác thấy dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt
Ruộng theo trâu về lại với người cày
Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng biển bạc
Không còn người bỏ xác trên đường ray"
Và với tri thức uyên bác của mình, Bác đã từng bước vận dụng một cách
linh hoạt hiệu quả chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam để rồi
"Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc".
Cũng nhờ tố chất thông minh của Người, Bác đã có những dự đoán
"thiên tài" về chiều hướng phát triển của cách mạng Việt Nam . Sau 30 năm
bôn ba tìm đường cứu nước, năm 1941 Bác đã về nước. Hoàn cảnh đất nước
bấy giờ gặp muôn vàn khó khăn, kẻ thù đã và đang bóc lột nhân dân ta một
cách thậm tệ, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, 1 cổ 2 tròng. Song Người
đã đưa ra nhận định "Năm 1945 cách mạng Việt Nam sẽ thành công". Tin
theo Người toàn thể dân tộc Việt Nam đã "đưa cách mạng tháng tám thành
công, và ngày 02/09/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Bác Hồ đã đọc
bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á. Sau năm 1945 nhà nước Việt Nam
non trẻ vừa mới thành lập song phải đứng trước tình trạng "ngàn cân treo sợi
tóc", vì cùng một lúc phải đối mặt với 3 thứ giặc đó là giặc đói, giặc dốt và
giặc ngoại xâm. Đất nước bị kẻ thù bao vây 4 phía nhằm tiêu diệt chính quyền
Việt Nam non trẻ vừa mới được khai sinh. Trong hoàn cảnh ấy với sự sáng
suốt của mình Bác đã nhận định trước sau thì kẻ thù cũng tự dàn xếp với nhau
và chỉ còn 1 kẻ thù quay lại xâm lược nước ta là thực dân Pháp. Đồng thời
bằng trí thông minh sáng suốt của mình, bằng nhiều kế sách khác nhau, Bác
đã dần dần ký hiệp định sơ bộ 6/3 và tạm ước 14/9 để từng bước loại khỏi kẻ
thù khỏi Việt Nam . Để rồi ngày 7/5/1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu toàn thể dân tộc Việt Nam đã làm nên 1
chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu chấn động địa cầu, giải phóng
hoàn toàn miền Bắc đưa miền Bắc đi lên xây dựng CNXH.
4
Sau 1954 đất nước ta tạm thời chia cắt thành hai miên Nam Bắc. Miền
Bắc được giải phóng đi lên xây dựng CNXH, Miền Nam vẫn còn dưới ách
thống trị của Mỹ Nguỵ, mong muốn đất nước được thống nhất luôn cháy bỏng
trong lòng Bác. Bằng lòng tin vào nhân dân Việt Nam và tài suy đoán của
mình, năm 1960 trong một bài phát biểu Bác đã khẳng định "chúng ta hãy cố
gắng chậm lắm là 15 năm nữa chúng ta sẽ đánh thắng giặc Mỹ và thống nhất
đất nước" và năm 1967 Người lại nhận định Đế quốc Mỹ chỉ có thể rút khỏi
Việt Nam nếu chúng bị thất bại trên bầu trời Hà Nội. Nhận định đó của Bác đã
định hướng và giúp cho toàn thể dân tộc Việt Nam tiếp tục khắc phục khó
khăn, làm tốt trách nhiệm của hậu phương lớn với tiền tuyến lớn, với tinh thần:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Đồng thời cả dân tộc Việt Nam lam tốt mọi công tác chuẩn bị để sẵn sàng
đánh bại không quân của Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đúng như suy đoán của Bác.
Với sự ngông cuồng, quyết đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá. Đế
quốc Mỹ đã mở đợt tập kích bằng phái đài bay B52 trên bầu trời Hà Nội từ
ngày 18 ÷30/12/1972. Bằng lòng dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc, quân và dân ta đã làm nên một "Điện Biên Phủ trên không" đẹp
như huyền thoại. Đó là cơ sở vô cùng quan trọng để toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta làm nên chiến thắng Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng hoàn toàn
miền Nam thống nhất đất nước ngày 30/4/1975 thật đáng khâm phục sự tiên
đoán của thiên tài Hồ Chí Minh.
Là người có tri thức uyên bác, dù ở địa vị nào của xã hội Bác luôn là
người có lòng thương yêu vô hạn đối với con người, nhất là với những người
lao động nghèo khổ. Một trong những động lực để người ra đi tìm đường cứu
nước cũng xuất phát từ lòng yêu thương con người, mong muốn con người,
nhất là người lao động phải chịu kiếp ngựa trâu dưới gót giày của quân xâm
lược tàn bạo. Khi tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin, bằng sự thông minh và sự
hiểu biết của mình, trên cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Người đã vạch ra nguồn gốc của mọi sự nghèo khổ, bất
công và nghịch lý đối với con người trong đời sống hiện thực. từ đó, Người
5
chỉ ra con đường phương pháp cách mạng đúng đắn để giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Giá trị tư tưởng đạo đức, tư tưởng nhân văn của Bác đã
được thể hiện trong di sản tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại
đầy gian khổ của Người: Ngay từ những ngày đầu ra đi tìm đường cứu nước
Người đã phẫn uất và rơi lệ, tiếp đó Người ra sức đấu tranh bênh vực các dân
tộc bị áp bức, giành lại quyền sống, nhân phẩm tự do. Người lên án kịch liệt
"Thuế máu" của Pháp. Hình ảnh người dân nô lệ "khạc ra từng miếng phổi"
đã phản ánh sự tàn bạo dã man mà Bác đã lên án. Khi Bác đến nước Mỹ,
đứng trước nữ thần tự do, biểu tượng vĩ đại của nước Mỹ, Bác đã nói "Tôi
không để ý đến ánh hào quang tỏa ra trên đầu nữ thần tự do, mà tôi rung động
trước những dân đen dưới chân nữ thần" và sau này khi đã là một vị Chủ tịch
nước ngoài vẫn giành trọn cả tấm lòng mình cho cả đồng bào ở cả 2 miền
Nam - Bắc, cũng chính vì có lòng thương yêu vô hạn đối với con người cho
nên bất cứ một hình ảnh nào của những người dân khổ cực đều làm lòng
người rung động, nhất là với người già và trẻ nhỏ.
"Oa - oa - oa, cha chốn không đi lính nước nhà
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà lao"
(Cháu bé trong nhà lao Tân Dương)
Đó là tiếng khóc của một cháu bé trong nhà lao, nạn nhân vô tội của chế
độ bất công vô nhân đạo đọa đày con người không phân biệt tuổi tác.
Khi phải chứng kiến cảnh đoàn dân công ngủ ngoài rừng trong điều kiện
trời mưa, đã khiến Bác thổn thức không ngủ được. Bởi vì:
"Bác thương đoàn dân công
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Dải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn
Trời thì mưa lâm thâm
Làm sao cho khỏi ướt
Càng thương càng nóng ruột
Mong trời sáng mau mau…".
6
Từ lòng thương con người, cho nên Bác luôn có lòng tin vào con người.
Chính vì vậy, ở Bác luôn có sự cảm hóa bao dung đối với những con người bị
lầm đường lạc lối.
Người cho rằng:
Ngủ ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy mới phân kẻ giữ người hiền
Hiền giữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
Xúc động trước những tình cảm và đức hi sinh cao cả của Người có rất
nhiều nhạc sĩ, thi sĩ đã viết nên những tác phẩm ca ngợi công lao trời biển của
người, đó chính là những tình cảm chân thành xuất phát từ sâu thẳm trái tim
của họ mà cũng là tình cảm của cả dân tộc Việt Nam đối với Bác. Trong bài
hát Bác Hồ một tình yêu bao la. Nhạc sĩ Thuận Yến đã viết: Bác Hồ người là
tình yêu thiết tha nhất, trong lòng dân và trong trái tim nhân loại, cả cuộc đời
Bác thanh cao không một chút riêng tư,… Bác đem ánh mặt trời xua màn đêm
giá lạnh, Bác đem mùa xuân về dâng hoa đẹp cho đời, Bác như bài dân ca ru
em bé vào đời… Bác thương các cụ già xuân về đem biếu lụa, Bác thương
đàn cháu nhỏ trung thu gửi cho quà. Bác thương người chiến sĩ, đứng gác
ngoài biên cương, như cánh chim không mỏi, bay khắp trời quê hương, ghi
khắc sâu ơn Người, trong tầm hồn Việt Nam” và chính bài hát này đã làm
rung động đến hàng triệu trái tim của con người Việt Nam. Còn đối với nhà
thơ Tố Hữu xúc động trước tình thương yêu trời biển của Người đã viết nên
những vần thơ đầy cảm xúc.
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ lụa tặng già…
Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa.
7
…Bác ơi! tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người.
Lúc sống, Bác luôn lo cho con người thương yêu hết thảy con người,
nhưng khi Bác sắp ra đi trong bản di chúc của mình Bác vẫn giành tình cảm
đó lo cho dân, nghĩ về nhân dân. Trong di chúc thiêng liêng Bác đã viết: “Đầu
tiên là công việc đối với con người” và đã căn dặn Đảng ta những vấn đề
chiến lược liên quan mật thiết đến con người. Khi khép lại di chúc Người lại
viết “Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng,
cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh thiếu niên, nhi đồng. Tôi cũng gửi lời
chào thân ái đến các đồng chí các bầu bạn và các cháu thanh niên nhi đồng
quốc tế”. Tự những lời trên đã toát lên một tình cảm nhân cử bao la vô bờ bến
của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với các thế hệ người Việt Nam và thế giới. Bởi
vậy, tìm về Hồ Chí Minh là tìm về lòng tốt của con người, tình bạn, lòng nhân
ái, một con người không nghĩ đến mình, giản dị khiêm tốn, không tự giam
minh , trong tháp ngà, một con người của quần chúng nhân dân. Cũng bởi thế
giá trị tư tưởng đạo đức của Người tiếp tục và mãi mãi soi sáng về sau đúng
như một nhà nghiên cứu chính trị nước ngoài đã khẳng định. “…phải nhìn thế
giới như một quá trình mà ở đó sự thay đổi là cội nguồn của sự giàu có, tiến
bộ và nhằm tìm kiếm ước muốn nhân đạo trong lĩnh vực đạo đức vì thế mà
những con người như Hồ Chí Minh ngày càng trở nên vĩ đại vì họ là những
người đã cho chúng ta lý do để sống và khả năng để thực hiện những giấc mơ
của mình”.
Chúng ta có thể khẳng định rằng: Bác Hồ là người có đạo đức trong
sáng nhất, tiêu biểu nhất và trọn vẹn nhất. Người đã hy sinh trọn đời mình cho
dân tộc Việt Nam. Bác chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao
cho nước nhà được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành. Người luôn đặt lợi ích của đất nước lên trên
lợi ích của cá nhân và gia đình. Khi được hỏi tại sao Bác không lấy vợ thì Bác
trả lời vì tôi không có điều kiện. Song ai cũng có thể hiểu rằng Bác đã giành
mọi thời gian để lo việc nước, lo cho dân cho nước sớm được độc lập, tự do,
hạnh phúc. Với Người hạnh phúc của nhân dân chính là hạnh phúc của mình.
8
Năm 1929 Bố của Bác Hồ chết tại Cao Lãnh - Đồng Tháp Bác đã không về
được. Năm 1950 khi đang đi chiến dịch Biên giới được tin anh cả Khiêm chết
Bác cũng không thể về được, vì việc nước còn bộn bề. Để nhẹ bớt lòng mình
Bác đã viết “thư gửi dòng họ Nguyễn Sinh” nội dung như sau:
“Nghe tin anh cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều,
đường xá xa cách. Lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi
không thể lo liệu.
Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên
lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”.
Chắc hẳn rằng không phải vì Bác là người sống không có hiếu với cha
mẹ và tình nghĩa với anh em, họ hàng. Nhưng với Bác đã hi sinh cả cuộc đời
cho sự nghiệp vì dân vì nước. Đó chính là điều vĩ đại nhất ở một con người
mà chúng ta không phải dể thấy ở trên thế gian này.
Với Bác: Phẩm chất đạo đức là vô cùng quan trọng bởi vì theo Bác “có
tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó”. Vì vậy, muốn làm nên sự nghiệp thì phải vừa hồng vừa chuyên.
Từ những suy nghĩ đó Bác đã “luôn luôn tự rèn luyện bản thân mình ở mọi
lúc mọi nơi, trong mọi điều kiện hoàn cảnh, không chịu khuất phục trước khó
khăn, là tấm gương sáng để mọi người noi theo. Và theo Bác “Nâng cao đạo
đức cách mạng là liều kháng sinh tốt nhất để quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.
Bác nghĩ rằng:
Nếu không có cảnh đông tàn
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong bước gian truân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng”
Theo Bác, lúc khó khăn nhất là lúc để thử lòng mình, là điều kiện tốt để
rèn luyện con người, nếu con người vượt qua được những sóng gió của cuộc
đời thì chắc chắn sẽ trở nên cứng cáp hơn mạnh mẽ hơn và làm việc hiệu quả
hơn. Từ việc coi trọng đạo đức, Bác luôn chú trọng và quan tâm đến việc giáo
dục đạo đức của người cách mạng, Bác đã dạy “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc làm quan trọng và cần thiết” Nhận xét về điều đó giáo
9
sư Trần Văn Giàu đã viết: “quan tâm thật nhiều đến đạo đức, là đặc điểm nổi
bật trong nhân cách của cụ Hồ”. Đi cùng với rèn luyện đạo đức cách mạng và
coi trọng đạo đức Bác Hồ luôn là một tấm gương sáng về cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Đây cũng chính là một nét tiêu biểu trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Bác luôn học và không hề bỏ phí thời gian vô ích nào. Có mấy vị
chủ tịch nước đã chịu cuốc đất trồng rau, mặc quần áo sờn và đi dép cao su.
Vậy mà ở Bác luôn có thói quen của những người dân lao động, Bác luôn trân
trọng thành quả của lao động và gần gũi với người dân lao động. Khi nói về
chính Bác đã chỉ ra, chính là không tà nghĩa là ngay thẳng, là đứng đắn. đối
với mình không tự cao tự đại, luôn luôn chịu khó học hỏi, cầu thị tiến bộ, luôn
tự kiểm điểm và tiếp thu những ý kiến phê bình của người khác để phát biểu
điều hay sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với Người, không nịnh trên,
không nịnh dưới, luôn giữ thái độ chân thành và khiêm tốn, đoàn kết thật thà,
không dối trá lừa lọc. Đối với việc để việc công lên trên, lên trước việc tư việc
nhà. Đã phụ trách việc gì thì phải làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn,
không sợ khó không sợ nguy hiểm, việc thiện thì nhỏ mấy cũng làm, việc ác
thì nhỏ mấy cũng tránh. Trong sinh hoạt đời thường Bác luôn khiêm tốn và
giản dị, ham học hỏi cầu thị tiến bộ. Bất cứ bài viết nào của Bác, Bác đều
tham khảo ý kiến của mọi người. Mỗi lần hỏi ý kiến Bác đều rất tôn trọng và
nghiêm khắc tiếp thu những ý kiến đóng góp đó và cân nhắc một cách kỹ
lưỡng. Là Chủ tịch nước nhưng Bác luôn xưng cháu với những người hơn
tuổi mình, không hề quan cách, Bác luôn giữ thái độ gần gũi như không khí
gia đình vậy. Đó cũng là những điều thể hiện những giá trị nhân văn trong tư
tưởng của Người. Với một cuộc đời hết lòng hết sức phụng sự tổ quốc phục
vụ nhân dân. Từ tư tưởng đạo đức và tác phong giản dị khiêm tốn của Người
luôn thấm đượm chất nhân văn cao cả và sâu sắc. Tư tưởng nhân văn của Bác
mang tính cụ thể của đời sống hiện thực, khác xa với tình yêu thương trừu
tượng của một số học thuyết triết học và các tín điều tôn giáo trong lịch sử. Ở
Người là lý tưởng và hành động cách mạng, một tâm hồn bác ái đầy bao dung
đối với con người trong suốt cả cuộc đời “Nghĩ cho cùng…là vấn đề ở đời là
làm người, ở đời và làm người là phải thương nước thương dân, thương nhân
10
loại đau khổ bị áp bức”. Trong di sản tư tưởng vĩ đại của mình, Hồ Chí Minh
đã để lại một hệ thống các luận điểm khoa học về con người. Quan niệm về
con người của Hồ Chí Minh được bàn đến với nhiều nghĩa khác nhau ở những
mối quan hệ xã hội cụ thể, luôn có sự thống nhất giữa tính khoa học và tính
giai cấp và tính dân tộc. Tư tưởng đạo đức của Người được biểu hiện đậm nét
ở nhiều vấn đề liên quan đến con người, đến sự nghiệp giải phóng con người
và kiến tạo một xã hội mới thực sự vì con người. Đó là tình cảm nhân ái
thương yêu quí trọng đối với những con người cần lao, cùng khổ. Là tấm lòng
bao dung, vị tha rộng lớn, quan tâm đến lợi ích chính đáng của con người, của
dân tộc, coi trọng phát huy động lực của con người, của nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng, chăm lo giáo dục đạo đức con người một cách toàn diện
“vừa hồng, vừa chuyên”…
Ở Bác Hồ ta dễ thấy đó là một con người có ý chí và nghị lực phi
thường. Bởi vì, Bác đi bôn ba khắp thế giới và làm đến chức Chủ tịch nước, là
người hiểu rộng, biến nhiều nhưng Bác chưa hề học qua một trường học cơ
bản nào, chưa có bằng cấp chính quy nào, trong lý lịch của mình, Bác vẫn ghi
trình độ học vấn tự học, vậy mà Bác có thể độc thông, viết thạo nhiều ngoại
ngữ, ở lĩnh vực nào Người cũng biết và cũng giỏi. Theo Bác “Mỗi người cán
bộ, học được một ngoại ngữ thì đã có trong tay một chìa khóa để mở cửa tri
thức của nhân loại”. Đó là một sự thực vì hiểu dược ngôn ngữ của nước ngoài
thì chắc chắn sẽ tiếp cận được với những thành tựu khoa học của nước đó,
học hỏi lẫn nhau và giúp đỡ lẫn nhau một cách dễ dàng hơn. Ngược lại bất
đồng ngôn ngữ thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Nói đến ý chí và nghị lực phi
thường của Bác phải trở về với lịch sử năm 1911 tại bến cảng Nhà Rồng Bác
ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng, khổ cực và đầy gian truân
nhưng Bác đã vượt qua. Như dõi theo bước của Người, nhà thơ Chế Lan Viên
đã xúc động viết trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước”.
… “Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một việc gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá
và sương mù thành Luân Đôn Người có nhớ.
Giọt mồ hồ Người nhỏ giữa đêm khuya”.
11
Để chống chọi với mùa đông khắc nghiệt đầy băng giá, không có đệm,
có chăn đủ ấm, Người đã sáng kiến buổi sáng khi đi làm để một viên gạch vào
bếp và đêm đến người mang về bọc vào tờ báo để vào trong chăn cho hơi ấm
tỏa ra để ngủ cho ấm, thật đáng khâm phục biết bao.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác, có lần bị bọn Tưởng
Giới Thạch bắt giam trong nhà tù. Bị đọa đầy tàn khốc nhưng không làm Bác
lay chuyển tinh thần, vẫn giữ vững chí khí của người cách mạng.
“Bốn tháng cơm không no
Bốn tháng đêm thiếu ngủ
Bốn tháng không giặt giũ
Bốn tháng áo không thay
Cho nên: Răng rụng mất một chiếc
Tóc bạc thêm mấy phần
Gầy đen như đỏ quỷ đói
Ghẻ lở mọc đầy thân
May mà: Kiên trì và nhẫn nại
Không chịu lùi một phân
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần”
(Nhật ký trong tù)
Bằng ý chí và nghị lực của mình. Người đã vượt qua tất cả bởi vì
Người dám hy sinh và sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì hạnh
phúc của nhân dân.
Khi không khuất phục được Bác, bọn Tưởng Giới Thạch đã phải thả
Bác ra, khi ra tù, thân thể yếu ớt, gầy guộc song với tinh thần quyết tâm Bác
đã từng bước rèn luyện bằng cách “Tập leo núi”.
“… Núi cao rồi lại núi cao chập trùng.
Núi cao cho đến tận cùng.
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Đó là một tinh thần cách mạng, một ý chí quyết tâm không phải ai cũng
có được ở trong con người Bác, để với ý chí ấy nghị lực ấy luôn trường tồn và
sống mãi với thời gian.
12
Mong mang áo vải hồn muôn trượng.
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Bác Hồ là người có ý chí nghị lực phi thường là thế, cứng cỏi, hiên
ngang “như đỉnh non cao” là thế. Nhưng đối với thiên nhiên Bác lại rất hài
hòa có tình yêu thiên nhiên say đắm chính vì yêu thiên nhiên say đắm Bác đã
nắm được quy luật của thiên nhiên và luôn vận dụng một cách phù hợp.
Bác cho rằng: “Hết mưa là nắng hửng lên thôi.
… Hết khổ là vui vốn lẽ đời”.
Trong suốt cuộc đời mình, lúc nào Bác cũng gần gũi với thiên nhiên,
coi thiên nhiên như là người bạn tri kỷ và thủy chung, vì vậy những lúc buồn
nhất Người luôn tìm đến thiên nhiên và được thiên nhiên chia sẻ tận tình.
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Quả là một tình bạn thật gần gũi, người chỉ ngắm nhìn trăm còn trăng
thì “nhòm khe cửa” để ngắm người, gần gũi thân thiết quá, đẹp và thơ mộng
quá vì vậy Bác đâu còn thấy cảm giác chật chội của nhà tù nữa. Đó chính là
phong thái ung dung lạc quan của Bác Hồ kính yêu.
hoặc khi được ra tù, ngồi đọc sách, phê văn cũng có thiên nhiên ở bên
để động viên:
Xem sách chim rừng vào cửa đậu.
Phê văn hóa núi ghé nghiên coi.
Khi ở tù, trên đường áp giải từ nhà lao này đến nhà lao khác, chân tay
thì bị xích, cổ thì đeo gông nhưng tâm hồn Bác đã hòa quện vào thiên nhiên,
vui vẻ với thiên nhiên, quên hết những gì đang đè nặng trên người.
“Mặc dù bị chói chân tay
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng..
Vui say ai cấm ta đừng
Đường xa âu cũng bớt phần quạnh hưu”.
13
Và chính trong sự đọa đày đau khổ ấy, không thế nào giam cầm được
tâm hồn Bác, nó vẫn bay cao, bay xa để rồi từ thơ khác lại hiện ra, hòa mình
vơi thiên nhiên.
“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn quét sạch không.
… Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Người đi thi dứng bỗng thêm nồng”.
Nhiều lắm, còn rất nhiều hình ảnh thiên nhiên hòa quện trong thơ Bác,
thể hiện tình yêu thiên nhiên say đắm của Người và cũng chính vì yêu thiên
nhiên đắm say như thế, coi thiên nhiên như người bạn tri ân tri kỷ như thế nên
Bắc đã luôn cùng thiên nhiên đồng hành cả lúc vui và lúc buồn để có thể vượt
qua thử thách gian nan. Tình yêu thiên nhiên thủy chong của Bác càng được
khẳng định khi Người đã là Chủ tịch nước, bên khuôn viên nơi Người ở lúc
nào cũng có vườn cây ao cá, non xanh nước biếc, lúc nào Người cũng giành
thời gian để chăm sóc, bầu bạn với chúng. Đến khi Bác vĩnh biệt chúng ta, khi
“Thăm nhà Bác ở” xúc động quá nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Chú cá rô ơi chớ có buồn
Chiều chiều Bác vẫn gọi rô luôn
Dừa ơi cứ nở hoa đơm trái
Bác vẫn luôn tay tưới ướt bồn”.
Ngoài những nhân tố thuộc về phẩm chất nhân cách của Bác như đã nói
ở trên, Bác còn có một khả năng viết báo đặc biệt. bác không phải là một nhà
báo chuyên nghiệp nhưng Bác có thể viết báo bằng nhiều thứ tiếng khác nhau,
đồng thời Bác cũng là một trong những nhà báo có nhiều bút danh nhất, theo
tổng kết của các nhà nghiên cứu thì Bác có đến 2.000 bài viết các loại, 250
truyện ngắn và tác phẩm, trong đó Bác đã sử dụng rất nhiều bút danh khác
nhau, chính vì cống hiến lớn lao của mình mà Bác đã được UNESCO tuyên
danh là danh nhân văn hóa thế giới. Một phần thưởng vô cùng ý nghĩa và to
lớn xứng đáng với công lao và sự hy sinh cao cả của Người.
Nói tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự hợp lưu của những giá trị tinh
túy của nhân loại và dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và gắn với
14
cuộc đời hoạt động vĩ đại của Người. Bởi vậy sức hập dẫn và giá trị trường
tồn của nó không chỉ đối với dân tộc ta mà còn đối với cả nhân loại cần lao đã
và đang đấu tranh cho những giá trị thực sự của con người. Tư tưởng đó được
bắt nguồn từ cả nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Trong đó nhân tố
chú quan thuộc về Hồ Chí Minh, quyết định đến việc hình thành tư tưởng vĩ
đại của Người, tư tưởng vĩ đại đó có sức sống trường tồn và bất diệt.
Hiện nay, trên thế giới còn đang ẩn chứa những mâu thuẫn sâu sắc. Một
số người đã nói nhiều, bàn nhiều đến của cảu của quyền lực và sự phồn vinh
giả tạo của một số cường quốc lớn trên thế giới, nhưng có một sự thật hiển
nhiên là nhân loại hiện nay vẫn đang phải tiếp tục đối mặt với đói nghèo bệnh
tật, chiến tranh và nhiều nguy cơ xã hội khác, kể cả sự suy thoái về đời sống
tinh thần ở các cường quốc phát triển nhất. Trong một thế giới có 2 màu sáng,
tối hiện nay, những nghịch lý bất công và cả sự chà đạo lên nhân phẩm con
người vẫn tồn tại hiện hữu và cũng chính ngay hoàn cảnh đó, nhân loại đang
hướng về các giá trị tiến bộ trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi vì, “… ở
giữa cơn khủng hoảng này, nhân loại đã sản sinh ra những danh nhân lỗi lạc
làm nên thời đại như Lênin, Hồ Chí Minh và Găngđi là những người đã dể lại
những dấu ấn không thể sai lầm của mình để để được tiếp tục theo đuổi trong
các đảo lộn nhiều biến động” 1. Theo tư tưởng nhân văn cao cả của Người,
dưới sự lãnh đạo của đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ
thống nhất đất nước, đã và đang thực hiện nguyện vọng lớn lao của Người là
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và làm cho dân cường nước thịnh, con
người được hưởng tự do ấm no hạnh phúc, kiên định và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp đổi mới đất nước
hơn 20 năm qua đã thu được nhiều thành tựu “… to lớn có ý nghĩa lịch sử”.
Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp đổi mới đất nước hiện
nay cần phải tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trong đó đặc biệt quan
tâm đến vấn đề có liên quan đến con người mục tiêu cao nhất và nguồn lực
đặc biệt của sự phát triển. Bởi vậy sự nghiệp đổi mới đất nước phải vì lợi ích
của nhân dân và phải tiếp tục “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn
1
. Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục, 2006 , tr.179.
15
dân dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” để thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ của sự nghiệp cách mạng đặt ra. Coi trọng phát huy vai trò của con người,
của các thế hệ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng và lạc hậu, thực hiện mục
tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh, từng bước
tiến lên chủ nghĩa xã hội con đường tất yếu của các mạng Việt Nam mà Bác
đã lựa chọn để xây dựng thành công CNXH chúng ta phải có những con
người XHCN đó là những con người sống vì lợi ích của tập thể, đặt lợi ích
của tập thể lên trên lợi ích cá nhân, cần kiệm liêm chính chí công vô tư theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Có sự phát triển toàn diện cả đức và tài, cả trí tuệ khoa học và tình cảm
cách mạng, có lòng nhân ái và khoan dung, yêu thiên nhiên và bảo vệ thiên nhiên.
Bởi vậy, cần tiếp tục “Xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế
quốc tế” (văn kiện Đại hội Đảng X) coi trọng đổi mới toàn diện giáo dục và
đào tạo, phấn đấu “Xây dựng nền giáo dục hiện đại của dân, do dân vì dân
bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã
hội học tập và học tập suốt đời đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước” (Nghị quyết Đại hội X). Đồng thời phải thường xuyên tuyên truyền
sâu rộng giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhân dân, góp phần nâng cao
nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần khẳng định tính đúng đắn, sáng
tạo cách mạng khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh. Khẳng định vị trí vai trò
quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tư tưởng của toàn Đảng
toàn dân và toàn thế giới…Tăng cường học tập để nâng cao hiểu biết chủ
nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định niềm tin vào tính đúng
đắn cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối cách mạng của Đảng. Từ đó là liều “kháng sinh” hữu hiệu chống lại mọi
âm mưu “diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, tuyên
truyền kích động, bôi nhọ giá trị cao đẹp của tư tưởng Hồ Chí Minh làm giảm
giá trị thực tế của tư tưởng Hồ Chí Minh. Để góp phần cho tư tưởng Hồ Chí
Minh mãi mãi trường tồn và bất diệt, làm cho cuộc vận động học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đi sâu vào cuộc sống của mỗi người
16
dân như là một món ăn tinh thần không thể thiếu đúng nghĩa với tinh thần của
nhà thơ Tố Hữu “Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn”.
17