I.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử của xã hội loài người, đặc biệt từ khi có giai cấp đến nay, vấn
đề phân biệt giầu nghèo đã xuất hiện và đang tồn tại như một thách thức lớn đối
với phát triển bền vững của từng quốc gia, từng khu vực và toàn bộ nền văn minh
hiện đại. Đói nghèo và tấn công chống đói nghèo luôn luôn là mối quan tâm hàng
đầu của các quốc gia trên thế giới, bởi vì giầu mạnh gắn liền với sự hưng thịnh của
một quốc gia. Đói nghèo thường gây ra xung đột chính trị, xung đột giai cấp, dẫn
đến bất ổn định về xã hội, bất ổn về chính trị. Mọi dân tộc tuy có thể khác nhau về
khuynh hướng chính trị, nhưng đều có một mục tiêu là làm thế nào để quốc gia
mình, dân tộc mình giầu có. Trong thực tế ở một số nước cho thấy khi kinh tế càng
phát triển nhanh bao nhiêu, năng suất lao động càng cao bao nhiêu thì tình trạng
đói nghèo của một bộ phận dân cư lại càng bức xúc và có nguy cơ dẫn đến xung
đột.
Trong nền kinh tế thị trường, Quy luật cạnh tranh đã thúc đẩy nhanh hơn
quá trình phát triển không đồng đều, làm sâu sắc thêm sự phân hoá giữa các tầng
lớp dân cư trong quốc gia. Khoảng cách về mức thu nhập của người nghèo so với
người giầu càng ngày càng có xu hướng rộng ra đang là một vấn đề có tính toàn
cầu, nó thể hiện qua tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, về nạn đói,
nạn suy dinh dưỡng vẫn đang đeo đẳng gần 1/3 dân số thế giới.
Nhân loại đã bước sang thế kỷ 21 và đã đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc trên
nhiều lĩnh vực như khoa học công nghệ, phát triển kinh tế, nhưng vẫn phải đối mặt
với một thực trạng nhức nhối nạn đói nghèo vẫn còn chiếm một tỉ lệ đáng kể ở
nhiều nước mà nổi bật là ở những quốc gia đang phát triển. Ở Việt Nam từ khi có
đường lối đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ thị trường có sự điều
tiết của nhà nước, tuy nền kinh tế có phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng hàng năm
là khá cao, nhưng đồng thời cũng phải đương đầu với vấn đề phân hoá giầu nghèo,
hố ngăn cách giữa bộ phận dân cư giầu và nghèo đang có chiều hướng mở rộng
nhất là giữa các vùng có điều kiện thuận lợi so với những vùng khó khăn, trình độ
dân trí thấp như vùng sâu vùng xa.
Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng vẫn đang phải đối đầu với những thách
thức do nghèo đói đem lại.Đặc biệt ở Việt Nam thì tỷ lệ nghèo vẫn còn tương đối
cao.Kinh tế Việt Nam có nhiều bước phát triển tuy nhiên sự phát triển này vẫn còn
chưa đồng đều giữa các khu vực trong cả nước.Nhận thức được những hậu quả của
vấn đề nghèo đói đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước cùng với sự
nghiên cứu về tình hình kinh tế của địa phương chính nơi mình sinh sống em xin
chọn đề tài về thực hiện chính sách giảm nghèo ở địa phương mình với nội dung
là: “Quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo ở xã Thái Hòa,huyện Bình
Giang,tỉnh Hải Dương” làm tiểu luận kết thúc môn “Khoa học Chính sách công”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho công tác giảm nghèo ở cấp địa
phương đã có nhiều công trình nghiên cứu của các chuyên gia,những người tâm
huyết,cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Nhiều năm qua, Đảng
và Chính phủ đã ban hành, chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách năng động, phù hợp
với mục tiêu kiên trì xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững; đồng thời bảo đảm sự
công bằng, dân chủ và an sinh xã hôi.Thực tế cho thấy rằng đây vẫn còn là những
vấn đè hết sức bức xúc của toàn xã hội.Nó vẫn được nhà nước quan tâm đặc
biệt.Vì vậy em đã chọn đề tài này để nghiên cứu.Với việc nghiên cứu trên phạm vi
quốc gia sẽ giúp chúng ta có cái nhìn bao quát.Tổng thể hơn về vấn đề xóa đói
giảm nghèo ở cấp quốc gia.Song em nhận thấy rằng không chỉ nghiên cứu vấn đề
này ở cấp quốc gia mà còn cần phải nghiên cứu ở tầm vi mô(cấp địa phương) để có
cái nhìn toàn diện về công tác thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo cũng
như giúp chúng ta có cái nhìn sát sao hơn về việc thực hiện đường lối chủ trương
của Đảng ở các cấp địa phương.
3. Mục đích,nhiệm vụ của đề tài
Vấn đề này đang giành được sự quan tâm của rất nhiều học giả.Bởi vậy
trong giới hạn nghiên cứu của mình em xin trình bày về thực tiễn về quá trình
thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở địa phương nơi mình đang sinh sống để
từ đấy có cái nhìn tổng quát về quá trình thực hiện chính sách này ở cấp cao hơn và
các địa phương khác đặc biệt là những vùng đặc biệt khăn.Và từ thực tiễn công tác
thực hiện chính sách giảm nghèo đó cũng giúp chún ta có cái nhìn và hành động
tích cực nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác xóa đói giảm nghèo ở các địa phương
còn khó khăn.
Trên cơ sở phương pháp phân tích,đánh giá tình hình thực tiễn cùng với sự
chỉ đạo sát sao của Đảng về vấn đề này bài luận của em tập trung làm sáng tỏ
những vấn đề sau:
-Cơ sở lý luận cho việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo.
-Thực tiễn hành động vấn đề thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở địa
phương.
II.PHẦN NỘI DUNG
Trong phạm vi nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách ở địa phương,với
quy mô nhỏ nên bài luận của em gồm có 2 chương:
Chương 1:Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách công và chính sách giảm nghèo ở
xã Thái Hòa.
Chương 2:Thực trạng về quy trình thực hiện chính sách giảm nghèo ở địa phương.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG
VÀ CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO Ở XÃ THÁI HÒA
1.1. Một số vấn đề thực hiện chính sách công
1.1.1. Khái niệm thực hiện chính sách công
Thực hiện chính sách công là giai đoạn chính trong quy trình chính sách,giai
đoạn các chính sách đi vào cuộc sống.Các chính sách được hoạch định xuất phát từ
yêu cần của cuộc sống,từ nhu cầu của xã hội và của nhân dân.thực hiện chính sách
là quá trình giải quyết những nhu cầu đó,đem lại những biến đổi trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội,nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.Đó là chuỗi các hành động
và biện pháp cụ thể để thi hành một quyết định chính sách đã được thông qua.Về
thực chất nó là quá trình chuyển những tuyên bố trên giấy tờ của chính quyền về
các loại dịch vụ,mục tiêu,đối tượng,phương thức thành những hành động nhất
định nhằm phân phối lợi ích từ tuyên bố.Trong quá trình thực hiện chính sách,các
nguồn lực về tài chính,công nghệ,và con người được đưa và sử dụng một cách có
dịnh hướng.nói cách khác,đây là quá trình kết hợp giữa yếu tố con người với
nguồn lực vật chất nhằm sử dụng các nguồn lực này có hiệu quả theo những mục
tiêu đã đề ra.Vì vậy có thể quan niêm:thực hiện chính sách công là giai đoạn biến
các ý đồ chính sách thành những kết quả thực tế thông qua hoạt động có tổ chức
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước,nhằm đạt tới những mục tiêu đã đề ra.
1.1.2. Vị trí của giai đoạn thực hiện trong quy trình chính sách công
Các chính sách thực chất là sản phẩm của quá trình tư duy con người,bản
thân chúng không thể thay đổi được đời sống hiện thực.Nó chỉ phát huy tác dụng
thông qua hoạt đọng của chủ thể và sự hoạt động tích cực của quần chúng nhân
dân.Do đó nếu một chính sách dù đã được hoạc định rất chi tiết nhưng lại không
được đưa vào thực hiện hoặc hoạt động kém hiệu quả thì nó cũng trở nên vô
nghĩa,không có ý nghĩa thực thi.Đối với nhân dân,kết quả thực tế của chính sách
quan trọng hơn ý địh ban đầu của chính sách đó.Các chính sách được đưa ra nhằm
giải giải quyết những vấn đề bức xúc mà cuộc sống đặt ra và việc thực hiện các
chính sách là nhằm thực hiện các lĩnh vực theo hướng mục tiêu đã đặt ra.Đích đến
của những chính sách là tạo ra những thay đổi trong thực tiễn,do đó thực hiện tốt là
yêu cầu tất yếu cho thành công của chính sách.Vì vậy việc thực hiện chính sách có
ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thành công hay thất bại của chính sách ấy và nó
thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Giai đoạn này có tầm quan trọng là bởi vì :1)là quá trình thực thi chính sách
dưới tác động của nhiều yếu tố.Trong nhiều trường hợp,những khó khăn nảy sinh
trong quá trình triển khai sẽ dẫn tới sự sửa đổi mục tiêu và nội dung chính sách.Nó
có thể bị biến đổi hẳn so với yêu cầu ban đâu đưa ra;2) thông tin nhận được trong
quá trình triển khai chính sách sẽ giúp đánh giá lại các mặt của quyết định chính
sách và quyết định nó sau này.;3)sự vận động của chính sách từ khâu lý thuyết
sang triển khai sẽ giúp đánh giá lại và xây dựng lại chính sách.Trên thực tế,giai
đoạn thực hiện chính sách được coi là giai đoạn tổng hợp của quy trình chính
sách.Nó bao gồm cả công việc thuộc về hoạch định và đánh giá chính sách.
Tóm lại,thực hiện chính sách là việc tiếp nối và chịu sự ảnh hưởng của giai
đoạn hoạch định chính sách,song không hoàn toàn lệ thuộc vào kết quả công tác
vào kết quả của công tác hoạch định mà có vị trí riêng và có ý nghĩa quyết định tới
toàn bộ quy trình chính sách.
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến chính sách giảm nghèo ở xã
1.2.1. Lý luận về nghèo và chính sách giảm nghèo
Nghèo đói là yếu tố cốt lõi của chính sách giảm nghèo.vì thế để hiểu được
chính sách giảm nghèo là như thế nào thì trước hết chúng ta cần hiểu được định
nghĩa về đói nghèo nói chung.
Theo cách tiếp cận hẹp
Nghèo đói là một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng hay một nhóm
dân cư là thấp nhất so với mức sống của một cộng đồng hay một nhóm dân cư
khác.
Theo cách tiếp cận này về vấn đề nghèo đói chưa bao quát được tính chất
tuyệt đối của nghèo đói, nghĩa là mới chỉ đánh giá theo tiêu chuẩn nghèo đói tương
đối, mà trên thực tế thì lúc nào trong xã hội hiện đại cũng tồn tại nghèo đói kể cả ở
những quốc gia giầu nhất. Nếu đứng trên phương diện so sánh mức sống, mức thu
nhập của các nhóm dân cư thì lúc nào cũng có một nhóm dân cư đứng thấp nhất,
nhóm đứng cao nhất và các nhóm trung bình. Đó là nghèo đói tương đối. Nhưng
thực tế ở nhiều quốc gia nghèo, ngay trong nhóm nghèo nhất cũng đã xuất hiện
nhóm nghèo đói tuyệt đối, nghĩa là họ sống một cuộc sống cùng cực, ở tạm bợ và
lo lắng về từng bữa ăn.
Cách tiếp cận này là cách tiếp cận phổ biến hiện nay. Những người theo quan
điểm này có xu hướng tìm kiếm một chuẩn nghèo chung để đánh giá mức độ
nghèo đói của từng nhóm dân cư, mà không đi sâu vào giải quyết những nguyên
nhân sâu xa, những căn nguyên sâu xa, bản chất bên trong của vấn đề, tức là cơ chế
nội tại của nền kinh tế đang hàng ngày hàng giờ đẩy một nhóm dân cư đi vào tình
trạng nghèo đói như một xu thế tất yếu xẩy ra. Do đó các biện pháp tấn công nghèo
đói đưa ra trên theo quan điểm này thường thiếu triệt để, họ chỉ dừng lại ở các biện
pháp hỗ trợ tài chính, kinh tế, và các biện pháp kỹ thuật cho nhóm dân cư nghèo
đói đó, nó sẽ không tạo được động lực để bản thân những người nghèo tự mình
vươn lên trong cuộc sống.
Theo cách tiếp cận rộng
Vấn đề nghèo đói theo quan điểm này được tiếp cận từ phương pháp luận cho
rằng căn nguyên sâu xa của nghèo đói là do trong xã hội có sự phân hoá giầu
nghèo, mà chính sự phân hoá đó là hệ quả của chế độ kinh tế xã hội. Trong thời kỳ
cộng sản nguyên thuỷ, khi mà năng suất lao động còn thấp, chưa có tích luỹ thì
giữa con người chưa có sự phân hoá giầu nghèo. Nhưng khi xã hội càng phát triển,
có sự phân công lao động trong lực lượng sản suất, xã hội đã bắt đầu có tích luỹ thì
cấu trúc xã hội trên quan hệ thị tộc cũng đã bắt đầu biến đổi, xuất hiện chiếm hữu
tư nhân và trao đổi hàng hoá. Xã hội đã phân chia thành nhiều giai cấp, trong xã
hội đã có người giầu người nghèo đây là mầm mống của những xung đột giữa các
giai cấp. Cách tiếp cận rộng cho phép tiếp cận nghèo đói một cách toàn diện, đặt
hiện tượng nghèo đói trong sự so sánh với giầu có và trong hoàn cảnh nhất định.
Khi nói đến người nghèo chúng ta không thể không đặt họ vào sự so sánh toàn diện
với người giầu, bằng cách đó chúng ta mới có thể nhìn thấu đáo hộ nghèo và đói
như thế nào, từ đó lý giải một cách khoa học thực chất của quá trình dẫn tới đói
nghèo.
Nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân, nghèo không
chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn thiếu thốn trong việc tiếp cận dịch vụ,
như giáo dục, văn hóa, thuốc men, không chỉ thiếu tiền mặt, thiếu những điều kiện
tốt hơn cho cuộc sống mà còn thiếu thể chế kinh tế thị trường hiệu quả, trong đó có
các thị trường đất đai, vốn và lao động cũng như các thể chế nhà nước được cải
thiện có trách nhiệm giải trình và vận hành trong khuôn khổ pháp lý minh bạch
cũng như một môi trường kinh doanh thuận lợi. Mức nghèo còn là tình trạng đe
dọa bị mất những phẩm chất quý giá, đó là lòng tin và lòng tự trọng.
Việt Nam đã thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói
nghèo khu vực Châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái
Lan tháng 9/1993: nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã
hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán
của địa phương.
Do vậy, từ năm 1993 đến cuối năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã bốn lần
nâng mức chuẩn nghèo. Ngày 27/9/2001 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số
143/2001/QĐ-TTg trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và
giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu
người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng
(960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng
những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng
(1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ
có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000
đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8
tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010
thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực
thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới
3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Có nhiều quan điểm khác nhau về xác định mức nghèo đói như :Quan điểm
của ngân hàng thế giới (WB)
- Trong việc lựa chọn tiêu thức đánh gía WB đã lựa chọn tiêu thức phúc lợi với
những chỉ tiêu về bình quân đầu người bao gồm cả ăn uống, học hành, mặc, thuốc
men, dịch vụ y tế, nhà ở, giá trị hàng hoá lâu bền. Tuy nhiên báo cáo về những số
liệu này về thu nhập ở Việt Nam sẽ thiếu chính xác bởi phần lớn người lao động tự
hành nghề.
- WB đưa ra hai ngưỡng nghèo:
+ Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một số lương thực gọi
là ngưỡng nghèo lương thực.
+ Ngưỡng nghèo thứ hai là bao gồm cả chi tiêu cho sản phẩm phi lương
thực, gọi là ngưỡng nghèo chung.
+ Ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm mà WB đưa ra theo cuộc điều tra
mức sống 1998 là lượng lương thực, thực phẩm tiêu thụ phải đáp ứng nhu cầu
dinh dưỡng với năng lượng 2000-2200 kcal mỗi người mỗi ngày. Người dưới
ngưỡng đó thì là nghèo về lương thực. Dựa trên giá cả thị trường để tính chi phí
cho rổ lương thực đó. Và theo tính toán của WB chi phí để mua rổ lương thực là
1.286.833 đồng/người/năm.
- Cách xác định ngưỡng nghèo chung
Ngưỡng nghèo chung =(ngưỡng nghèo lương thực)+(ngưỡng nghèo phi
lương thực)
Ngưỡng nghèo được tính toán về phần phi lương thực năm 1998 là 503038
đồng/người/năm từ đó ta có ngưỡng nghèo chung là 1789871 đồng/người/năm.
- Quan điểm của tổ chức lao động quốc tế(ILO)
+Về chuẩn nghèo đói ILO cho rằng để xây dựng rổ hàng hoá cho người
nghèo cơ sở xác định là lương thực thực phẩm. Rổ lương thực phải phù hợp với
chế độ ăn uống sở tại và cơ cấu bữa ăn thích hợp nhất cho những nhóm người
nghèo. Theo ILO thì có thể thu được nhiều kcalo từ bất kỳ một sự kết hợp thực
phẩm mà xét về chi phí thì có sự khác nhau rất lớn. Với người nghèo thì phải thoả
mãn nhu cầu thực phẩm từ các nguồn kcalo rẻ nhất .
+ ILO cũng thống nhất với ngân hàng thế giới về mức ngưỡng nghèo lương
thực thục phẩm 2100 kcalo, tuy nhiên ở đây ILO tính toán tỷ lương thực trong rổ
lương thực cho người nghèo với 75% kcalo từ gạo và 25% kcalo có được từ các
hàng hoá khác được gọi là các gia vị. Từ đó mức chuẩn nghèo hợp lý là 511000
đồng/người/năm.
- Quan điểm của tổng cục thống kê Việtnam
+ Tiêu chuẩn nghèo theo tổng cục thống kê Việtnam được xác định bằng
mức thu nhập tính theo thời gía vừa đủ để mua một rổ hàng hoá lương thực thực
phẩm cần thiết duy trì với nhiệt lượng 2100 kcalo/ngày/người. Những người có
mức mức thu nhập bình quân dưới ngưỡng trên được xếp vào diện nghèo.
-Quan điểm của bộ lao động thương binh và xã hội
+Theo quan điểm của bộ lao động thương binh và xã hội cho rằng nghèo là bộ
tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn nhu cầu cơ bản
của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ
phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng khu vực.
+Bộ lao động thương binh và xã hội đã đưa ra chuẩn nghèo đói dựa những số liệu
thu thập về hộ gia đình như sau :
+ Hộ đói là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người trong một tháng quy ra gạo
được 13 kg.
+ Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập tuỳ theo vùng:Vùng nông thôn, miền núi
hải đảo là những hộ có thu nhập dưới 15 kg gạo; Vùng nông thôn đồng bằng trung
du dưới 20 kg gạo; Vùng thành thị dưới 25 kg gạo.
Từ việc phân tích cá cơ sở của việc xác định nghèo ở trên chúng ta có thể
tổng hợp lại khái niệm về chính sách giảm nghèo như sau: Chính sách xoá đói
giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà
nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế xã hội nhằm giải quyết vấn đề
nghèo đói, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, từ đó xây dựng một xã hội giầu
đẹp.
Như vậy chính sách giảm nghèo hay xóa đói giảm nghèo là một trong những
chiến lược phát triển kinh tế.Chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau:đời sống của
nhân dân không ổn định thì việc muốn người dân hết lòng vì chế độ chính trị là
điều rất khó.Trước hết nếu muốn họ có tinh thần chính trị ổn định thì phải đảm bảo
cho họ những điều kiện tồn tại thiết yếu nhất.Chính trị bất ổn thì khó có thể phát
triển được kinh tế,đồng nghĩa với nguy cơ tụt hậu.
1.2.2. Một số nội dung cơ bản liên quan đến chính sách xóa đói giảm nghèo
1.2.2.1. Bối cảnh ra đời của chính sách
Đói nghèo là một vấn đề kinh tế-xã hội có tính toàn cầu, là sự thể hiện tính
bất công bằng trong phân phối và chuyển tải các thành quả về phát triển kinh tế
đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống cho mọi người dân. Vì vậy, để đảm bảo
công bằng xã hội, để nâng cao tiếng nói trên trường quốc tế thì không riêng
Việt Nam mà tất cả các nước đều phải chú ý thực hiện công cuộc xoá đói giảm
nghèo. Ngày nay giải quyết vấn đề đói nghèo đã được đặt thành nhiệm vụ trọng
tâm, quan trọng của đất nước Việt Nam, thể hiện ở chỗ chúng ta đã có Chương
trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo.
Năm 1998 lần đầu tiên giảm nghèo đã trở thành một chính sách nằm trong
hệ thống chính sách xã hội của quốc gia. Từ đó đến nay, công tác xóa đói giảm
nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định như: luôn đạt và vượt
mục tiêu đề ra qua các giai đoạn, hoàn thành vượt mức mục tiêu thiên niên kỷ về
giảm nghèo trước 10 năm…Từ năm 1992 đến năm 1998 với rất nhiều nỗ lực, tỷ lệ
đói nghèo ở Việt Nam bình quân mỗi năm giảm từ 2 đến 3%. Đến hết năm 2010 tỷ
lệ nghèo của Việt Nam là 9,45%, vượt mức mục tiêu đề ra là 10%.
Với tính chất của mình,nó có những tác động hết sức to lớn tới sự phát triển
kinh tế.Bởi vậy mà Đảng ta đã đưa ra những quan điểm về công tác xóa đói giảm
nghèo ở các cấp cơ sở như sau:
Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả
và bền vững, đồng thời chủ động tạo các nguồn lực cho các hoạt động trợ giúp
người nghèo đói.
Quan điểm này dựa trên lô-gic biện chứng là muốn giúp đỡ, hỗ trợ có hiệu quả
người nghèo đói thì Nhà nước phải có đủ nguồn lực vật chất trong tay, bởi vì chính
bản thân nhà nước là chủ thể có đầy đủ các khả năng điều hoà thu nhập giữa các
nhóm dân cư. Hơn nữa, các nguồn lực vật chất để thực hiện sự điều hoà thu nhập
ấy lại chỉ có thể có được khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững.
Thực tế cho thấy, nhờ kinh tế phát triển mà Nhà nước đã có đủ tài chính để mở
rộng các dự án, các chương trình xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ cho hàng ngàn xã khó
khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, trên cơ sở đó những người nghèo ở
những vùng sâu, vùng xa có thêm cơ hội để vươn lên thoát nghèo đói. Nhìn chung,
ở đâu kinh tế phát triển, ngành nghề và hoạt động kinh tế đa dạng, việc làm đầy đủ,
thì ở đó số hộ nghèo đói giảm nhanh, số hộ giầu tăng lên và bộ mặt xã hội của
cộng đồng thay đổi nhanh chóng.
Xoá đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của toàn xã hội, mà
trước hết là bổn phận của chính người nghèo, phụ thuộc vào sự vận động tự giác
của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo.
Xóa đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo,
cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là
điều kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước.
Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo
khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì việc tạo việc làm cho
người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển
kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xoá đói giảm nghèo thành
công nhanh và bền vững.
Triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo bằng các
nguồn tài chính trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, Nhà nước đã giành nhiều kinh phí cho các chương trình
xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh những thành tựu đáng kể của xoá đói giảm nghèo
còn có vấn đề nổi cộm đó là tình trạng tham nhũng, cắt bớt phần tài chính từ các
dự án, chương trình mà lẽ ra người nghèo được hỗ trợ để giúp họ thoát nghèo đói.
Quan điểm này có tác dụng hạn chế tình trạng tiêu cực đang diễn ra trong triển
khai hiện nay, tạo cơ sở để đưa ra các biện pháp phòng ngừa và xử lý nghiêm theo
pháp luật các trường hợp tiêu cực.
Quan điểm thứ tư:Việc hỗ trợ và cho vay vốn hộ nghèo phải đi liền với công
tác tư vấn, hướng dẫn sử dụng vốn vay có hiệu quả căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể
của từng hộ gia đình.
Thời gian qua, việc cho vay vốn hộ nghèo đói chưa thật hiệu quả, phần nhiều
còn thiên về số lượng lượt hộ vay vốn nên khoản vay còn nhỏ bé, chưa thực sự
giúp các hộ nghèo tạo được đà bứt phá, việc sử dụng vốn không đúng mục đích
vấn còn khá phổ biến. Nhìn chung, hiệu quả thực sự của các nguồn tài chính cung
cấp cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo còn bị hạn chế. Thực tế cho thấy nguồn vốn
cho người nghèo vay sẽ phát huy tác dụng nếu có sự hướng dẫn sản xuất, tư vấn sử
dụng vốn vay.
Từ những quan điểm trên mà chính sách giảm nghèo đã được triển khai rộng
rãi tại rất nhiều địa phương trong đó có xã Thái Hòa là một điển hình.
Tiếp thu quan điểm chỉ đạo của cấp trên về chính sách giảm nghèo mà ban
lãnh đạo các địa phương nói chung và đảng bộ xã Thái Hòa nói riêng đã tích
cực,chhur đọng trong việc xây dưng các phương án hành động cũng như đội ngũ
những cán bộ có kiến thức đầu ngành về vấn đề.Nhờ đó mà công tác triển khai
thực hiện chính sách đang dần đem lại những kết quả đáng khích lệ,tỷ lệ nghèo
giảm xuống rõ rệt.
1.2.2.2. Cơ quan hoạch định chính sách
Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 754/QĐ-TTg ngày
18/06/2007 về việc thành lập ban chỉ đạo của chính phủ thực hiện chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 và chương trình phát triển kinh
tế xã hội ở các vùng đặc biệt khó khăn vùng đòng bào dân tộc và dân tộc thiểu
số.Thủ tướng ban hành chỉ thị số 04/2008/CT-TTg ngày 25/01/2008 về tiếp tục
thực hiện mục tiêu giảm nghèo (chỉ thị 04).
Dưới sự chỉ đạo của các ban ngành đoàn thể thì các chính sách được thể chế
hóa tại địa phương thông qua:
Liên bộ Tài chính,Bộ Lao động thương binh và xã hội đã ban hành thông tư
liên tịch số 102/2007/TTLT/BTC/BLDTBXH ngày 20/8/2007 hướng dẫn cơ chế
quản lý tài chính đói với một số dự án của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo.
Bộ lao động thuong binh và xã hội đã ban hành các quyết định số
1053/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 23/07/2007 về theo dõi,giám sát,đánh giá việc
thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010;Quyết
định số 23/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 05/10/2007 về hệ thống theo dõi chỉ tiêu
theo dõi,giám sát việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai
đoạn 2006-2010.
Ban hành thông tư số 27/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/11/2007 hướng dẫn
quy trình xác định đối tượng được vay vốn theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg
ngay 27/09/2007 của thủ tướng chính phủ về tín dụng đối với học sinh,sinh
viên;thông tư số 04/2007/TT-BLLĐTBXH ngày 28/02/2007 hướng dẫn quy trình
rà soát hộ nghèo hằng năm;thông tư số 25/2008/TT-BLĐTBXH ngày 21/10/2008
về việc hướng dẫn quy trình rà soát hộ cận nghèo;thông tư số 30/2008/TT-
BLĐTBXH ngày 09/12/2008 hướng dẫn quy trình kiểm tra,đánh giá định kì
Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo ở các cấp địa phương.
Bộ Lao động thương binh và xã hội đã chỉ đạo các địa phương và phối hợp
vớ các bộ,ngành,tổ chức quốc tế đánh giá giữa định kì Chương trình mục tiêu Quốc
gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010.Như vậy vai trò của Bộ Lao động thương
binh xã hội là rất lớn trong việc tổ chưc triển khai,thực hiện các chương trình
chính sách,dự án mà cấp trên giao phó.Phối hợp với hoạt động của Bộ sẽ là sự trợ
giúp của truyền thông đại chúng cũng như các bộ phận liên quan như Hội phụ
nữ,Hội cựu chiến binh,Đoàn thanh niên,…….
1.2.2.3. Đối tượng của chính sách
Khi các quyết định,chỉ thị được đưa vào thực tiễn thì tất cả các địa phương
đều phải xây dựng trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Chương trình mục tiêu giảm
nghèo.Đây có thể được coi là khâu hiện thực hóa đường lối chủ trương của đảng
trong đời sống.
Các tỉnh,thành phố đều đã có quyết định kiện toàn ban chỉ đạo chương trình
giảm nghèo trên địa bàn;phân công nhiệm vụ cụ thể,rõ ràng cho các thành viên
trong tổ chức thực hiện;quy định cụ thể các chỉ tiêu theo dõi,giám sát thực hiện
chương trình xóa đói giảm nghèo đối với cấp huyện,xã;chỉ đạo thực hiện các chính
sách giảm nghèo trên địa bàn,các tỉnh.tiếp tục phân công các ban,ngành,doanh
nghiệp nhận giúp đỡ các xã nghèo trong tổ chức thực hiện chương trình……….
Tóm lại,các đối tượng tham gia vao chính sách rất đa dạng nhưng chủ yếu là
các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn,cần sự giúp đỡ của các chính sách đó.
1.2.2.4. Mục tiêu của chính sách
Để phát huy các kết quả giảm nghèo đã đạt được trong giai đoạn 2001-2005
và thực hiện mục tiêu giảm nghèo theo nghị quyết Đại hội X của Đảng đề ra ,Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007
phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010,Quyết
định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 phê duyệt chương trình phát triển kinh
tế-xã hội ở các khu vực đặc biệt khó khăn.
Từ những quan diểm chỉ đạo trên mà chương trình đã đề ra mục tiêu tổng
quát cho việc thực hiện chính sách giảm nghèo đó là: đẩy nhanh tốc độ giảm
nghèo,hạn chế tái nghèo;củng cố thành quả giảm nghèo,tạo cơ hội cho hộ đã thoát
nghèo vươn lên khá giả,cải thiện một bước điều kiện sống và sản xuất ở các xã
nghèo,đặc biệt khó khăn;nâng cao chất lượng cuộc sống của nhóm hộ nghèo,hạn
chế tốc độ gia tăng về khoảng cách giàu nghèo ,chênh lệch về thu nhập,mức sống
giữa thành thị và nông thôn,đồng bằng và miền núi,nhóm hộ giàu và hộ nghèo.
1.3. Tầm quan trọng của chính sách giảm nghèo trong sự phát triển và ổn
định xã hội ngày nay.
Xóa đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm giải
quyết tình trạng nghèo nàn, lạc hậu cũng như sự chênh lệch mức sống giữa các
vùng, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) đã đề ra chủ trương xóa đói giảm
nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân cũng như
trong chiến lược phát triển chung của xã hội và đã trở thành một chủ trương chiến
lược, nhất quán, liên tục được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội của Đảng.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng đặc
biệt của công tác xóa đói giảm nghèo, xác định phải nhanh chóng đưa các hộ
nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu và sớm hòa nhập với sự phát triển chung
của đất nước; đề ra Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo trong 5 năm
1996 – 2000 cùng với 10 Chương trình kinh tế - xã hội khác.
Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998, Chính phủ chính thức phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo (Chương trình 133)
cho giai đoạn 1998-2000. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bổ sung
Chương trình 135 -Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu các xã
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mục tiêu chính của Chương
trình này là hỗ trợ xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như: hệ thống điện, đường giao
thông, trường học, trạm y tế....tại 1715 xã nghèo nói trên. Kết quả là đến năm 2000
tỷ lệ nghèo của cả nước còn 10% theo chuẩn cũ. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận
thấy, không thể chỉ theo đuổi mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo mà cần giữ vững
kết quả giảm nghèo đã đạt được, tăng khả năng bền vững, hiệu quả của công tác
giảm nghèo, đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy, quan
điểm giảm nghèo bền vững đã được đề cập và thể hiện trong Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng là: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo.
Quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng
cấp, cải tạo các tuyến trục giao thông nối vùng nghèo, xã nghèo với nơi khác, tạo
điều kiện thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó khăn phát triển. Đi đôi với việc xây
dựng kết cấu hạ tầng, phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở
các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng nhanh
thu nhập…Nâng dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái
nghèo”.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các
phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo,
các đối tượng chính sách....Nhà nước tăng đầu tư từ ngân sách tiếp tục phát triển cơ
sở vật chất - kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội và bảo đảm cung
ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng
nghèo, các đối tượng chính sách...và dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp đến đời
sống nhân dân và là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội.
Kết quả thực hiện chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 đã góp
phần ổn định xã hôi,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững,nhất là
trong bối cảnh khủng hoảng kinh tê thế giới và khu vực giai đoạn 2008-2009,an
sinh xã hội vẫn được đảm bảo.
Người nghèo đã được hỗ trợ và cải thiện một bước về điều kiện sống,tiếp cận
tốt hơn các chính sách và nguồn lực hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng cho phát
triển kinh tế,tạo việc là và tăng thu nhập;một số nhu cầu thiết yếu cơ bản của người
nghèo được thực đáp ứng(nhà ở,sinh hoat,khám chữa bệnh,giáo dục….).
Về lâu dài các tác động của chương trình này sẽ giúp người nghèo có cơ
hội vươn lên,tạo thu nhập để phát triển,vượt qua tình trạng đói nghèo,tự giải quyết
những nhu cầu thiết yếu của gia đình và bản thân.
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ QUY TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
GIẢM NGHÈO Ở XÃ THÁI HÒA
2.1. Điều kiện tự nhiên-xã hội của xã Thái Hòa
Xã Thái Hòa nằm ở phía đông nam huyện Bình Giang.xã có 6 thôn với 12 chi
bộ trong đó có 7 chi bộ nông thôn,3 chi bộ nhà trường,1 chi bộ dân quân TT và 1
chị bộ Trạm y tế.Tính đến nay cả xã có 286 đồng chí đảng viên.Họ đều là những
con người có tâm huyết với nhân dân,tinh thần cách mạng triệt để,lý tưởng chính
trị vững vàng.
Dân số của toàn xã hiện nay là 6989 người.Đời sống của người dân ngày
càng được cải thiện và nâng cao.Chất lượng cuộc sống ngày càng được cải
thiện.Bình quân lương thực là 895kg/người/năm.Mức thu nhập đầu người đạt hơn
15 triệu/người/năm.
Hiện nay diện tích đất tự nhiên của xã là 770,39ha và diện tích đất canh tác là
593,53ha.Sự chuyển đổi từ đất sử dụng cho nông nghiệp sang hoạt đọng ở các lĩnh
vực công nghiệp và dịch vụ đang diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng.Điều này phần
nào phản ánh sự ảnh hưởng của đô thị hóa tới các vùng nông thôn nghèo đang diễn
ra như một tất yếu của sự vận động và phát triển.
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo ở xã thái hòa
2.2.1. Nguồn lực thực hiện
Có thể nói một cách nhắn gọn nguồn lực bao gồm tất cả những khâu thuộc
đầu vào để tạo ra nguồcn thu nhập gồm tức là đầu ra. Nguồn lực của những người
nông dân bao gồm : đất đai, lao động, vốn sản xuất, kỹ năng sản xuất. Muốn thực
hiện xoá đói giảm nghèo thì phải cung cấp cho họ những điều kiện để họ sản
xuất.Trong các nguồn lực cho sản xuất nông nghiệp thì đất đai là yếu tố quan trọng
nhất.Việc cấp đất cho họ sử dụng phải gắn cho họ quyền sử dụng đất để tránh
những trường hợp tranh chấp có thể xảy ra.Làm tốt được công tác ấy sẽ giúp
người dân yên tâm hưn trong lao động và sản xuất.Nó cũng tạo điều kiện cho cán
bộ thực hiện tốt cong tác kiểm tra,giám sát việc sử dụng đất của người dân đúng
mục đích,yêu cầu.
Bên cạnh nguồn lực đất đai thì yếu tố người lao đọng là yếu tố không thể
thiếu.Nguồn lao động hiện nay ở địa phương tương đối ổn định.Họ tích cực tham
gia vào lao động sản xuất và có những đóng góp không nhỏ vào quá trình phát
triển kinh tế xã hội của xã nói riêng và cả nước nói chung.
Nguồn lực vốn cũng có sự quyết định nhất định trong sự phát triển nói
chung.Có thể nói không có vốn sản xuất chúng ta khó có thể thực hiện được các
mục tiêu kinh tế -xã hội đề ra.Nó như một nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các
chủ trương đường lối,các chính sách mà nhà nước ban hành.Nếu như nguồn vốn
được đáp ứng đầy đủ và chi tiêu hợp lý thì sẽ tận dụng được tối đa các cơ hội phát
triển và ngược lại,nguồn vốn nghèo nàn và chi tiêu bất hợp lý thì sẽ dẫn tới những
hậu quả lớn,kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn lực vốn còn biểu hiện ở các phương tiện sản xuất chứ không đơn
thuần chỉ là các khoản đầu tư,hỗ trợ.Với xu thế ngày càng hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn thì các phương tiện được cung cấp cũng khá là hiện đại.Phương
tiện lao đọng hiện đại đã góp phần vào việc cải thiện tình hình sản xuất,nâng cao
được năng suất lao động,giải phóng sức lao động cho con người.Phương tiện lao
đọng hiện đại cũng đòi hỏi họ phải có những kỹ năng lao động nhất định.Tư duy
lao đọng cũng phải thay đổi theo hướng chuyên môn hóa,chuyên nghiệp hóa.
Bên cạnh nguồn lực trong nước thì chúng ta cũng cần tranh thủ sự đầu
tư,ủng hộ của các nguồn lực bên ngoài như sự đầu tư của nước ngoài vào địa bàn
xã mà điển hình là vốn đầu tư của các công ty nước ngoài vào việc thành lập các
xưởng sản xuất,các công ty nhỏ tại địa phương.Trong số đó tiêu biểu là công ty của
Đài Loan về sản xuất giày,rồi các công ty may vốn đầu tư của Nhật Bản và Hàn
Quốc……
Trên đây là những nguồn lực về kinh tế,nguồn lực vật chất,một nhân tố quan
trọng hơn trong việc thực hiện các chính sách giảm nghèo ở địa phương còn là dội
ngũ cán bộ,những người đi đầu trong việc tuyên truyền đường lối,chủ trương của
đảng,nhà nước tới nhân dân trong quá trình thực hiên chính sách giảm
nghèo.Những cán bộ đầu ngành phải có chuyên môn, nghiệp vụ vuwmgx vàng,sãn
sàng giảm đáp những thắc mắc của người dân về đường lối ấy.Người cán bộ cũng
phải tích cực tham gia vào các hoạt đọng thực tiễn chứ không phải chỉ tuyên truyền
lý thuyết suông.
2.2.2. Hình thức,phương tiện thực hiện
Có thể nói đây là chương trình hoạt động bám sát vào thực tiễn sản xuất cũng
như tác động trực tiếp vào ý chí của người dân.Với đặc điểm như vậy mà hình thức
tiến hành của nó cũng khá đa dạng và phong phú,phụ thuộc vào từng đối tượng và
hoàn cảnh cụ thể.
Hình thức thực hiện là việc chúng ta tác động lên ý chí của đối tượng như
thế nào ,bằng cách nào để đối tượng tiếp nhận vấn đề một cách có hiệu quả nhất
và nhanh nhất.
Phương tiện thực hiện là công cụ chúng ta sử dụng hoạc các công cụ hỗ
trợ việc thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo đưa ra.
Với chính sách giảm nghèo ở địa phương thì hình thức chúng ta sử dụng
cũng khá đa dạng mà không quá phức tạp.Hình thức thực hiện có thể là thông qua
tuyên truyền hoặc thực tiễn: Khi nhận được công văn của cấp trên về việc thực
hiện chính sách giảm nghèo ở địa phương thì UBND xã lập Ban chỉ đạo để trực
tiếp thực hiện điều tra,giám sát hộ nghèo,cận nghèo trên địa bàn.Đây có thể coi là
hình thức đầu tiên cũng như nhiệm vụ mà địa phương cần thực hiện.
Ngoài ra chúng ta có thể phổ biến,tuyên truyền mục đích ,yêu cầu của chính
sách giảm nghèo ở địa phương.Với hình thức này chúng ta có thể tổ chức những
buổi tiếp chuyện công dân,hoặc dưới dạng các hoạt động văn nghệ,văn hóa,giao
lưu để người dân hiểu và nắm rõ hơn quan điểm của đảng và nhà nước về vấn đề
này cũng như giúp người dân nhận thức rõ hơn quyền lợi của mình được hưởng từ
chính sách,đồng thời là nghĩa vụ,trách nhiệm của mình trong sự thành công và hiệu
quả của công tác.
Khi người dân đã nhận thức được vấn đề cần giải quyết thì ban chỉ đạo thực
hiện chương trình cần tổ chức thực hiện,kiểm tra,giám sát quá trình thực hiện và từ
đó ó những đánh giá về mặt ưu điểm,hạn chế của công tác thực hiện cũng như
những sai lầm yếu kém cần được khắc phục.
Trên cơ sở những hình thức được tiến hành thực hiện chính sách thì
phương tiện thực hiện cũng được chú ý hết sức.Các công cụ được sử dụng có thể
bao gồm các nhóm sau:
-
Nhóm công cụ kinh tế là các ngân sách, các quỹ, hệ thống đòn bẩy và
khuyến khích kinh tế như thuế, lãi suất, giá cả, tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm,
tỷ giá hối đoái...
-
Nhóm các công cụ hành chính tổ chức bao gồm các công cụ mô hình
các tổ chức, bộ máy và đọi ngũ cán bộ, công chức, các công cụ hành chính là các
kế hoạch của nhà nước và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật.
-
Nhóm công cụ tuyên truyền, giáo dục là hệ thống thông tin đại chúng,
hệ thống thông tin chuyên ngành, hệ thống giáo dục và đào tạo, hệ thống các tổ
chức tổ chức chính trị, xã hội và đoàn thể.
-
Các công cụ kỹ thuật, nghiệp vụ đặc trưng cho từng chính sách.
2.3. Đánh giá tình hình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo tại địa
phương
2.3.1.Khái quát những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện chính sách
giảm nghèo tại địa phương
Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 20062010 với những nỗ lực của địa phương đã đạt được nhiều thành tích đáng kể:
Số hộ nghèo tren địa bàn xã đã giảm một cách đáng kể,tiêu chí đánh giá về cái
nghèo đã dần được thay đổi.Hiện nay đánh giá nghèo không còn chỉ dựa vào thu
nhập kinh tế mà là chưa thỏa mãn đầy đủ nhu cầu tinh thần của người dân.Đời
sống vật chất cuẩ người dân địa phương đã được nâng cao hơn rất nhiều,bộ mặt
nông thôn có nhiều thay đổi ngày càng theo hướng hiện đại và đồng bộ hơn.Cùng
với số hộ nghèo thì số hộ cận nghèo cũng đã giảm.Hiện nay toàn xã chỉ còn 208 hộ
nghèo và 169 hộ cận nghèo trong tổng số 2056 hộ trong toàn xã.
Tổng giá trị sản xuất trên địa bàn đạt 105.232.761.000 đồng tăng 5% kế hoạch
năm.Trong đó giá trị sản xuất nông nghiệp,chăn nuôi,thủy sản đạt 52.398.333.000
đồng đạt 151% tăng 51% kế hoạch năm.tiểu thủ công nghiệp ,xây dựng đạt 69,5%
kế hoạch năm với 11.035.000 đồng.Thương mại dịch vụ đạt 6.084.428.000 đồng
đạt 124,5% kế hoạch năm.các thu khác đạt 35.724.000.000 đồng tăng 14%.
Các chính sách về giáo dục cũng được quan tâm và có những bước phát triển
về chất lượng giáo dục.Tỷ lệ trẻ tới trường được duy trì và ổn định,không còn hiện
tượng bỏ học vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn như một vài năm trước.Thành tích học
tập của học sinh được thể hiện qua các giải học sinh giỏi của tỉnh,huyện.
Vấn đề y tế,chăm sóc sức khỏe được thực hiện triệt để.Các chương trình bảo
hiểm y tế được triển khai cho mọi đối tượng đặc biệt là những đối tượng chính
sách,ưu tiên.
Với những thành tựu trên của thì bộ mặt của xã đã được thay đổi.Có được
những thay đổi lớn lao ấy là có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của cấp trên cùng với
sự cố gắng,nỗ lực của nhân dân xã nhà.Cần phát huy hơn nữa những ưu điểm này
trong tiến trình thực hiện các mục tiêu kinh tế tiếp theo.
2.4. Đánh giá thực trạng việc thực hiện
2.4.1. Những thành tựu đạt được của chính sách
Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bao gồm rất nhiều nội dung
được tiến hành đồng bộ.Nó bao gồm những chính sách như chính sách tín dụng ưu
đãi người nghèo,chính sách hỗ trợ đất cho người nghèo sản xuất,dự án khuyến
nông-lâm-ngư nghiệp và hỗ trợ phát triển sản xuất,phát triển ngành nghề,dự án
phát riển cơ sở hạ tầng,dự án dạy nghề cho người nghèo,dự án nhân rộng mô hình
giảm nghèo,chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo,chính sách hỗ trợ về giáo
dục cho người nghèo,chính sách hỗ trợ nhà ở và đất sinh hoạt,hỗ trợ về pháp lý cho
người nghèo,dự án nâng cao năng lực giảm nghèo…
Cụ thể các chương trình đó đã đượctriển khai ở xã Thái Hòa như sau:
Chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn, thuỷ lợi, giao thông
Thập kỷ cuối của thế kỷ XX, việc phát triển giao thông nông thôn được phát triển
trong toàn quốc, với phương châm nhà nước và nhân dân cừng làm đã huy động
được nhiều nguồn nhân lực, vật lực, tiền của, phát triển được trên 150.000 Km
đường bộ và 35.700 Km đường thuỷ.Chương trình đã được triển khai về các địa
phương tiến hành cụ thể.Hưởng ứng phong trào của cả nước,cùng với nguồn kinh
phí của cấp trên với sự đóng góp sức người,sức của của nhân dân địa phương thì hệ
thốn mương máng phục vụ sản xuất nông nghiệp đã được bê tông hóa trên phạm vi
toàn xã.Hệ thống giao thông trong xã đã được đổ bê tông làm thay đổi đáng kể bộ
mặt của nông thôn và giúp người dân thuận lợi hơn trong quá trình sản xuất.