Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

đề thi thử tốt nghiệp môn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.63 KB, 59 trang )

ĐỀ: 01
Phần I. Đọc hiểu (3.0 điểm):
Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:
(1) Đưa những cuốn sách về với quê hương mình, với mái trường cũ thân thương của mình, để
các em nhỏ sẽ không còn "khát" sách đọc. Đó là công việc thiện nguyện của những người tham
gia chương trình "Sách hóa nông thôn Việt Nam", đang chung tay đeo đuổi mục tiêu để 10 triệu
trẻ em nông thôn có quyền đọc sách và có sách đọc như trẻ em thành phố.
(2) Anh Nguyễn Quang Thạch, người khởi xướng chương trình hiện đang trong quá trình đi bộ
xuyên Việt từ Hà Nội vào TP Hồ Chí Minh. Chuyến đi được khởi hành từ ngày mồng 1 Tết Ất Mùi
và dự kiến sẽ hoàn thành vào trung tuần tháng 6-2015. Anh là cử nhân tiếng Anh, đã từng trải
qua nhiều vị trí ở cơ quan nhà nước và từng làm việc cho một số tổ chức quốc tế. Chuyến đi bộ
xuyên Việt của anh lần này là mong muốn kêu gọi cộng đồng chung tay nhân rộng tủ sách trong
trường học, dòng họ... để đạt con số 300 nghìn tủ sách được xây dựng trên toàn quốc vào năm
2017, giúp hơn 10 triệu học sinh nông thôn có sách đọc.
(…) (3) Chương trình Sách hóa nông thôn Việt Nam ra đời theo mong muốn của anh là nhằm giải
quyết vấn đề thiếu sách ở nông thôn mà theo anh là để nâng cao dân trí, xây dựng tinh thần chia
sẻ trách nhiệm xã hội trong cộng đồng. Tâm nguyện của anh là tạo ra một hệ thống thư viện mi-ni
rộng khắp cả nước để mọi người dân thôn quê có thể tiếp cận tri thức. Chương trình Sách hóa
nông thôn Việt Nam đến nay đã thực hiện thành công năm loại tủ sách, với hơn 3.800 tủ sách
được xây dựng, giúp hơn 200 nghìn người dân nông thôn, đặc biệt là 100 nghìn học sinh nông
thôn có cơ hội đọc 40 đầu sách/năm.”
(Đưa sách về làng, Nhân dân cuối tuần, 26/04/2015)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản. (0,25 điểm)
Câu 2. Đoạn (2) giới thiệu những thông tin gì về hành động “đi bộ xuyên Việt” của anh Nguyễn
Quang Thạch? (0,5 điểm)
Câu 3. Từ nội dung văn bản, hãy nêu mục tiêu và kết quả đạt được của chương trình "Sách hóa
nông thôn ViệtNam". (0,25 điểm)
Câu 4. Theo số liệu của Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch: hiện nay, trung bình người Việt đọc 0,8
cuốn sách/năm. Từ thực trạng này, anh/chị hãy nhận xét ngắn gọn về anh Nguyễn Quang Thạch
và chương trình "Sách hóa nông thôn Việt Nam" do anh khởi xướng. Trả lời trong khoảng 5-7
dòng. (0,5 điểm)


Phần II. Làm văn (8,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Viết bài văn ngắn bàn về vai trò của sách trong đời sống con người.
Câu 2. (6,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
(Tây Tiến, Quang Dũng, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục 2008, trang 88).
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.”
( Việt Bắc, Tố Hữu, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục 2008, trang 110)

Đáp án 01


Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ báo chí
Câu 2. Hành động đi bộ xuyên Việt của anh Nguyễn Quang Thạch:
- về hành trình: từ Hà Nội vào TP Hồ Chí Minh
- về thời gian: khởi hành từ ngày mồng 1 Tết Ất Mùi và dự kiến sẽ hoàn thành vào trung tuần
tháng 6-2015.
- về mục đích: kêu gọi cộng đồng chung tay nhân rộng tủ sách trong trường học, dòng họ... để
đạt con số 300 nghìn tủ sách được xây dựng trên toàn quốc vào năm 2017, giúp hơn 10 triệu học
sinh nông thôn có sách đọc.
- Điểm 0,5: nêu đủ 3 ý trên;
- Điểm 0,25: nêu được 2 ý

- Điểm 0: chỉ nêu 1 ý, trả lời sai hoặc không trả lời,
Câu 3. -Mục tiêu: 10 triệu trẻ em nông thôn có quyền đọc sách và có sách đọc như trẻ em thành
phố.
- kết quả đạt được của chương trình "Sách hóa nông thôn Việt Nam": thực hiện thành công năm
loại tủ sách, với hơn 3.800 tủ sách được xây dựng, giúp hơn 200 nghìn người dân nông thôn, đặc
biệt là 100 nghìn học sinh nông thôn có cơ hội đọc 40 đầu sách/năm
- Điểm 0,25: nêu đủ 2 ý trên;
- Điểm 0: chỉ nêu 1 ý, trả lời sai hoặc không trả lời,
Câu 4. Thí sinh nêu được quan điểm của bản thân về anh Nguyễn Quang Thạch và ý nghĩa của
chương trình "Sách hóa nông thôn Việt Nam". Câu trả lời phải chặt chẽ, có sức thuyết phục.
- Anh Nguyễn Quang Thạch: là một người có tâm huyết với cộng đồng, có lí tưởng sống đẹp, biết
chăm lo cho sự phát triển của thế hệ trẻ, đặc biệt là trẻ em nông thôn.
- chương trình "Sách hóa nông thôn Việt Nam": là một chương trình thiết thực, ý nghĩa, giúp cho
mỗi người có nhận thức đúng hơn về sách và quan tâm nhiều hơn đến việc đọc sách.
- Điểm 0,5: Nhận xét đúng, hợp lí về cả hai đối tượng, diễn đạt gọn, trong sáng;
- Điểm 0,25: Nhận xét đúng, hợp lí về cả hai đối tượng; diễn đạt chưa thật trong sáng.
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (3,0 điểm)
* Yêu cầu chung: Thí sinh phải biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận xã hội để
tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng, văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy,
bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
* Yêu cầu cụ thể:
a) Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận (0,5 điểm):
- Điểm 0,5 điểm: Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết luận. Phần Mở bài biết dẫn dắt
hợp lí và nêu được vấn đề; phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với
nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được nhận thức của
cá nhân.
- Điểm 0,25: Trình bày đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết luận, nhưng các phần chưa thể hiện
được đầy đủ yêu cầu như trên; phần Thân bài chỉ có 1 đoạn văn.
- Điểm 0: Thiếu Mở bài hoặc Kết luận, Thân bài chỉ có 1 đoạn văn hoặc cả bài viết chỉ có 1 đoạn

văn.
b) Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm): vai trò của việc đọc sách đối với con người
trong thời hiện đại
Câu 2. (6,0 điểm):
* Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo
lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể hiện khả năng cảm
thụ văn học tốt; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ
pháp.
* Yêu cầu cụ thể:
a) Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận (0,5 điểm):


- Điểm 0,5 điểm: Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết luận. Phần Mở bài biết dẫn dắt
hợp lí và nêu được vấn đề; phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với
nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được ấn tượng,
cảm xúc sâu đậm của cá nhân.
- Điểm 0,25: Trình bày đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết luận, nhưng các phần chưa thể hiện
được đầy đủ yêu cầu trên; phần Thân bài chỉ có 1 đoạn văn.
- Điểm 0: Thiếu Mở bài hoặc Kết luận, Thân bài chỉ có 1 đoạn văn hoặc cả bài viết chỉ có 1 đoạn
văn.
b) Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):
- Điểm 0,5: Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ
trích trong hai bài Tây Tiến -Quang Dũng và Việt Bắc- Tố Hữu.
- Điểm 0,25: Xác định chưa rõ vấn đề cần nghị luận, chỉ nêu chung chung.
- Điểm 0: Xác định sai vấn đề cần nghị luận, trình bày lạc sang vấn đề khác.
c) Chia vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp; các luận điểm được triển khai theo
trình tự hợp lí, có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt các thao tác lập luận để triển khai các luận điểm
(trong đó phải có thao tác phân tích, so sánh); biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng (2,0
điểm):
- Điểm 2,0: Đảm bảo các yêu cầu trên; có thể trình bày theo định hướng sau:

+ Giới thiệu về tác giả, tác phẩm;
+ Phân tích vấn đề:
1. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến của Quang Dũng
- Nội dung: nỗi nhớ da diết, vời vợi về miền Tây và người lính Tây Tiến. Thiên nhiên miền Tây
xa xôi mà thân thiết, hoang vu và thơ mộng, người lính Tây Tiến chiến đấu trong hoàn cảnh vô
cùng gian khổ mà hào hoa.
- Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn; hình ảnh thơ có sự hài hoà, nét thực, nét ảo, vừa mông lung, vừa
gợi cảm về cảnh và người; nhạc điệu có sự hoà hợp giữa lời cảm thán với cảm xúc ( câu mở đầu
như một tiếng kêu vọng vào không gian), giữa mật độ dày những âm vần ( rồi; ôi; chơi vơi; hơi),
điệp từ (nhớ/ nhớ) và lối đổi uyển chuyển (câu 3 và 4) đã tạo ra một âm hưởng tha thiết ngậm
ngùi.
2. Cảm nhận về đoạn thơ trong Việt Bắc của Tố Hữu
- Nội dung: là nỗi nhớ da diết, khôn nguôi về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Thiên nhiên sâu
tình nặng nghĩa, từng cùng con người vượt qua bao khó khăn, thiếu thốn giờ đây cũng mang tâm
trạng lưu luyến bâng khuâng trong khoảnh khắc chia tay. Hình ảnh những mái nhà thấp thoáng ẩn
hiện trong khung cảnh núi rừng hắt hiu lau xám lại càng gợi thương gợi nhớ nhiều hơn. Cuộc
sống và chiến đấu càng khó khăn, gian khổ, con người càng thấm thía tấm lòng rộng mở, bao
dung, ân tình sâu nặng của đất và người Việt Bắc.
- Nghệ thuật: thể thơ lục bát mang âm hưởng trữ tình, gần gũi; với nghệ thuật nhân hoá, Tố Hữu
đã biến núi rừng, thiên nhiên thành con người Việt Bắc giàu tình nghĩa (rừng núi nhớ ai), nghệ
thuật đối, điệp tạo âm hưởng tha thiết, lưu luyến, bâng khuâng.
3. So sánh
- Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ tiêu biểu cho thơ ca thời kháng chiến chống Pháp, thể hiện vẻ
đẹp của thiên nhiên và con người miền Tây Bắc và đều bộc lộ nỗi nhớ tha thiết, sâu nặng về thiên
nhiên và con người ở những miền quê mà người lính đã đi qua.
- Điểm khác biệt:
+ Đoạn thơ trong Tây Tiến bộc lộ nỗi nhớ cụ thể của người trong cuộc, toát lên vẻ hào hoa, lãng
mạn của người lính, hình ảnh thơ nghiêng về tả thực, trực quan; thể thơ thất ngôn mang âm hưởng
vừa cổ điển vừa hiện đại.
+ Đoạn thơ trong bài Việt Bắc là cái tình, là lòng biết ơn sâu nặng của người cán bộ kháng chiến

đối với đất, người Việt Bắc, vì thế hình ảnh thơ nghiêng về khái quát, tượng trưng; thể thơ lục bát
mang âm hưởng ca dao dân ca.


ĐỀ SỐ 02
Phần I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn thơ sau đây và trả lời các câu hỏi ở dưới
... Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi
Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ, mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng
(Trích Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - Theo Thơ Nguyễn Duy,
NXB Hội nhà văn, 2010)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Xác định 02 biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong bốn dòng đầu của đoạn thơ trên.
(0,5 điểm)
Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên. (1,0 điểm)
Câu 4. Anh/chị hãy nhận xét quan niệm của tác giả thể hiện trong hai dòng thơ: Mẹ ru cái lẽ ở
đời – sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn. Trả lời trong khoảng 5-7 dòng. (1,0 điểm)
Phần II. Làm văn (8 điểm)
Câu 1: (2 điểm)
Không có công việc nào là nhỏ nhoi hay thấp kém, mà chỉ có người không tìm thấy ý

nghĩa trong công việc của mình mà thôi.
(Nhiều tác giả, Hạt giống tâm hồn, Tập 1, NXB Tổng hợp TP HCM, 2013)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.
Câu 2: (6 điểm)
Phân tích khuynh hướng sử thi trong tác phẩm “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
------------------- Hết ----------------------


ĐÁP ÁN 02
I. Phần I. Đọc - hiểu (2,0 điểm)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ: phương thức biểu cảm/biểu cảm.
Câu 2. Hai biện pháp tu từ: lặp cấu trúc (ở hai dòng thơ bao giờ cho tới…), nhân hóa (trong
câu trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm).
Câu 3. Nội dung chính của đoạn thơ: Đoạn thơ thể hiện hồi tưởng của tác giả về thời ấu thơ bên
mẹ với những náo nức, khát khao và niềm vui bé nhỏ, giản dị; đồng thời, cho thấy công lao của
mẹ, ý nghĩa lời ru của mẹ và nhắn nhủ thế hệ sau phải ghi nhớ công lao ấy.
Có thể diễn đạt theo cách khác nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục.
Câu 4. Nêu quan niệm của tác giả thể hiện trong hai dòng thơ: Lời ru của mẹ chứa đựng những
điều hay lẽ phải, những kinh nghiệm, bài học về cách ứng xử, cách sống đẹp ở đời; sữa mẹ nuôi
dưỡng thể xác, lời ru của mẹ nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Đó là ơn nghĩa, là tình cảm, là công
lao to lớn của mẹ.
Có thể diễn đạt theo cách khác nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục.
Từ đó, nhận xét về quan niệm của tác giả (đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp…).
Câu trả lời phải hợp lí, có sức thuyết phục.
II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Có thể trình bày theo định hướng sau:
+ Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề cần bàn.
+ Thân đoạn: Giải thích ý kiến để thấy được: trong cuộc sống không có công việc nào là nhỏ nhoi
hay thấp kém để chúng ta coi thường hoặc từ bỏ; công việc nào cũng có ý nghĩa và giá trị đối với

một cá nhân hoặc cộng đồng khi nó phù hợp với sở thích, năng lực của cá nhân hay cộng đồng đó;
vấn đề là ở chỗ chúng ta có nhận ra được ý nghĩa trong công việc mà mình đã, đang và sẽ làm để
làm tốt và thành công trong công việc đó hay không.
+ Chứng minh tính đúng đắn (hoặc sai lầm; hoặc vừa đúng, vừa sai) của ý kiến bằng việc bày tỏ
sự đồng tình (hoặc phản đối; hoặc vừa đồng tình, vừa phản đối) đối với ý kiến. Lập luận phải chặt
chẽ, có sức thuyết phục.
+ Kết đoạn: Rút ra bài học cho bản thân và những người xung quanh về vấn đề lựa chọn việc làm
và thái độ/quan điểm/cách đánh giá công việc…
Câu 2 (5 điểm)
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm;
- Phân tích vẻ đẹp sử thi của tác phẩm qua nội dung và nghệ thuật:
+ Khái niệm sử thi :Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô
hoành tráng, có tính chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca
ngợi những người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc.
+ Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” được thể hiện ở tất cả các phương diện: Chủ đề
mà tác phâm đặt ra có ý nghĩa sống còn với cách mạng, dân tộc Việt Nam, qua cuộc đời đầy bi
tráng của nhân vật, qua giọng kể, ngôn ngữ, hình ảnh trang trọng, giàu âm hưởng hào hùng, ngân
vang
++ Chủ đề: Trước hết ở chủ đề mà tác phâm đặt ra có ý nghĩa sống còn với cách mạng Việt
Nam, những sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man
hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả
nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ.
++ Nhân vật:Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong “Rừng xà nu” là xây dựng thành công
hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể đến trong tác phẩm đều có tính đại
diện cao, mang trong mình phẩm chất của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong “Rừng xà nu”
là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể
hiện một số phận riêng. Tuy nhiên, tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ,
trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng, yêu núi nước, yêu buôn làng, quyết tâm đánh giặc
đến cùng. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà
do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng



hoà của nhiều giọng: Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật
tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ
nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của
dân tộc. Đặc biệt là Tnú - cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình; nhưng
anh đã biến đau thương thành hành động, trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ
nước. Hình ảnh hai bàn tay bị đốt của Tnú là hình ảnh nhiều ý nghĩa. Cuộc đời Tnú là cuộc đời
chung của biết bao người trong thời đại ấy. Người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp,
đậm chất “sử thi”. Có thể nói, chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của mọi người.
Dân tộc VN dù có hy sinh, dù có mất mác nhưng không bao giờ lùi bước trước kẻ thù.
Biểu hiện của tính sử thi ở truyện ngắn “Rừng xà nu” là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành
tráng làm bối cảnh cho câu chuyện. Thiên nhiên trong “Rừng xà nu” thấm đẫm một cảm hứng sử
thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu và kết thúc
tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Hiện lên trước mắt người đọc là
rừng cây xà nu ngút ngàn, hiên ngang trước nắng trước gió. Nguyễn Trung thành đã rất thành
công khi chọn cây xà nu- một loại cây mang đậm dấu ấn Tây Nguyên để làm nổi bật vẻ đẹp hùng
vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, núi rừng Tây Nguyên. Nhà văn đã tạo nên sức hấp dẫn của truyện
ngắn này bằng cách đưa người đọc đến một cảm giác mới lạ về một hương vị dậy lên từ rừng núi,
thiên nhiên chốn cao nguyên. Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát nhưng xà nu vẫn vươn
lên với sức sống mãnh liệt. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến traanh nhân
dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta. Cây xà nu, rừng xà nu là biểu tượng cho con người ở
Tây Nguyên:
++ Giọng điệu: Tính sử thi của “Rừng xà nu” còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang
trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xô Man. Giọng văn mang âm hưởng vang
dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa
chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc
miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm
giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một
dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc

giao hưởng hùng tráng.
Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo
nên dư âm hùng tráng đặc biệt. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu
truyện. Câu truyện mở ra bằng hình ảnh rừng xà nu được đặc tả kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối tác
phẩm rừng xà nu cũng xuất hiện để khép lại câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu
chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một
chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận
của Tây Nguyên.
Nguyễn Trung Thành sử dụng đặc biệt nhiều các phép chuyển nghĩa, các hình ảnh so sánh,
ẩn dụ, tượng trưng, nhân hoá nhất là khi thể hiện hình tượng xà nu. Lời văn của tác phẩm rất giàu
hình ảnh, giàu nhạc tính có nhịp điệu, với nhiều cấu trúc thành trùng điệp, những hình ảnh tương
phản có giọng điệu khi hào hùng khi tha thiết nhất là lối cấu trúc vòng tròn với hình tượng xà nu
trở đi trở lại ở đầu và cuối tác phẩm. Cách sử dụng ngôn ngữ như thế cũng mang dấu ấn của thể
loại sử thi cũng đem lại cho tác phẩm nhiều chất sử thi.
++ Nhận xét chung: Khuynh hướng sử thi như thế vừa có cội nguồn từ khuynh hướng chung
của hiện tượng văn học sau cách mạng, vừa được tạo nên từ không khí sử thi của truyện ngắn của
dân tộc sau những ngày đánh Mĩ mà Nguyễn Trung Thành từng gắn bó chiến đấu sâu sắc với một
chương sử thi đậm đặc như thế truyện ngắn rừng xà nu xứng đáng được coi là một pho sử thi của
thời đại. Từ nội dung tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật đến các hiện tượng, các phương diện hình
thức nghệ thuật, truyện ngắn rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành đều đậm đặc một chất sử thi.


ĐỀ SỐ 03
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Trang Tử nói: “Gà rừng đi mười bước mới nhặt được một hạt thức ăn, đi trăm bước mới uống
được một ngụm nước. Nhưng chúng không mong cầu được sống trong lồng”. Chúng ta có giống
được những con gà rừng không ? Nếu chúng ta vì ưa thích thóc gạo bày sẵn mà chịu chui vào
chiếc lồng. Rồi từ sau những song tre đó, chúng ta đòi trả tự do?
Từ xúc cơm, xếp quần áo, sách vở, đến chọn trường, chọn nghề, tìm việc, kiếm sống, chọn chồng

chọn vợ, chọn tương lai… Chúng ta sẽ quá quen với việc được sắp sẵn. Chúng ta ưa làm việc đã
được người khác lên kế hoạch hơn là tự mình vạch ra. Chúng ta chuộng thói quen hơn sáng tạo.
Chúng ta chỉ vui khi có người tâng bốc, chỉ hết buồn nếu có người an ủi vuốt ve. Chúng ta thậm
chí không muốn tự phân biệt sai đúng trừ khi có người làm thay. Chúng ta không thể làm chủ đời
mình. Cứ như vậy, chúng ta đánh mất bản năng của gà rừng và biến thành con chim trong lồng
lúc nào không biết nữa. Thậm chí, một con chim trong rất nhiều lớp lồng.
[…] Robert Fulghum từng trở thành tác giả best seller với một cuốn sách có tựa đề thú vị “Tất
cả những gì cần phải biết tôi đều được học ở nhà trẻ”. Đó là những nguyên tắc sống: chia sẻ,
chơi công bằng, không đánh bạn, để đồ đạc vào chỗ cũ, không lấy những gì không phải của mình,
dọn dẹp những gì bạn bày ra, nói xin lỗi khi làm tổn thương ai đó, rửa tay trước khi ăn, học một
ít, suy nghĩ một ít, vẽ và hát và nhảy múa và chơi và làm việc một ít mỗi ngày, ngủ trưa, có ý thức
về những điều kỳ diệu, cây cối và các con vật đều chết – và chúng ta cũng vậy, từ đầu tiên và
quan trọng nhất cần phải học: quan sát.
Hãy đếm xem: 100 chữ. Những gì cần phải học chỉ như vậy. Chúng ta được học ở nhà trẻ nhưng
đã đánh rơi dần trong quá trình lớn lên. Cũng như khi sinh ra, ta đã có sẵn bản năng độc lập
nhưng lại đánh mất nó trong quá trình sống. Không có bản năng độc lập, chúng ta không thể nắm
giữ được tự do. Nghĩa là trước khi đòi tự do, bạn phải tìm lại bản năng độc lập của mình.
(Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, Nxb Hội nhà văn, 2012, tr 135)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Vấn đề chính được tác giả nêu trong đoạn trích là gì ?
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói: “Gà rừng đi mười bước mới nhặt được một hạt thức
ăn, đi trăm bước mới uống được một ngụm nước. Nhưng chúng không mong cầu được sống trong
lồng”.
Câu 4. Trong tất cả các nguyên tắc sống được học ở nhà trẻ, anh/chị thấy nguyên tắc nào có giá
trị với mình nhất ? Vì sao ?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
“Cứ như vậy, chúng ta đánh mất bản năng của gà rừng và biến thành con chim trong lồng lúc
nào không biết nữa.”
Trong tư cách của người thanh niên tuổi 18, anh/chị có đồng tình với nhận định về giới trẻ như

trên? Hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?
(Ngữ văn 12, Tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2016)
—————-Hết—————-


ĐÁP ÁN 03
ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. (0,5 điểm) Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên: phương thức
nghị luận.
Câu 2. (0,75 điểm) Thí sinh có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau nhưng phải nêu được ngắn
gọn vấn đề chính trong đoạn trích là: chúng ta đang dần đánh mất bản năng độc lập, chủ động, tự
do.
Câu 3. (0,75 điểm) Thí sinh có thể có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng đảm bảo nội dung:
Con người phải rất vất vất vả để sinh tồn, nhưng đó là sự sinh tồn trong tự do. Đó là một cuộc
sống đáng sống hơn sống trong an nhàn đầy đủ nhưng thụ động, mất tự do.
Câu 4. (1,0 điểm) Thí sinh nêu được ít nhất một nguyên tắc sống có giá trị với bản thân (như tự
lập, hoà đồng, chia sẻ, yêu thương…) và giải thích lí do vì sao. Có thể có nhiều cách diễn đạt khác
nhau, nhưng về cơ bản, thí sinh trả lời được tác động tích cực của nguyên tắc sống đó.
LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng: HS biết viết đoạn nghị luận xã hội, có dung lượng khoảng 200 chữ, biết triển
khai luận điểm, diễn đạt mạch lạc
Yêu cầu về nội dung: Bài làm có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau nhưng phải phù hợp với
chuẩn mực đạo đức và pháp luật, đảm bảo các nội dung chính sau:
*Giải thích ý kiến:
– Bản năng của gà rừng: bản năng sống độc lập; con chim trong lồng: cuộc sống thụ động, không
làm chủ cuộc đời mình.
– Câu nói nhận định thực trạng con người đang đánh mất bản năng sống độc lập, rơi vào cuộc

sống thụ động, lệ thuộc, không làm chủ cuộc đời mình.
*Bàn luận:
Từ điểm nhìn của người trẻ tuổi nói về thế hệ mình, thí sinh có thể bàn luận theo nhiều hướng
khác nhau:
– Đồng tình với ý kiến: giới trẻ ngày nay thiếu khả năng tự lập:
+ Được bố mẹ bao bọc, thiếu kĩ năng sống.
+ Không có ý thức về giá trị của bản thân trong việc chọn nghề, trong suy nghĩ và hành động
trước các vấn đề của cuộc sống…
+ Hành động theo tâm lí đám đông.
– Không đồng tình với ý kiến: giới trẻ ngày nay có khả năng tự lập cao, có kĩ năng sống, có trách
nhiệm với bản thân và các xã hội: các tấm gương vượt khó, các tình nguyện viên, các tấm gương
khởi nghiệp…
Cái nhìn đa chiều về ý kiến: kết hợp cả hai ý trên trong lập luận
*Bài học và liên hệ bản thân:
– Nhận định trên hướng cho chúng ta có thái độ và hành động đúng đắn trong cuộc sống: sống là
không thụ động, phụ thuộc mà phải chủ động, tích cực.
– Luôn tin tưởng vào bản thân, tích cực, dám nghĩ, dám làm.
– Trang bị kiến thức, kĩ năng cho bản thân để có khả năng tự lập; ngay từ bây giờ tránh lối sống
thụ động, ỷ lại vào người khác.
Thang điểm:
Điểm 2: Đạt các yêu cầu về kĩ năng và kiến thức nêu trên, có ý tưởng mới mẻ, sáng tạo, văn viết
lưu loát.
Điểm 1. – Đáp ứng cơ bản các yêu cầu của đề, còn mắc lỗi diễn đạt
– Đạt các yêu cầu về kiến thức, văn viết lưu loát, chưa đảm bảo yêu cầu hình thức (đoạn văn)
Điểm 0,5: không hiểu rõ đề, bài quá sơ sài
Câu 2 (5,0 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng:
– Thí sinh biết kết hợp kiến thức, kĩ năng để viết một bài văn nghị luận văn học.
– Bài viết có bố cục rõ ràng, chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, ngôn ngữ trong sáng, có cảm xúc.



– Vận dụng tốt các thao tác lập luận.
Yêu cầu về kiến thức
Trên cơ sở những hiểu biết về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường qua đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng
sông?, thí sinh có thể trình bày những biểu hiện cái tôi của nhà văn theo những cách khác nhau nhưng
phải hợp lí, có sức thuyết phục. Sau đây là một số ý cần đạt:
Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
Cái tôi là gì?
– Cái tôi là nét riêng, điểm khác biệt của mỗi cá nhân (Ở phương diện khác, cái tôi là biểu hiện cao độ của
ý thức cá nhân, xuất hiện khi con người có nhu cầu được là chính mình). Với văn học, cái tôi không chỉ
thể hiện con người mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn.
– Trong thể loại tuỳ bút, bút kí, cái tôi của người viết trở thành một hình tượng trung tâm và xuất hiện trực
tiếp thành nhân vật tôi. Nếu trong truyện ngắn, nhân vật tôi là hình tượng hư cấu thì trong kí, nhân vật tôi
đồng nhất với tác giả. Sự hấp dẫn của thể loại này, xét đến cùng là là sự hấp dẫn của cái tôi tác giả.
Đặc điểm của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?
*Một cái tôi uyên bác
– Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống phong phú. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn hiểu biết từ
nhiều phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, văn hoá (thơ ca, âm nhạc, phong tục tập quán…) để cảm
nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương.
– Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống sâu sắc. Chẳng hạn, khám phá phương diện địa lí của dòng sông xứ
Huế, tác giả đã tìm hiểu tận thượng nguồn của nó trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn; khám phá vẻ
đẹp lịch sử của con sông, tác giả đã tìm hiểu nó từ thời Hùng Vương, thời Nguyễn Trãi, thời Quang Trung
đến thời hiện đại.
*Một cái tôi tài hoa, tinh tế, lãng mạn
– Thể hiện ở cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã quen thuộc với tất cả mọi người. Do
tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn của nó giữa lòng Trường Sơn, do gắn sông Hương với lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng sông
vốn chỉ được biết là dòng sông thơ mộng.
– Thể hiện ở khả năng quan sát tinh tường, sức tưởng tượng và liên tưởng phong phú.
+ Sông Hương được nhìn nhận bằng cặp mắt của nghệ sĩ giàu cảm xúc nên hiện lên với vẻ đẹp phong phú:

khi mãnh liệt và sâu lắng, khi phóng khoáng man dại mà bình thản, khi trầm mặc cổ kính, khi chỉ là mặt
hồ yên tĩnh…
+ Sông Hương được hình dung như người con gái, người phụ nữ với nhiều dáng vẻ, cung bậc cảm xúc
khác nhau.
– Thể hiện ở tài năng nghệ thuật của nhà văn khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương.
+ Liên tưởng phóng túng, tài hoa (qua sử dụng các biện pháp tu từ).
+ Vốn ngôn ngữ phong phú.
+ Câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu nhạc điệu, giàu chất thơ.
*Một cái tôi có tình yêu sông Hương, yêu xứ Huế tha thiết, gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước.
– Tác giả miêu tả vẻ đẹp sông Hương bằng một tình yêu say đắm, miêu tả sông Hương bằng nhiều phương
diện, nhiều góc độ, hiểu nỗi niềm dòng sông trong dòng chảy, khúc cua của nó; đề xuất cho người đọc
cách cảm nhận về sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành tri kỉ của sông Hương.
– Từ tình yêu sông Hương, tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người, văn hoá Huế tha thiết.
– Trách nhiệm của một công dân với đất nước khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường lật từng trang sử, giở từng
trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông Hương, từ đó bài kí giúp người đọc hiểu và yêu sông
Hương hơn.
Đánh giá
– Cái tôi của nhà văn trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? có thể đồng nhất với con người Hoàng Phủ Ngọc
Tường: uyên bác, tài hoa và tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước
– Qua cái tôi của nhà văn ta hiểu rõ hơn nét riêng trong phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường:
lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.


ĐỀ SỐ 04
ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Một người bạn Phi-líp-pin gửi cho tôi cuốn sách mỏng. Tôi mở ra và nhìn thấy tựa đề “12 điều
nhỏ bé mỗi người Phi-líp-pin có thể thực hiện để giúp ích Tổ quốc”. Tác giả – luật sư A-lếch-xanđrơ L. Lác-xơn – chỉ là một thường dân, nhưng cuốn sách đã được khá nhiều nhân vật nổi tiếng
của thế kỉ XX quan tâm và giới thiệu.
Đọc cuốn sách này, tôi thật sự bị thu hút vì những điều đơn giản mà tác giả đã trình bày và biện

giải.
Hãy tuân thủ Luật Giao thông. Hãy tuân thủ luật pháp.
Bạn có thể thắc mắc vì sao trong 12 điều nhỏ bé này, việc tuân thủ Luật Giao thông lại được đặt
lên hàng đầu?
Câu trả lời thật đơn giản. Luật Giao thông là những nguyên tắc giản đơn nhất trong nền pháp
luật của một đất nước. Luật Giao thông hiện diện trong mọi mặt sinh hoạt của cuộc sống thường
nhật, khi người dân phải ra đường. Chúng ta đối mặt với khoản luật này hằng ngày từ sáng đến
tối. Do đó, quyết định tuân thủ hay không tuân thủ Luật Giao thông chính là điều kiện để tạo ra
một môi trường liên tục cho mọi người cố gắng và nỗ lực trong từng ngày.
Một ngày nào đó, việc tuân thủ Luật Giao thông của chúng ta sẽ trở thành một thói quen, và dĩ
nhiên, đó là thói quen tuân thủ chuẩn mực của quốc gia. Một ngày nào đó, việc tuân thủ Luật
Giao thông làm cho chúng ta dễ tuân theo những điều luật phức tạp, khó khăn và quan trọng hơn
trong luật pháp nhà nước; từ đó, có thể xây dựng một thói quen văn hóa biết tôn trọng luật pháp
của bất cứ công dân nào trong một đất nước văn minh.
Đó là vì trật tự cũng giống như những bậc thang. Trước khi leo lên được bậc cao nhất, hãy bắt
đầu bằng nấc thang thấp nhất, bởi lẽ “cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu bằng
một bước đi nhỏ bé đầu tiên” (trích châm ngôn của Lão Tử).
(Theo báo điện tử Tuoitreonline, ngày 22-10-2007, Bài tập Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục
Việt Nam, 2016, tr.92, 93)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 2. Tại sao tác giả cho rằng “việc tuân thủ Luật Giao thông làm cho chúng ta dễ tuân theo
những điều luật phức tạp, khó khăn và quan trọng hơn trong luật pháp nhà nước” ?
Câu 3. Xác định và nêu tác dụng của phép tu từ cú pháp được sử dụng trong những câu văn sau:
“Một ngày nào đó, việc tuân thủ Luật Giao thông của chúng ta sẽ trở thành một thói quen, và dĩ
nhiên, đó là thói quen tuân thủ chuẩn mực của quốc gia. Một ngày nào đó, việc tuân thủ Luật
Giao thông làm cho chúng ta dễ tuân theo những điều luật phức tạp, khó khăn và quan trọng hơn
trong luật pháp nhà nước”.
Câu 4. Theo anh/chị, làm thế nào để việc tuân thủ Luật Giao thông trở thành một thói quen văn
hóa biết tôn trọng luật pháp? (Trình bày khoảng 5 đến 7 dòng)
LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến được
nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu bằng
một bước đi nhỏ bé đầu tiên”.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong đoạn trích sau:
Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào
đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi
như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên
tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ
huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất.
Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông
lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi
ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa


sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con
thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi
đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy
được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà
phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy
quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ
mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở
đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng tiếng reo hò của sóng thác
luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào
đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng cái cửa sinh nó trấn lấy.
Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống
ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng
cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái

được lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng
thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá,
nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá
mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn
thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.
Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái
sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc
ngừng chèo.
(Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2016, tr.189, 190)
------------------------Hêt--------------------------

ĐÁP ÁN 04


I .ĐỌC HIỂU
1 Phương thức biểu đạt chính: nghị luận. 0,50
2 Việc tuân thủ Luật Giao thông làm cho chúng ta dễ tuân theo những điều luật phức tạp, khó
khăn và quan trọng hơn trong luật pháp nhà nước vì:
– Tuân thủ Luật Giao thông sẽ hình thành ở mỗi người thói quen tuân thủ chuẩn mực của quốc
gia. Từ đó, dễ dàng tuân theo những điều luật phức tạp, khó khăn và quan trọng hơn trong luật
pháp nhà nước.
3
– Phép tu từ: Phép lặp cú pháp (lặp kết cấu ngữ pháp).
– Tác dụng: Nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tuân thủ Luật Giao thông và bày tỏ
niềm mong mỏi tha thiết vào ý thức chấp hành Luật Giao thông của người dân.
4
HS nêu những giải pháp theo quan điểm cá nhân nhưng cần phải hợp lí và có sức thuyết phục.
(Có thể tập trung vào các giải pháp như: Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức
của người dân. Tăng cường công tác điều hành, giám sát các hoạt động giao thông. Xử lí nghiêm

minh các hành vi vi phạm luật giao thông.)
LÀM VĂN 7,0
1 .Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về vấn đề: “Cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu
bằng một bước đi nhỏ bé đầu tiên”. 2,0
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận: Có câu mở đoạn, các câu phát triển ý và câu kết đoạn.
Đảm bảo số lượng chữ phù hợp với yêu cầu (khoảng 200 chữ), không quá dài hoặc quá ngắn. 0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu bằng
một bước đi nhỏ bé đầu tiên. 0,25
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành một đoạn văn hoàn chỉnh, lôgic; vận dụng tốt các thao tác lập
luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; rút ra được bài học cho bản thân.
* Giải thích:
– Hành trình ngàn dặm: đường đi dài (nghĩa đen), thành công lớn (nghĩa bóng).
– Bước đi nhỏ bé: việc làm, hành động nhỏ bé, cụ thể.
– Nội dung câu châm ngôn: đúc kết một chân lí đơn giản, có tính quy luật: muốn có được thành
công thì phải có bắt đầu; làm tốt việc nhỏ mới có được thành công lớn.
0,25
* Phân tích – Bàn luận: 0,75
HS có thể trình bày quan điểm cá nhân nhưng cần hợp lí, thuyết phục. Dưới đây là một hướng giải
quyết:
– Phân tích biểu hiện:
Trong đời sống tự nhiên, cũng như xã hội của con người, những điều lớn lao đều được tạo ra bởi
những gì nhỏ bé: biển cả mênh mông được tạo ra từ vô số giọt nước; cây đại thụ trưởng thành từ
hạt mầm; kì tích của nhân loại có được nhờ những nỗ lực từng bước của con người…
– Bàn luận:
+ Khẳng định tính đúng đắn của câu châm ngôn: Tất cả mọi điều vĩ đại trên thế giới này đều bắt
đầu từ những thứ nhỏ bé ở đâu đó, ở một khoảnh khắc nào đó trong quá khứ. Thực tế cho thấy
chẳng mấy ai hoàn thành việc lớn trong đời khi cứ ngồi một chỗ, chẳng làm gì cả. Những người
thành đạt là người luôn làm việc, luôn hành động.
+ Không phải cứ “bước đi” là sẽ vượt được “hành trình ngàn dặm” (tức là có được thành công)
nhưng muốn thành công thì nhất thiết phải có những “bước đi nhỏ bé đầu tiên”.

+ Việc làm, hành động có thể dẫn đến thành công hay thất bại song điều quan trọng là phải biết
rút ra những bài học kinh nghiệm từ những thành công hay thất bại đó.
+ Trong cuộc sống có những người biết ước mơ, dám nghĩ, dám làm và đi đến đích của cuộc hành
trình rất đáng ngợi ca; bên cạnh đó, cũng cần phê phán những người không làm gì cả, không đi
một bước nào hết, vì thế, không có được thành công thực sự.
* Bài học nhận thức và hành động:


Cần làm tốt việc nhỏ để có được thành công lớn; bắt đầu những điều lớn lao bằng những bước đi
vững chắc đầu tiên.
d. Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; đảm bảo quy tắc chính
tả, dùng từ, đặt câu. 0,25
2 Cảm nhận về hình tượng người lái đò trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà” 5,0
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được
vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề gồm nhiều ý/đoạn văn, kết bài kết luận được vấn đề. 0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Những phẩm chất đẹp đẽ của người lái đò trong cuộc vượt
thác nước sông Đà. 0,50
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp
chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; bám sát đoạn trích.
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích:
– Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, có phong cách độc đáo. Nhân vật của ông, dù ở lĩnh vực nào, cũng
luôn hiện lên trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
– “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm kết tinh những thành tựu nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau
Cách mạng, là đỉnh cao của thể tùy bút. Thông qua việc khắc họa thành công hình tượng người lái
đò sông Đà, nhà văn đã khẳng định, ngợi ca “thứ vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn những
người lao động ở Tây Bắc.
– Vẻ đẹp của hình tượng người lái đò được thể hiện tập trung qua cuộc vượt thác (đoạn trích).
0,25
* Cảm nhận về hình tượng người lái đò trong đoạn trích :
– Bối cảnh, tình huống xuất hiện nhân vật: Nhà văn đã đặt nhân vật vào một cuộc vượt thác. Con

sông Đà hung bạo, ác hiểm bày “trùng vi thạch trận” ba vòng, dụ thuyền đối phương…
– Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của nhân vật:
+ Ở vòng vây thứ nhất: người lái đò hiện lên với bản lĩnh dũng cảm phi thường. Mặc dù bị sóng
thác đánh miếng đòn hiểm độc nhất nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương…, vẫn tỉnh táo chỉ huy
con thuyền sáu bơi chèo để giành chiến thắng.
+ Ở vòng vây thứ hai: : người lái đò hiện lên với trí nhớ siêu phàm, kinh nghiệm dày dạn và hết
sức tài hoa. Ông nhớ mặt từng hòn đá lòng sông và “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”.
Từng động tác lái đò của ông vô cùng chuẩn xác, dứt khoát, khéo léo và tài hoa: lái miết một
đường chéo, tránh, rảo, đè sấn, chặt đôi…
+ Ở vòng vây thứ ba: nhân vật hiện lên với sự tài hoa, khéo léo và sức mạnh thể lực đáng ngưỡng
mộ. Ông đã điều khiển con thuyền với tốc độ “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”;
mọi động tác của ông đều đạt tới sự chính xác tuyệt đối.
– Vẻ đẹp bình dị, khiêm tốn của nhân vật:
+ Sau cuộc chiến đấu ác liệt với sóng nước, ghềnh thác sông Đà, người lái đò lại trở về với những
sinh hoạt bình dị: đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ…
+ Dù là người chiến thắng giòn giã, nhưng người lái đò không có một lời bàn về chiến thắng vừa
qua.
– Nghệ thuật khắc họa nhân vật:
+ Nhịp điệu câu văn mạnh mẽ như cao trào của một bản hùng ca
+ Cách kể chuyện hấp dẫn, đầy kịch tính
+ Ngôn ngữ điêu luyện, thể hiện sự uyên bác (huy động ngôn ngữ và kiến thức thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau trong đời sống).
* Đánh giá chung:
– Hình tượng người lái đò sông Đà đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: luôn
quan sát và miêu tả con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
– Qua hình tượng người lái đò, nhà văn muốn khẳng định: người anh hùng không chỉ có trong
chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
ĐỀ SỐ 05



Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Sau khi điện thoại Bphone – sản phẩm công nghệ đầu tiên của người Việt Nam được nhà
sản xuất BKAV giới thiệu là “chiếc điện thoại thông minh”, “siêu phẩm hàng đầu thế giới”… thì
đã gặp không ít những dư luận trái chiều, chính người Việt chê bai sản phẩm của người Việt.
Thậm chí có người còn đưa ra trò đùa quái ác, cụ thể là có thành viên trên cộng đồng mạng, sau
khi nói những lời lẽ mang tính chất dìm hàng Việt không thương tiếc, anh ta đã đăng tải lên
Facebook hình ảnh hóa đơn xác nhận việc anh hủy đặt mua 5 chiếc Bphone (phiên bản Mạ vàng
24K-128 GB) trị giá tổng 112.045.000 VND như một “chiến tích” để đời. Không những vậy,
người này còn kêu gọi nhiều người khác làm theo hành động của mình. Một thanh niên khác cũng
coi việc đặt mua và hủy đơn hàng điện thoại Bphone là một trào lưu giải trí và cũng bày “kinh
nghiệm” cho những ai muốn tham gia quấy phá sản phẩm của hãng BKAV.
Nhưng bên cạnh đó cũng không ít người cho rằng Bphone là niềm tự hào của người
Việt Nam, nếu có điều kiện nên mua hàng Việt, thay vì chỉ trích hãy ủng hộ khuyến khích…
(Nguồn Intenet)
Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ chức năng của đoạn trích trên? (0,5đ)
Câu 2: Suy nghĩ của anh/chị về hành động “chọc phá” của một số người trong đoạn trích đó? (0,75đ)
Câu 3: Anh/chị có đồng tình với quan điểm của không ít người “Bphone là niềm tự hào của người
Việt” không? Tại sao? (0,75đ)
Câu 4: Thông điệp gợi ra từ ý kiến: Nếu có điều kiện nên mua hàng Việt? (1,0đ)

Phần II. Làm văn: ( 7 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ văn bản trong phần Đọc hiểu nói trên, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của mình về vấn đề: Văn hóa chỉ trích của người Việt.

Câu 2( 5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về những nét tương đồng và khác biệt của hình tượng người chiến sĩ trong hai đoạn
văn sau:

“Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng.

Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng.
Kèn xung phong của chúng ta đã nổ lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…
Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không
biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng
đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu
giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lê nhọn hoắc đang bắt đầu xung
phong… ”
(Trích « Những đứa con trong gia đình » - Nguyễn Thi, SGK Ngữ Văn 12, tập hai, NXBGD)

“Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt
rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong
lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh
không kêu lên. Anh Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…”. Tnú không thèm, không
thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ
không kêu! Không!”
(Trích “Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành, SGK Ngữ Văn 12, tập hai, NXBGD năm 2014)
-------------------------Hết------------------------

ĐÁP ÁN 05


I. ĐỌC HIỂU
Văn bản trên thuộc PCNNCN: Báo chí
Hành động “chọc phá” của một số người nói trên thể hiện: Sự kém cỏi về nhận thức, ích kỉ, đố kị ganh
ghét với thành công của người khác và không có tinh thần tự tôn dân tộc.
Thí sinh có thể đồng tình hay không đồng tình.
– Nếu đồng tình với quan điểm trên, thì lí giải:Vì lần đầu tiên người Việt Nam mà đại diện là tập đoàn
BKAV sản xuất ra được một sản phẩm công nghệ thông minh, có thể cạnh tranh được với các hãng điện

thoại lớn hiện nay, cao hơn, nó cho thấy trí tuệ Việt Nam rất đáng tự hào, nếu biết khai thác Việt Nam sẽ
là một quốc gia phát triển trong lĩnh vực công nghệ.
– Nếu không đồng tình thì phải có nhứng lí giải hợp lí, thuyết phục.
Thông điệp gợi ra có thể là: Người Việt Nam hãy tích cực ủng hộ, khuyến khích cho Bphone cũng như
hàng Việt nói chung. Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam để giúp các doanh nghiệp, các nhà đầu
tư trong nước phát triển, để dân giàu nước mạnh, đó là thể hiện lòng yêu nước trong bối cảnh hiện nay.
II.LÀM VĂN

Viết một đoạn văn ngắn(khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh/ chị về vấn đề Văn hóa
chỉ trích của người Việt)
a. Đảm bảo cấu trúc của một đoạn văn nghị luận 200 chữ ( tổng – phân – hợp).
– Có đủ kết cấu của đoạn văn gồm: mở đoạn, phát triển đoạn, kết đoạn.
+Phần mở đoạn: Giới thiệu được vấn đề nghị luận.
+Phần phát triển đoạn: Triển khai được vấn đề nghị luận.
+Phần kết đoạn: Rút ra được bài học nhận thức và hành động cho bản thân.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Văn hóa chỉ trích của người Việt

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ
giữ lý lẽ và dẫn chứng; rút ra biện pháp khắc phục hiện tượng.
* Câu mở đoạn: Dẫn ý liên quan đến hiện tượng Văn hóa chỉ trích của người Việt.
* Các câu phát triển đoạn:
– Giải thích:Văn hóa chỉ trích được hiểu là trình độ nhận thức, văn hóa của con người khi phê phán
những khiếm khuyết, sai lầm của ai đó.
– Bàn luận: Thực trạng văn hóa chỉ trích của người Việt:
+ Một bộ phận người có học thức phê phán đúng lúc đúng chỗ, đúng mức độ,có cơ sở thuyết phục, thiện
chí góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
+ Nhưng một bộ phận người Việt đặc biệt người Việt trẻ hiện nay có biểu hiện thái quá:Có cái nhìn phiến
diện; Lời nói: thiếu văn hóa; Hành động: Chọc phá, gây thiệt hại và tổn thương cho người khác, xã hội…
– Nguyên nhân:
+Do nhận thức kém, thiếu hiểu biết về các vấn đề của cuộc sống, của xã hội.

+ Thiếu một cái nhìn công tâm, khoa học và biện chứng khi nhìn nhận đánh giá sự việc hay con người.
– Hậu quả:
+ Chỉ trích thiếu văn hóa làm cho người bị chỉ trích bị tổn thương, thiếu niềm tin vào cuộc sống.
+Làm thui chột ý chí và tài năng sáng tạo của con người.
+ Làm xấu hình ảnh Đất nước, con người Việt Nam trong con mắt bạn be quốc tế,
(Tuy nhiên, xã hội vẫn có hiện tượng một số người muốn nổi tiếng nhờ tai tiếng khiến dư luận bức xúc
nên mọi sự chỉ trích không hoàn toàn sai)
– Câu kết đoạn: đưa ra bài học nhận thức hành động:
+ Chỉ trích là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội
+Cần nâng cao văn hóa chỉ trích cho mỗi người…

b) Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (1,0 điểm):
- Điểm 1,0: Xác định đúng vấn đề cần nghị luận – Vẻ đẹp của hình tượng người chiến sĩ cách mạng Việt
Nam thời kháng chiến.
- Điểm 0,5: Xác định chưa rõ vấn đề cần nghị luận, chỉ nêu chung chung.
- Điểm 0: Xác định sai vấn đề cần nghị luận, trình bày lạc sang vấn đề khác.

c) Chia vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp; các luận điểm được triển khai theo
trình tự hợp lí, có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt các thao tác lập luận để triển khai các luận


điểm (trong đó phải có thao tác phân tích, so sánh); biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng
(4,0 điểm):
- Điểm 4,0: Đảm bảo các yêu cầu trên; có thể trình bày theo định hướng sau:
+ Giới thiệu về tác giả, tác phẩm;
+ Phân tích hình tượng người chiến sĩ trong hai văn bản
++ Nhân vật Việt:
Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được tinh thần, ý chí,
quyết tâm chiến đấu của nhân vật trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ nhất của nhân vật : bị thương, bị lạc
đồng đội, một mình nằm lại giữa chiến trường, Việt vẫn hướng về phía có tiếng súng của đồng đội, phân

biệt rõ ta – địch, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu….
++ Nhân vật Tnú:
Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được tinh thần, ý chí,
quyết tâm chiến đấu của nhân vật trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ nhất của nhân vật : bị đốt cháy
mười đầu ngón tay vẫn cắn răng chịu đựng, nhớ lời anh Quyết dạy, quyết không kêu van….
+ Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của hai nhân vật :
++ Sự tương đồng:
Hai nhân vật đều phải chịu đựng những đau đớn về thân xác, đơn độc khi chiến đấu ; là hình mẫu
của người chiến sĩ dũng cảm, kiên cường, tuyệt đối trung thành với cách mạng, đất nước ; là biểu tượng
đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ
++ Sự khác biệt:
+++ Nhân vật Việt : Chiến đấu với tinh thần quả cảm, lạc quan, hồn nhiên, yêu đời, tin tưởng
vào cách mạng, đồng đội. Ở Việt, chủ yếu chỉ có nỗi đau về thể xác do bị thương.
+++ Nhân vật Tnú : Chiến đấu bằng ý chí quyết tâm và lòng căm thù giặc sâu sắc, do vừa trải
qua những biến cố, mất mát trong đời sống cá nhân (vợ và con bị giặc giết chết ngay trước mắt). Ở Tnú,
đó là nơi cộng hưởng cả nỗi đau thể xác và tinh thần.

Thí sinh có thể có những cảm nhận và diễn đạt khác nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục.

ĐỀ SỐ 06
Đọc hiểu ( 3,0 điểm )


Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi
“… (1) Thật vậy, Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc từng viết: “Sách vở đầy bốn vách/ Có
mấy cũng không vừa”. Đáng tiếc, cuộc sống hiện nay dường như “cái đạo” đọc sách cũng dần
phôi pha. Sách in nhiều nơi không bán được, nhiều nhà xuất bản đóng cửa vì thua lỗ, đặc biệt
sách bị cạnh tranh khốc liệt bởi những phương tiện nghe nhìn như ti vi, Ipad, điện thoại Smart, và
hệ thống sách báo điện tử trên Internet. Nhiều gia đình giàu có thay tủ sách bằng tủ rượu các
loại. Các thư viện lớn của các thành phố hay của tỉnh cũng chỉ hoạt động cầm chừng, cố duy trì

sự tồn tại.
…(2) Bỗng chợt nhớ khi xưa còn bé, với những quyển sách giấu trong áo, tôi có thể đọc
sách khi chờ mẹ về, lúc nấu nồi cơm, lúc tha thẩn trong vườn, vắt vẻo trên cây, lúc chăn trâu, lúc
chờ xe bus… Hay hình ảnh những công dân nước Nhật mỗi người một quyển sách trên tay lúc
ngồi chờ tàu xe, xem hát, v.v… càng khiến chúng ta thêm yêu mến và khâm phục. Ngày nay, hình
ảnh ấy đã bớt đi nhiều, thay vào đó là cái máy tính hay cái điện thoại di động. Song sách vẫn
luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống phẳng hiện nay…”
(Trích “Suy nghĩ về đọc sách” – Trần Hoàng Vy, Báo Giáo dục & Thời đại)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn
văn trên? (1,0 điểm)
Câu 2. Trong đoạn (2), tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào? (0,5 điểm)
Câu 3. Hãy ghi lại câu văn nêu khái quát chủ đề của văn bản? Nêu nội dung chính của văn bản
trên? (1,0 điểm)
Câu 4. Anh (chị) hiểu như thế nào về câu nói: “Sách vở đầy bốn vách/ Có mấy cũng không
vừa”. (0,5 điểm)
II. Làm văn (7.0 điểm )
Câu 1. (2,0 điểm)
Anh (chị) hãy viết đoạn văn (khoảng 15 dòng) trình bày suy nghĩ của mình về ý nghĩa nội dung
thông điệp từ văn bản trên: “Song sách vẫn luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống phẳng
hiện nay”
Câu 2. (5.0 điểm)
Có ý kiến cho rằng: Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như A Phủ. Câu chuyện
về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại.
Anh/ chị hãy so sánh hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) và Tnú (Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành) để thấy được những phẩm chất mới mẻ ở Tnú
-------------------------Hết------------------------

ĐÁP ÁN 06
Câu1: - Đoạn văn viết theo phong cách ngôn ngữ báo chí.



– Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn: Nghị luận
Câu2:– Trong đoạn (2), tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận so sánh.
Câu3: – Câu văn nêu khái quát chủ đề của văn bản: “Song sách vẫn luôn cần thiết,
không thể thiếu trong cuộc sống phẳng hiện nay…”
– Nội dung chính của đoạn văn:
+ Trong thời đại công nghệ số, văn hóa đọc đang có xu hướng bị cạnh tranh lấn át,
có nguy cơ bị mất dần đi.
+ Cần thấy được ý nghĩa của việc đọc sách và có thói quen đọc sách.
Câu4: Ý nghĩa câu nói: “Sách vở đầy bốn vách/ Có mấy cũng không vừa”:
+ Sách là sản phẩm tinh thần quý giá của con người, do con người sáng tạo ra; là
kho tàng tri thức vô tận của nhân loại.
+ Quá trình con người sử dụng, sưu tầm, giữ gìn, tích lũy, bảo tồn sách thật nhiều,
phong phú đến bao nhiêu cũng không bao giờ là đủ.
II. Làm văn (7.0 điểm )
Câu 1. (2,0 điểm)
– Khẳng định vai trò của sách trong thời đại công nghệ số, các phương tiện thông
tin nghe – nhìn đang phát triển, có nhiều ưu thế, hấp dẫn hơn so với sách, và thực
tế chúng đang có xu hướng cạnh tranh lấn át văn hóa đọc. Tuy nhiên vẫn không
thể thay thế được hoàn toàn cho sách.
– Đọc sách vẫn luôn được khẳng định là một nhu cầu cần thiết với những thế
mạnh riêng của nó:
+ Đó là cách thưởng thức văn hoá sang trọng và có chiều sâu.
+ Là phương cách tốt nhất để làm giàu có vốn ngôn từ và cách hành văn, hình
thành được kỹ năng ngôn ngữ và sẽ tự tin giao tiếp.
+ Cung cấp thông tin, tri thức, mở rộng, nâng cao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực.
+ Bồi dưỡng giáo dục đạo đức, tình cảm, nâng cao khiếu thẩm mĩ, hoàn thiện
nhân cách, phát triển tâm hồn để hướng tới những giá trị tốt đẹp.
+ Tăng cường khả năng tư duy, phân tích, sáng tạo, cải thiện khả năng tập trung,
suy ngẫm, tra cứu, tìm tòi…
– Cần hình thành thói quen, tạo hứng thú đọc sách, biết lựa chọn sách để đọc và

cần có phương pháp đọc sách hiệu quả.
II. Làm văn (7.0 điểm )
Câu 2. (5,0 điểm)
So sánh hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) và Tnú (Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành) để thấy được những phẩm chất mới mẻ ở Tnú

Yêu cầu cụ thể:
Mở bài. Giới thiệu khái quát hai tác phẩm, tác giả và vấn đề nghị luận
Thân bài
Giải thích:
- Tìm đường, nhận đường là vấn đề nhận thức về lý tưởng - mục đích cao nhất của
cuộc sống.
- Nhân vật A Phủ của Tô Hoài được coi là nhân vật đang trên đường đi tìm lý
tưởng và nhận thức lý tưởng. Nhân vật Tnú đã có lý tưởng ngày khi anh còn nhỏ.


→ Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu
chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Có nghĩa Tnú là hệ
nối tiếp, đi sau sẽ có những bước phát triển và phẩm chất mới mẻ hơn so với nhân
vật đàn anh A Phủ.
Điểm gặp gỡ và khác biệt của hai nhân vật
2.1. Điểm gặp gỡ
* Đều sinh ra từ những vùng cao xa xôi, hẻo lánh:
- A Phủ sinh ra tại vùng núi Tây Bắc.
- Tnú sinh tại vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió.
* Đều mồ côi:
- Cha mẹ A Phủ mất trong dịch đậu mùa khi đó cậu chừng 10 tuổi. Lần lần đi làm
thuê cho nhà người.
- Tnú cũng mồ côi từ nhỏ được dân làng STrá nuôi dưỡng.
* Lớn lên đều là những chàng trai khỏe mạnh, cường tráng:
+ A Phủ được ví như con trâu tốt trong làng.

+ Tnú được ví như cây xà nu cường tráng bất chấp đạn bom.
* Cả hai đều có phẩm chất dũng mãnh, căm thù cái ác, sự bất công và đi theo cách
mạng:
- A Phủ
+ Chống lại A Sử - con quan khi hắn phá cuộc chơi → không sợ cường quyền.
+ Sau khi được Mị cắt dây cởi trói, chạy đến vùng Phiềng Sa, được người cán bộ
A Châu giác ngộ, anh đã là du kích hoạt động rất tích cực.
- Tnú:
+ Gan góc quả cảm ngay từ nhỏ (Chi tiết: Nuôi giấu cán bộ, nuốt thư khi bị bắt)
+ Chỉ huy dân làng mài vũ khí, chuẩn bị lực lượng chiến đấu.
+ Mặc dù chịu nhiều đau thương: vợ con mất, bàn tay bị đốt nhưng anh vẫn đi lực
lượng cầm vũ khí chiến đấu.
2.2.Sự khác biệt
a. A Phủ
* Cảnh ngộ của A Phủ rất đáng thương.
- A Phủ mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ
- Nạn nhân của những tập tục phong kiến lạc hậu
- Kiếp sống nô lệ ngựa trâu cho nhà thống lí.
* Tính cách của A Phủ rất đặc biệt:
- Gan góc, có ý thức phản kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì (chi tiết: đánh A
Sử; để hổ bắt mất một con bò, anh không van xin, không cầu cứu, đêm cúi xuống
nhay đứt hai vòng dây trói; khi được Mị cứu, anh quật sức chạy thoát)
- Tuy nhiên do bị đọa đày triền miên khiến trong anh còn rơi vào tình trạng chấp
nhận, cam chịu(chi tiết: tập tễnh đi giết lợn phục dịch những kẻ vừa hành hạ mình;
một mình rong ruổi ngoài rừng mà không chạy trốn; nghe lời thống lí tự đi lấy cọc,
đóng cọc, lấy dây để hắn trói mình) → thói quen cam chịu, cam phận của người
nông dân trên các vùng núi cao, khi ánh sáng của Đảng chưa vươn tới. Họ sống
như trong đêm tối không biết đường ra, không ai chỉ đường vạch lối. Đến khi cái
chết cận kề, họ mới biết dựa vào nhau để giành giật lấy sự sống.
→ Tô Hoài rất biện chứng trong hai mặt đối lập của nhân vật và chỉ ra cho người

đọc thấy đó làbước tìm đường, nhận đường của A Phủ để sau này sang Phiềng Sa
gặp A Châu (cán bộ Đảng), anh được giác ngộ và sẵn sàng cầm súng trở thành du
kích quay về giải phóng quê hương.


b. Tnú:
- Khác với A Phủ, câu chuyện về cuộc đời của Tnú được mở ra từ chính câu
chuyện về A Phủ được khép lại.
+ Tnú mồ côi nhưng được sống trong vòng tay yêu thương đùm bọc của dân làng
Xô Man.
+ Được gần cán bộ cách mạng là anh Quyết, được dạy chữ để sau này tiếp nối làm
cán bộ, lãnh đạo phong trào cách mạng ở quê hương.
→ Tnú có những điều kiện mà các nhân vật anh hùng miền sơn cước trước đó
chưa có, hay chỉ có khi đã trải qua vô vàn đau khổ, gian truân.
Vì thế, ở Tnú không còn là nhân vật tìm đường nữa, anh đã có những điều kiện
thuận lợi và phẩm chất mới mẻ, vượt xa với A Phủ
- Tnú có một bi kịch đau đớn nhưng vượt lên hoàn cảnh đau thương, anh lên
đường vào lực lượng vũ trang tiếp tục chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.
Đánh giá chung
- Tnú - người anh hùng mà cụ Mết kể trong cái đêm dài ấy có những phẩm chất
thật đáng quý. Anh may mắn hơn so với thế hệ đàn anh của mình như anh hùng
Núp và A Phủ:
+ Không phải sống kiếp tội đòi cam phận, cam chịu.
+ Được thừa hưởng phong trào cách mạng từ cuộc kháng chiến chống Pháp của
dân tộc.
+ Được giác ngộ lí tưởng cách mạng ngay từ tuổi nhỏ.
- Nhưng “Lớp cha trước, lớp con sau / Đã thành đồng chí chung câu quân
hành” tất cả các anh đều là những người con ưu tú của núi rừng Tây Bắc, Tây
Nguyên trong các cuộc chiến tranh vệ quốc, mang trong mình chủ nghĩa yêu nước,
chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, mãi mãi là tấm gương sáng

cho các thế hệ tiếp nối.
Kết bài:
- Đánh giá lại vấn đề
- Bài học nhận thức và hành động cho thế hệ trẻ trong cuộc sống, xã hội mới.

ĐỀ SỐ 07
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
1. Đọc đoạn thơ sau đây và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:
Trên những trang vở học sinh
Trên bàn học trên cây xanh
Trên đất cát và trên tuyết


Tôi viết tên em
…Trên sức khỏe được phục hồi
Trên hiểm nguy đã tan biến
Trên hi vọng chẳng vấn vương
Tôi viết tên em
Và bằng phép màu một tiếng
Tôi bắt đầu lại cuộc đời
Tôi sinh ra để biết em
Để gọi tên em
TỰ DO
( Tự do – Pôn Ê-luy-a - SGK Ngữ văn 12, cơ bản, tập 1,tr. 120)
Câu 1. Cho biết đoạn thơ trên thuộc thể thơ nào? (0,5 điểm)
Câu 2. Xác định 02 biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong đoạn thơ trên, tác dụng của nó.(1,0
điểm)
Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên (0,5 điểm)
Câu 4. Anh/chị hãy giải thích ngắn gọn mục đích của tác giả khi viết từ TỰ DO ở cuối bài thơ
bằng chữ in hoa và ý nghĩa của từ này .(1,0 điểm)

Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Dựa vào ý những câu thơ phần đọc- hiểu trên, viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của anh/chị về chủ đề tự do.
Câu 2. (5,0 điểm)
Đọc tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (sách Ngữ văn 12) có ý kiến cho rằng: Đó là một
truyện ngắn thấm đẫm chất hiện thực. Ý kiến khác thì khẳng định: Đó là một tác phẩm giàu chất
trữ tình.
Từ cảm nhận của mình về tác phẩm, anh/chị hãy bình luận về các ý kiến trên.
-------------------------Hết------------------------

ĐÁP ÁN 07
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Câu 1. Đoạn thơ trên thuộc thể thơ tự do
Câu 2. Hai biện pháp tu từ: điệp từ (trên, tôi, em); lặp cấu trúc (ở hai dòng thơ Tôi viết tên em…)
hoặc nhân hóa (gọi tự do là em)…
Câu 3. Đoạn thơ bộc lộ tình yêu Tự do tha thiết, mãnh liệt của tác giả


Câu 4. Tác giả viết hoa từ TỰ DO ở cuối bài nhằm mục đích:
- Thể hiện sự thiêng liêng, cao cả của hai tiếng TỰ DO
- Nhấn mạnh đề tài của bài thơ, giải thích tình cảm gắn bó, khao khát, tôn thờ, … của tác giả
dành trọn cho TỰ DO. TỰ DO là tất cả những gì ông mong mỏi, mơ ước mọi lúc, mọi nơi
II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 2. (5,0 điểm)
* Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo
lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể hiện khả năng cảm
thụ văn học tốt; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ
pháp.
* Yêu cầu cụ thể:

- Điểm 2,0: Đảm bảo các yêu cầu trên; có thể trình bày theo định hướng sau:
+ Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
+ Phân tích để thấy Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn vừa có tính hiện thực, vừa là tác
phẩm giàu chất trữ tình.
++ Chất hiện thực Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật
được các ý sau: Truyện phản ánh bộ mặt thật của xã hội phong kiến thực dân vùng Tây Bắc trước
cách mạng tháng 8, khi số phận những người dân nghèo nô lệ vô cùng khổ nhục (thông qua nhân
vật Mị và A Phủ); bọn quan lại cường hào (cha con thống lí Pá Tra) ngang nhiên lộng hành, áp
bức, bóc lột, hành hạ người dân nghèo một cách tàn bạo; trong hoàn cảnh đó, người dân nghèo
vẫn khao khát vươn lên cuộc sống tự do, bằng sức sống mãnh liệt của mình, bằng tình yêu thương
những người cùng giai cấp, họ đã vượt thoát khỏi cuộc sống nô lệ, tìm đến cuộc sống tự do, đấu
tranh cho hạnh phúc…
++ Chất trữ tình: Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật
được vẻ đẹp trữ tình của tác phẩm khi tái dựng khung cảnh thiên nhiên và những phong tục tập
quán đẹp ở vùng rẻo cao mỗi độ xuân về; khi miêu tả tâm trạng đầy sức sống của Mị trong đêm
tình mùa xuân khi nghe tiếng sáo; khi bộc lộ niềm tin vào tình người sâu sắc ở đoạn Mị cởi trói
cho A Phủ…
+ Đánh giá về sự hài hòa , đan quyện giữa chất hiện thực và chất trữ tình
Thí sinh có thể có những cảm nhận và diễn đạt khác nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phụ

ĐỀ SỐ 08
Phần I : Đọc hiểu (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Bạn hãy tưởng tượng cuộc đời như một trò chơi tung hứng. Trong tay bạn có năm quả bóng
mang tên là: công việc, gia đình, sức khoẻ, bạn bè, và tinh thần. Bạn sẽ hiểu ngay rằng công việc
là quả bóng cao su. Vì khi bạn làm rơi nó xuống đất, nó sẽ nảy lên lại. Nhưng bốn quả bóng còn


lại – gia đình, sức khoẻ, bạn bè và tinh thần – đều là những quả bóng bằng thủy tinh. Nếu bạn lỡ
tay đánh rơi một quả, nó sẽ bị trầy sướt, có tì vết, bị nứt, bị hư hỏng hoặc thậm chí bị vỡ nát mà

không thể sửa chữa được. Chúng không bao giờ trở lại như cũ. Bạn phải hiểu điều đó và cố gắng
phấn đấu giữ cho được sự quân bình trong cuộc sống của bạn.
Bạn đừng tự hạ thấp giá trị của mình bằng cách so sánh mình với người khác vì mỗi chúng
ta là những con người hoàn toàn khác nhau. […]
Bạn chớ đặt mục tiêu của bạn vào những gì mà người khác cho là quan trọng. Chỉ có bạn
mới biết rõ điều gì tốt nhất cho chính mình […]
Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ hoặc ảo tưởng về
tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng khoảnh khắc của nó, bạn sẽ sống trọn
vẹn từng ngày của đời mình. […]
Bạn chớ quên nhu cầu tình cảm lớn nhất của con người là cảm thấy mình được đánh giá
đúng. […]
Cuộc đời không phải là đường chạy. Nó là một lộ trình mà bạn phải thưởng thức từng chặng
đường mình đi qua.
(Trích bài phát biểu Sống trọn vẹn từng ngày của tổng giám đốc Tập đoàn Cocacola;
Quà tặng cuộc sống)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính ? (0,5 điểm)
Câu 2. Nêu và chỉ ra hiệu quả của các biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản?
(0,75 )
Câu 3. Vì sao khi so sánh mình với người khác lại là cách chúng ta hạ thấp mình? (0,75 )
Câu 4. Anh, chị hiểu thế nào về câu sau: Cuộc đời không phải là đường chạy. Nó là một lộ
trình mà bạn phải thưởng thức từng chặng đường mình đi qua (1,0 điểm)
Phần II: Làm văn (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Hãy viết một đoạn văn (200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến được nêu
trong phần Đọc hiểu: Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ
hoặc ảo tưởng về tương lai.
Câu 2: (5,0 điểm)
Những hiểu biết của anh/chị về sự đổi mới của Nguyễn Minh Châu ở tác phẩm "Chiếc thuyền
ngoài xa".
------------------------Hết-------------------------


ĐÁP ÁN 08
Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Chỉ ra được 2 biện pháp nghệ thuật chính:
+ So sánh (cuộc đời như một trò chơi tung hứng, công việc là quả bóng cao su, gia đình, sức khỏe,
bạn bè và tinh thần là những quả bóng bằng thủy tinh) =>


Lối so sánh hình tượng này tạo sự tương tác giữa các giá trị sống quan trọng trong cuộc đời mỗi
con người.
+ Điệp cấu trúc (bạn … chớ để/ chớ đặt/ chớ quên….. ) khẳng định, nhấn mạnh ý thức, vai trò của
bản thân trong cuộc đời.
– Khi đem ra so sánh mình với người khác, cả người so sánh và cả người bị đem ra so sánh đều bị
tổn thương và không được tôn trọng
– Bởi vậy, hãy biết trân trọng những gì mình có bởi chúng ta là một cá nhân đặc biệt; chúng ta
hãy sống cuộc sống trọn vẹn của chính mình.
– Cuộc đời không phải là một đường chạy thẳng liên tục và bằng phẳng để chúng ta có thể dễ
dàng đến đích hay vội vàng băng qua.
– Cuộc đời là một lộ trình bao gồm nhiều chặng đường dài: có thể là chặng đường đang sống, có
thể là chặng đường đã qua, cũng có thể là chặng đường ta định tới: có vui – buồn, có khổ đau –
hạnh phúc, có thành công – thất bại, thậm chí phải trả giá bằng máu và nước mắt. Để có một cuộc
đời trọn vẹn ta phải suy ngẫm “thưởng thức”, “nhấm nháp” lần lượt tất cả những điều đó.
Làm văn
Câu 1
Suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến được nêu trong phần Đọc hiểu: Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ
tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ hoặc ảo tưởng về tương lai.
Yêu cầu về kỹ năng: Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận (khoảng 20 – 30 dòng), xác định đúng
vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành đoạn văn; vận dụng tốt các thao tác lập
luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; khuyến khích sáng tạo; đảm bảo quy tắc chính tả,
dùng từ, đặt câu

Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách song cần đảm bảo một số ý
chính sau:
1. Giải thích
– Để cuộc sống trôi qua kẽ tay: Lãng phí thời gian, tuổi trẻ, khiến cuộc sống buồn tẻ
– Đắm mình trong quá khứ: là tôn thờ quá khứ, coi quá khứ là những gì tốt đẹp nhất.
– Ảo tưởng về tương lai: vẽ ra tương lại rực rỡ như ý.
=> Nó là lời nhắc nhở mỗi bạn trẻ không nên lãng phí tuổi trẻ, lãng phí cuộc đời mình vì những
điều đã qua hoặc những gì chưa tới mà phải sống hết mình với hiện tại, tận hiến, tận hướng để
cuộc đời mình có ý nghĩa. ý kiến này là lời khuyên hết sức đúng đắn và ý nghĩa.
2. Bàn luận vấn đề
– Quá khứ là những gì đã qua, không bao giờ quay lại. Vì vậy nếu cứ đắm chìm trong quá khứ, ru
mình giữa vinh quang hay đau khổ trách móc bản thân, nuối tiếc quá khứ ấy sẽ khiến chúng ta
lãng quên, bỏ lỡ những cơ hội, những điều tốt đẹp hiện tại.
– Tương lai là cái chưa đến, sắp đến và sẽ đến. Tương lại phụ thuộc hoàn toàn vào hành động của
mỗi chúng ta ở hiện tại. Nếu chúng ta biết nắm bắt thời cơ, không ngừng phấn đấu ở hiện tại sẽ
được hưởng thành quả trong tương lai.
– Sống, cống hiến, học tập và lao động cũng cần đi liền với hưởng thụ. Biết nâng niu, trân trọng
những giá trị vật chất cũng như tinh thần của cuộc sống hiện tại cũng là điều quan trọng và cần
thiết.
3. Bài học nhận thức và hành động
– Không chủ quan dựa vào quá khứ, không ảo tưởng trông chờ vào tương lai may mắn.
– Cống hiến hết mình cho hiện tại, xây dựng mục tiêu, kế hoạch cho tương lai
Câu 2
I. Mở bài
- Giới thiệu Nguvễn Minh Châu và vị trí mở đường trong công cuộc đổi mới văn học sau năm
1975.
- Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" là một minh chứng tiêu biểu, thể hiện những đổi mới của
Nguyễn Minh Châu trong cách khám phá hiện thực hiện thực đời sống những năm sau 1975.
II. Thân bài



1. Giới thiệu vài nét về sự đổi thay của Nguyền Minh Châu trong hai chặng đường sáng tác (trước
và sau 1975). Đọc tác phẩm Nguyễn Minh nhâu có thể hình dung khá rõ quá trình vận động về tư
tưởng, tình cảm cũng như trăn trở, tìm tòi đổi mới cách tiếp cận cuộc sống là bút pháp sáng tạo
với những đóng góp đáng trân trọng. Từ khuynh hướng sử thi, lãng mạn chuyển sang cảm hứng
thế sự, đời tư, đời thường với những phức tạp mới nảy sinh trong đời sống con người sau chiến
tranh.(1,0 điểm)
2. Những đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong cách khám phá hiện thực xuất phát từ tình huống
của tác phẩm (tình huống nhận thức).
a. Đó là cái nhìn mang tính chất khám phá sự thật: Đằng sau bức ảnh chụp con thuyền rất đẹp. cái
đẹp ngoại cảnh tuyệt đỉnh mà người phóng viên thu được ẩn chứa một cuộc sống vô cùng đắng
cay với nỗi đau thân phận của cuộc sống con người những năm sau 1795. Đây là vấn đề văn học
trước 1975 hiếm khi đề cập=> C/M (2,0 điểm)
b. Cách nhìn về con người: Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là người phụ nữ. Trong con người
xấu xí, lầm lụi cam chịu ấy còn có một con người khác mà ta không hay biết. Chị có cái nhìn mà
chỉ người trong cuộc mới thấy, cái nhìn đó gắn với thực tế: lo lắng cho số phận của những đứa con
trong cuộc sống lênh đênh trên biển. Như vậy, sau chiến tranh nhà văn quan tâm hơn đến đời sống
cá nhân của con người, đã khám phá ra những bão tố của cuộc sống gia đình. Nhưng sự giải quyết
những mâu thuẫn của cuộc sống thực tại (gia đình người dân chài) không hề dễ dàng. Bởi vì, sự
việc, con người trong mối quan hệ đa chiều, hết sức phức tạp.=> C/M (2,0 điểm)
c. Cái mới trong cách khám phá hiện thực Nguyễn Minh Châu: Ông đã thu nhỏ cái nhìn của mình
trong phạm vi cuộc sống gia đình, một nội diện hẹp nhưng lại mở ra nhiều điều lớn lao, sâu sắc.
Trong bức tranh nhỏ, chứa đựng tất cả các vấn đề xã hội. So sánh với Mảnh trăng cuối rừng truyện ngắn viết trong thời kì đấu tranh chống Mĩ ở miền Bắc 1970, lúc này con người cuộc sống
mang vẻ đẹp lí tưởng vì yêu cầu của thời đại. Nhà văn cần khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp,
cái thiện, cái cao cả với cái thấp hèn... Trước và sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu vẫn là một
con người suốt đời đi săn tìm cái “hạt ngọc” ẩn sâu trong tâm hồn con người đó là: Nguyệt, Lãm
trong "Mảnh trăng cuối rừng " là người đàn bà hàng chài trong“Chiếc thuyền ở ngoài xa”, song
tác giả đã có sự đổi mới trong cách nhìn về hiện thực vì cuộc sống và tâm thế sáng tạo không còn
như trước. (2,0 điểm)
d. Về nghệ thuật:

Sự sáng tạo tình huống truyện mang ý nghĩa nhận thức, để nhân vật va chạm với suy nghĩ của
các nhân vật khác. Cũng giống như "Bức tranh", "Bến quê" truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa"
tiếp tục sự khám phá cuộc sống ở cách nhìn đa diện, phức tạp về con người. Về những số phận,
những cảnh đời ngang trái đầy éo le, nghịch lí. (1,0 điểm)
III. Kết bài
Từ thiên hướng khai thác hiện thực đời sống một chiều trước 1975, với những tác phẩm đậm
đà chất sử thi lãng mạn cách mạng, những tác phẩm ở chặng sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh
Châu trở về với chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo nhằm khám phá những phức tạp mới nảy sinh sau
chiến tranh. Sự đổi mới trong cách nhìn hiện thực, mối quan hệ giữa văn học và đời sống đã giúp
nhà văn sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị trong quá trình đổi mới văn học nước nhà.

SỞ GD & ĐT THANH HÓA

KỲ THI THI THPT QUỐC GIA NĂM 2017


×