TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
----------o0o----------
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TIÊU DÙNG TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN
HÀ NỘI PHÒNG GIAO DỊCH KIM MÃ
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
SHB
: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
NHTM
: Ngân hàng thương mại
TDTD
: Tín dụng tiêu dùng
TCTD
: Tổ chức tín dụng
CTBL
: Công ty bán lẻ
KH
: khách hàng
NH
: Ngân hàng
XHCN
: Xã hội Chủ nghĩa
KHCN
: Khách hàng cá nhân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 1.1. Dư nợ tín dụng tiêu dùng của SHB – PGD Kim Mã...............................42
Biểu đồ 1.2. Sự tăng giảm tỷ trọng NQH TDTD của SHB – PGD Kim Mã...................43
Biểu đồ 1.3. Lợi nhuận tín dụng tiêu dùng của SHB – PGD Kim Mã.........................44
Biểu đồ 1.1. Dư nợ tín dụng tiêu dùng của SHB – PGD Kim Mã...............................42
Biểu đồ 1.2. Sự tăng giảm tỷ trọng NQH TDTD của SHB – PGD Kim Mã...................43
Biểu đồ 1.3. Lợi nhuận tín dụng tiêu dùng của SHB – PGD Kim Mã.........................44
Biểu đồ 1.1. Dư nợ tín dụng tiêu dùng của SHB – PGD Kim Mã...............................42
Biểu đồ 1.2. Sự tăng giảm tỷ trọng NQH TDTD của SHB – PGD Kim Mã...................43
Biểu đồ 1.3. Lợi nhuận tín dụng tiêu dùng của SHB – PGD Kim Mã.........................44
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hoá phát triển rất đa dạng và
phong phú, ngành Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng đặc biệt là các
NHTM.Sự ra đời của các ngân hàng thương mại đã đóng vai trò to lớn đối với sự
phát triển nền kinh tế. Nó là cầu nối, là người dẫn vốn cho các cá nhân, tổ chức
trong nền kinh tế. Chính vì vậy, để phát triển nền kinh tế nhằm đạt được những mục
tiên đã đề ra thì một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu phải thực hiện là củng
cố và lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống tài chính tiền tệ nói chung và ngành
Ngân hàng nói riêng.
Để hòa chung vào sự phát tiển kinh tế đất nước, qua rất nhiều năm, hệ thống
ngân hàng thương mại đã có những chuyển biến rõ rệt và không ngừng đổi mới,
hoàn thiện và hiện đại hóa các nghiệp vụ đặc biệt là nghiệp vụ cho vay. Hoạt động
cho vay luôn được coi là hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, có vai trò
quan trọng tạo ra nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng và giúp ngân hàng sử dụng
nguồn vốn huy động một cách hiệu quả nhất.Sự phát triển của nền kinh tế thị trường
và sự ra đời của các ngân hàng thương mại chổ phần thì hàng loạt các sản phẩm cho
vay đã ra đời làm cho các sản phẩm cho vay của ngân hàng ngày một đa dạng
phong phú. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế,mức sống của người dân ngày
càng cao, nhu cầu tiêu dùng của họ vì thế mà cũng tăng lên theo đó cho vay tiêu
dùng ra đời và ngày một trở thành mục tiêu mà các ngân hàng hướng tới, có thể nói
chưa bao giờ thị trường cho vay tiêu dùng lại sôi động như hiện nay. Các ngân hàng
liên tục đưa ra các sản phẩm mới, ngày càng hoàn thiện sản phẩm của mình tạo cho
khách hàng được phục vụ tốt nhất có thể. Vì vậy, để có thể cạnh tranh được với các
ngân hàng khác Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội cần có nhiều
biện pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng tiêu dùng. Trong
bối cảnh đó, em xin chọn đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng tại Ngân
hàng TMCP Sài Gòn –Hà Nội (PGD Kim Mã)” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề có nội dung bao gồm 3 chương:
1
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng tiêu dùng của ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng
Thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (PGD Kim Mã).
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng tại Ngân
hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (PGD Kim Mã).
Do giới hạn về trình độ và khả năng còn hạn chế nên bài viết không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi xin chân thành cảm ơn Th.S Trần Minh Tuấn và các cán
bộ công tác tại phòng tín dụng PGD Kim Mã – Ngân hàng TMCP Sai Gòn Hà Nội
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TIÊU DÙNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Hoạt động tín dụng tiêu dùng của ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng Thương mại được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở các nước
trên thế giới. Ở một số nước thì khái niệm này dùng để chỉ một số tổ chức tài
chính tiền tệ mà hoạt động kinh doanh chủ yếu của nó là nhận tiền gửi từ các cá
nhân hay tổ chức kinh tế rồi lại để cho các tổ chức này vay lại. Các ngân hàng
không được phép kinh doanh tổn hợp các dịch vụ khác như đầu tư tài chính,
cung cấp dịch vụ cho các nhóm ngành nghề riêng biệt. Trong khi đó ở một số
nước khác thì lại cho rằng NHTM là ngân hàng được phép kinh doanh tổng hợp
tất cả các dịch vụ ngân hàng.
Ở Việt Nam, ngân hàng thương mại được quy định rõ trong luật ngân hàng
và các tổ chức tín dụng: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Trên thực tế, các ngân hàng thương mại ở nước ta ngoài việc thực hiện các
hoạt động ghi trong luật nêu trên thì còn phải thực hiện các hoạt động khác phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội thực hiện theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó là cho vay để phát triển một số thành phần kinh tế, ưu đãi đối với một
số dự án, một số đối tượng.
Do đó, ở Việt Nam các ngân hàng thương mại thường được hiểu như một
ngân hàng thực hiện các dịch vụ về thực hiện các dịch vụ tổng hợp về kinh
3
doanh tiền tệ như nhận tiền gửi của khách hàng để cho vay, cung cấp lại vốn đầu
tư,… và chịu sự giám sát chặt chẽ của nhà nước.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Hoạt động của ngân hàng thương mại xoay quanh việc kinh doanh tiền tệ.
Cụ thể là các nghiệp vụ sau:
• Nghiệp vụ tài sản nợ:
Nghiệp vụ nợ của ngân hàng thương mại là nghiệp vụ huy động vốn bằng
nhiều hình thức khác nhau để tạo nguồn vốn hoạt động. Các nguồn cung cấp vốn
cho NHTM bao gồm các loại tiền gửi cá nhân, tổ chức kinh doanh, tổ chức phi
thương mại, cơ quan chính phủ, và các ngân hàng thương mại khác: các loại tiền
vay ngắn hạn và dài hạn của các tổ chức đầu tư và của các ngân hàng khác; tiền kỳ
phiếu, nhờ thu, chậm trả… Những nguồn huy động quan trọng nhất là:
-
Các loại tiền gửi:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: là số tiền nằm trong tài khoản vãng lai hoặc tài
khoản thanh toán của khách hàng và có thể rút ra bất kỳ lúc nào.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: gồm 2 loại, loại tới hạn được rút và loại rút ra phải báo
trước
Loại thứ nhất sẽ bị “phong tỏa” toàn bộ trong thời gian trước khi tới
hạn và chịu sự chi phối của toàn bộ ngân hàng, nếu sau khi đáo hạn
khách hàng không rút tiền ra thì số tiền đó sẽ được xử lý như một tài
khoản tiền gửi không kỳ hạn.
Loại thứ hai là tiền gửi có thời hạn mà khi rút ra người gửi phải báo
trước cho ngân hàng theo các điều khoản mà khách hàng và ngân
hàng đã thỏa thuận.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng.
Đặc điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền được ngân hàng giao cho
một quyển sổ tiết kiệm, sổ này coi như giấy chứng nhận có tiền gửi vào quỹ của
ngân hàng.
4
-
Nguồn vốn vay: Ngân hàng có thể huy động vốn vay bằng cách vay ngắn,
trung hoặc dài hạn từ ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác hoặc nhận
quỹ ủy thác đầu tư của các tổ chức tài trợ (chính phủ hay quốc tế) để cho vay
-
ưu đãi đối với một số đối tượng được lựa chọn.
Các nguồn vốn huy động khác: Ngân hàng có thể huy động vốn bằng cách
phát hành các loại chứng khoán ( kỳ phiếu, trái phiếu…) để huy động vốn từ
dân cư hay tổ chức, công ty nào đó…
• Nghiệp vụ tài sản có:
Nghiệp vụ có là nghiệp vụ sử dụng nguồn vốn huy động của ngân hàng
-
thương mại vào các hoạt động kinh doanh chủ yếu sau:
Nghiệp vụ cho vay: Là việc ngân hàng thương mại cho khách hàng vay một
số tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định và khi hết hạn vay, người
vay phải trả ngân hàng một khoản tiền bao gồm cả gốc và lãi.
Tín dụng có thể được phân loại theo các tiêu thức khác nhau như:
Theo thời gian: gồm có tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và dài hạn.
Theo đối tượng vay: Tín dụng nông nghiệp, công nghiệp, công ích, cá nhân.
- Nghiệp vụ bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng
trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán. Cách cho vay
-
như vậy gọi là tín dụng bảo lãnh.
Nghiệp vụ trung gian: Trong hoạt động ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng
được coi là các nghiệp vụ bên thứ ba bên cạnh nghiệp vụ có và nghiệp vụ nợ.
Thông thường ngân hàng cung cấp các dịch vụ trung gian như:
+ Thanh toán ngoại hối, vàng bạc đá quý, nhờ thu…
+ Nhận ủy thác, ký gửi…
Trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ của mình, ngân hàng phải đối
diện với rất nhiều rủi ro: rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro quản lý…
5
1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Theo quan niệm cổ điển, tín dụng được coi là một quan hệ vay mượn lẫn
nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả cả vốn lẫn lãi
sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù
kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức
nhường quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật
cho một cá nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về: thời gian
hoàn trả (gốc và lãi), lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi…
Đối tượng của sự chuyển nhượng bao gồm:
- Hình thái hiện vật – hàng hóa: đó chính là việc kéo dài thời hạn thanh toán
-
trong quan hệ mua bán.
Hình thức giá trị: thực chất là việc “ứng trước” hay “đầu tư” trực tiếp bằng
tiền (cho vay bằng tiền).
Những điều kiện mà hai bên thường thỏa thuận là:
-
Khối lượng hàng hóa hay tiền tệ được chuyển nhượng.
Thời hạn sử dụng của người vay.
Thu nhập mà người cho vay được hưởng.
Những điều kiện ràng buộc nghĩa vụ hoàn trả của người đi vay…
Những điều kiện này mà một trong hai bên không chấp nhận thì không thể
hình thành quan hệ tín dụng. Như vậy, tín dụng thể hiện các đặc trưng cơ bản:
-
Sự chuyển nhượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng.
Sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu:
-
thu hồi đúng thời hạn cả gốc và lãi.
Việc chuyển nhượng được thực hiện trên cơ sở sự tin tưởng của người
chuyển nhượng với người sử dụng.
Ngoài ra, trong quan hệ tín dụng còn có những đặc trưng khác cần đề cập
như khả năng rủi ro, tính bảo đảm, quy luật cung cầu, cạnh tranh, giá trị và
quy luật lưu thông tiền tệ…
Trong lịch sử, quan hệ tín dụng có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài.
Trong chế độ công xã nguyên thủy lực lượng sản xuất còn thấp kém nên xã hội
chưa có sản phẩm dư thừa để dự trữ, chưa có cơ sở để nảy sinh mầm mống của chế
6
độ tư hữu. Trong xã hội này chưa có quan hệ trao đổi, mua bán và vay mượn. Cùng
với sự phát triển của xã hội loài người lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, phân
công lao động được hình thành. Lúc này, con người sản xuất sản phẩm không chỉ
đủ tiêu dùng mà còn có một phần tích lũy để dự trữ. Trong xã hội bắt đầu xuất hiện
mầm mống của chế độ tư hữu về tư liệu lao động và của cải làm ra. Xã hội có sự
phân chia giàu nghèo và các giai cấp hình thành. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
cùng với sự phân công lao động xã hội là cơ sở cho sản xuất hàng hóa ra đời. Và
những quan hệ vay mượn đầu tiên chính là nguồn gốc sâu xa của các quan hệ tín
dụng. Như vậy, có thể khẳng định tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại
và phát triển cùng với sự ra đời tồn tại và phát triển của nền sản xuất và lưu thông
hàng hóa. Tín dụng ra đời là một yếu tố khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội.
1.2.2. Các hình thức tín dụng của NHTM
• Phân loại tín dụng dựa theo các tiêu chí:
- Thời hạn tín dụng:
+ Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống và được sử dụng để
bù đắp sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu
cầu chi tieu ngắn hạn của các cá nhân. Đây là loại hình tín dụng ít rủi ro cho
ngân hàng vì trong một thời gian ngắn ít có và ngân hàng luôn dự tính được
những biến động có thể xảy đến. Tín dụng ngắn hạn bao gồm chiết khấu,
thấu chi, tín dụng ứng trước và tín dụng bổ sung vốn lưu động.
+ Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm. Là loại tín dụng
chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới
công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh. Mặt khác nó còn là nguồn hình
thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những
doanh nghiệp mới thành lập. Tín dụng trung hạn bao gồm tín dụng thực hiện
theo dự án, tín dụng hợp vốn và cho thuê tài chính.
+ Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm được sử dụng để cấp vốn cho xây
dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng,
cải tiến và mở rộng quy mô sản xuất với quy mô lớn. Là loại tín dụng có mức độ rủi
ro cao, do khó lường trước được những biến động có thể xảy ra.
- Phân loại theo mức độ tín nhiệm với khách hàng:
7
+ Tín dụng không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy ín của khách
hàng. Khách hàng được áp dụng hình thức tín dụng này có uy tín cao đối với ngân
hàng, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả.
+ Tín dụng có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp hoặc cầm cố, hoặc pahir có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi
hỏi phải có bảo đảm. Ngân hàng và khách hàng phải kí hợp đồng bảo đảm, ngân
hàng phải kiểm tra đánh giá được tình trạng của tài sản bảo đảm ( quyền sở hữu, giá
trị, tính thị trường…) có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản
tài sản đó. Đây là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu nợ thứ hai, bổ
sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
- Theo hình thức tài trợ:
Chiết khấu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với
giá trị thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương
phiếu chưa đến hạn.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thời gian xác định. Cho vay là tài khoản lớn nhất
trong khoản mục tín dụng, thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: doanh số cho
vay trong kì và dư nợ cuối kỳ. Dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng hiện còn đang
cho vay vào thời điểm cuối kỳ.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình, mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã cho khách
hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài khoản ngoại
bảng theo giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng của mình.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền ra để mua tài sản cho khách hàng thuê
theo thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định khách hàng phải trả cả gốc và lãi
cho ngân hàng.
- Các căn cứ khác:
+ Theo ngành kinh tế: tín dụng công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và
dịch vụ…
+ Theo đối tượng tín dụng: cho vay để tài trợ vốn lưu động, tài sản cố định
+ Theo mục đích: sản xuất hay tiêu dùng…
8
Phân loại tín dụng cho ta thấy được tính đa dạng hoặc chuyên môn hóa trong
cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng hóa ngân hàng sẽ mở rộng phạm
vi tài trợ song vẫn duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có thể có lợi thế. Hơn nữa,
cho phép ngân hàng theo dõi , quản lí rủi ro và sinh lời gắn liền với những lĩnh vực
tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.3. Tín dụng tiêu dùng của NHTM
1.3.1. Khái niệm tín dụng tiêu dùng của NHTM
Tín dụng tiêu dùng là việc Ngân Hàng Cho Vay giao cho KH một khoản tiền
theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất
định để sử dụng cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt và các nhu cầu phục vụ đời sống.
Nhìn chung, tín dụng tiêu dùng được coi là khoản tiền vay cấp cho các cá nhân, hộ
gia đình để chi dùng cho các mục đích không kinh doanh.
Tín dụng tiêu dùng cho phép cá nhân, hộ gia đình được sử dụng trước khả năng
mua hàng hoá của mình trong tương lai, tức là tạo điều kiện thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng trước khi họ có khả năng chi trả. Do đó ngoài việc nâng cao mức sống về mặt
vật chất, thì tín dụng tiêu dùng còn gián tiếp kích thích sản xuất.
"Tín dụng tiêu dùng" cách đây khoảng 20 mươi năm về trước còn là khái
niệm "khá mới" đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng Việt Nam, nhưng chỉ
một vài năm trở lại đây, hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành mục tiêu của
nhiều tổ chức tín dụng (TCTD), nhất là các TCTD ngoài nhà nước. Cùng với sự
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống của nhân dân đã được cải thiện đáng
kể, nhu cầu chi tiêu phục vụ đời sống ngày càng cao, đó là điều kiện thuận lợi cho
hoạt động ngân hàng nói chung, lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng phát triển.
Nếu như ở các nước phát triển, tỷ trọng cho vay tiêu dùng thường chiếm khoảng từ
40% đến 50% trên tổng dư nợ, thì tỷ lệ này của các TCTD Việt Nam hiện chỉ chiếm
tỷ trọng khoảng 5% trên tổng dự nợ tín dụng. Qua đó cho thấy, với tốc độ phát triển
kinh tế mạnh mẽ như hiện nay và với số dân trên 82 triệu người đang mở ra thị
trường cho vay tiêu dùng vô cùng rộng lớn và đầy tiềm năng .
1.3.2. Đặc điểm của tín dụng tiêu dùng
9
Tín dụng tiêu dùng (TDTD) là những khoản cho vay đối với nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng. TDTD là một hình thức tài trợ cho chính sự tiêu dùng của cá
nhân và hộ gia đình. Các khoản TDTD giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng
hoá và dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có cơ hội hưởng một
mức sống cao hơn. Những khoản cho vay như thế thường được dùng vào mục đích:
mua nhà, xây sửa nhà, mua ô tô… Do đó, TDTD có những đặc điểm sau:
Khách hàng vay là các cá nhân và hộ gia đình, kết quả nghiên cứu cho thấy
những người có thu nhập cao thường có xu hướng vay tiền nhiều hơn những
người có thu nhập thấp. Người có thu nhập cao có nhu cầu vay nhiều hơn so với
thu nhập hàng năm của mình. Với họ, việc vay mượn được xem là công cụ để
đạt được mức sống như mong muốn hơn là một sự lựa chọn chỉ được dùng trong
tình trạng khẩn cấp.
Mục đích vay là nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân chứ không phải mục
đích kinh doanh. Các nhu cầu như : mua nhà, mua sắm xe ô tô, xe gắn máy, xây
dựng sửa chữa nhà, mua sắm vật dụng gia đình, chữa bệnh, đi học...
Việc sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay của người tiêu dùng thường không
đem lại thu nhập, nên nguồn trả nợ thường được lấy từ lương hoặc thu nhập từ
các hoạt động kinh doanh khác. Việc sử dụng tiền vay Ngân hàng sẽ tạo cho
người vay một tâm lý tích luỹ, tăng động lực làm việc của khách hàng.
Quy mô khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lại lớn. Thông thường
không có một ngân hàng nào cho vay tiêu dùng với 100% nhu cầu vốn, khách
hàng phải tích luỹ một tỷ lệ nhất định so với tổng nhu cầu vốn cần đáp ứng cho
nhu cầu tiêu dùng. Mặt khác các sản phẩm mà khách hàng có nhu cầu tiêu dùng
thường có giá trị không lớn. Nhu cầu vốn TDTD nhỏ hơn rất nhiều so với các
món vay kinh doanh phổ biến, thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân cư.
Các khoản TDTD có rủi ro cao vì tình hình tài chính của các cá nhân và hộ gia
đình có thể thay đổi nhanh chóng tuỳ theo tình trạng công việc hay sức khoẻ của
họ. Việc thẩm định và quyết định cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng
thường gặp khó khăn do vấn đề thông tin không đầy đủ.
10
Chi phí quản lí khoản vay tiêu dùng lớn do các ngân hàng thường phải tốn nhiều
thời gian và nhân lực để điều tra, thu thập các thông tin về người vay tiền trước
khi đưa ra các quyết định phê duyệt khoản vay, thêm vào đó việc quản lý các
khoản vay tiêu dùng với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn cũng không phải là vấn
đề đơn giản đối với các NHTM nên chi phớ tớnh trờn một đơn vị tiền tệ TDTD
cao hơn so với loại hình cho vay khác.
TDTD là một trong những khoản mục mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Các khoản TDTD có chi phí và rủi ro cao nờn cỏc khoản vay này thường có lãi
suất cao, nó bù đắp cho các khoản vay trên và mang lại lợi nhuận cho ngân
hàng. Lãi suất TDTD luôn là một trong những lãi suất hấp dẫn nhất trên thị
trường tài chính. Do số lượng món vay điều nên lợi nhuận ngân hàng thu được
từ hoạt động này là rất đáng kể so với tổng lợi nhuận của ngân hàng.
1.3.3. Phân loại tín dụng tiêu dùng:
Dựa vào các căn cứ khác nhau, TDTD được phân chia thành các hình thức sau:
1.3.3.1. Căn cứ theo mục đích vay:
- Tín dụng tiêu dùng cư trú: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu
mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân, hộ gia đình.
Đây là khoản cho vay có giá trị lớn, tài sản hình thành vốn thường là tài sản
-
đảm bảo.
Tín dụng tiêu dùng phi cư trú: là khoản cho vay nhằm tài trợ cho việc trang
trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và
du lịch...Đây là khoản cho vay mang tính chất nhỏ lẻ với thời hạn ngắn.
1.3.3.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
- TDTD trả góp: Đây là hình thức TDTD trong đó, người đi vay trả nợ cho
ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay.
Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn như
mua nhà, mua ô tô… hoặc thu nhập định kỳ của người đi vay không đủ khả
năng thanh toán hết một lần số nợ vay.
Hình thức này đem lại thuận lợi cho người vay hơn đối với việc cho vay mà
thu hồi lãi và gốc một lần, cũng như giảm được rủi ro cho ngân hàng. Chính vì vậy,
TDTD trả góp chiếm một tỷ trọng cao trong các hình thức TDTD.
11
-
TDTD phi trả góp: là hình thức TDTD mà tiền vay được khách hàng thanh
toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thỡ cỏc khoản TDTD
phi trả góp được áp dụng cho các khoản vay co giá trị nhỏ với thời hạn ngắn.
Phần lớn khách hàng vay theo hình thức này để chi trả cho các việc như: sửa
-
chữa, nâng cấp nhà cửa, sửa chữa ô tô, trả tiền viện phí...
TDTD tuần hoàn: là hình thức CVTD mà tiền vay được khách hàng thanh
toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thỡ cỏc khoản CVTD
phi trả góp được áp dụng cho các khoản vay co giá trị nhỏ với thời hạn ngắn.
Phần lớn khách hàng vay theo hình thức này để chi trả cho các việc như: sửa
chữa, nâng cấp nhà cửa, sửa chữa ô tô, trả tiền viện phí...
1.3.3.3. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ:
• Tín dụng tiêu dùng gián tiếp: là hình thức CVTD mà tiền vay được khách
hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thỡ cỏc
khoản CVTD phi trả góp được áp dụng cho các khoản vay co giá trị nhỏ với
thời hạn ngắn. Phần lớn khách hàng vay theo hình thức này để chi trả cho các
việc như: sửa chữa, nâng cấp nhà cửa, sửa chữa ô tô, trả tiền viện phí...
Sơ đồ 1.1. Tín dụng tiêu dùng gián tiếp
(1)
(4)
(5)
(6)
(2)
(3)
12
(1) : Ngân hàng và Công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp
đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán
chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu.
(2) : Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá.
Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3) : Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) : Công ty bán lẻ bán toàn bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
(5) : Ngân hàng thanh toán tiền cho Công ty bán lẻ.
(6) : Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
• Tín dụng tiêu dùng gián tiếp được thực hiện thông qua các phương thức sau:
- Tài trợ truy đòi toàn bộ : theo phương thức này khi bán cho ngân hàng các
khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu hàng hoá, công ty bán lẻ (CTBL) cam
kết sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn người
tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng.
- Tài trợ truy đòi hạn chế : theo phương thức này trách nhiệm của CTBL đối với
khoản nợ người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một
chừng mừng nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã thoả thuận giữa ngân
hàng và CTBL.
- Tài trợ miễn truy đòi : theo phương thức này, sau khi bỏn cỏc khoản nợ cho
ngân hàng, CTBL không còn chịu trách nhiệm cho việc các khoản nợ có được
hoàn trả hay không. Phương thức này chứa đựng rủi ro cao nên chi phí tài trợ
thường được ngân hàng tính cao hơn so với các phương thức nói trên và các
khoản nợ được mua cũng được lựa chọn rất kỹ. Ngoài ra, chỉ có những CTBL có
uy tín mới được áp dụng phương thức này.
- Tài trợ có mua lại : khi thực hiện CVTD gián tiếp theo phương thức miễn truy
đòi hoặc truy đòi một phần, nếu rủi ro xảy ra, người tiêu dùng không trả nợ thì
NHTM phải thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả
thuận trước thì ngân hàng có thể bán lại cho CTBL phần nợ của mình chưa được
thanh toán, kèm với tài sản đã được sử dụng trong một thời hạn nhất định.
• Ưu nhược điểm của TDTD gián tiếp:
- Ưu điểm:
+ Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số TDTD.
+ Cho phép ngân hàng tiết kiệm, giảm được chi phí trong cho vay.
13
+ Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng, tạo điều kiện cho
-
việc bán chéo sản phẩm ở quá trình tiếp theo.
Nhược điểm:
+ Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được các CTBL
bán chịu.
+ Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi CTBL thực hiện việc bán chịu hàng
hóa đặc biệt trong việc sàng lọc khách hàng.
+ Kỹ thuật nghiệp vụ TDTD gián tiếp có tính chất phức tạp cao.
• Tín dụng tiêu dùng trực tiếp: : là các khoản cho vay trong đó ngân hàng trực
tiếp tiếp xúc với khách hàng và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ
người vay.
Sơ đồ 1.2. Cho vay tiêu dùng trực tiếp
(3)
(1)
(2)
(5)
(4)
(1): Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.
(2): Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho Công
ty bán lẻ.
(3): Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty
(4): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5): Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
• Tín dụng tiêu dùng trực tiếp được thực hiện theo các phương thức sau:
14
-
Tín dụng trả theo định kỳ: đây là phương thức được sử dụng phổ biến nhất
hiện nay. Theo phương thức này, ngân hàng cấp cho khách hàng toàn bộ số
tiền vay và khách hàng trả nợ cho ngân hàng theo từng kỳ hạn cụ thể. Kỳ hạn
hoàn trả có thể khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu của người vay, thường là 1
-
lần/ tháng.
Thấu chi: đây là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hạn
mức tín dụng, được thực hiệnbằng cách cho phép khách hàng được sử dụng
dư nợ trong một giới hạn nhất định trên tài khoản vãng lai và mức dư nợ tối
-
đa bằng với hạn mức tín dụng đã cam kết.
Thẻ tín dụng: là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng phát hành thẻ tín
dụng cho những người có tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn
định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng.
• Tín dụng tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm hơn tín dụng tiêu dùng gián tiếp:
Sử dụng phương thức này, ngân hàng có thể tận dụng các sở trường của nhân
viên tín dụng - những người được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm
trong lĩnh vực tín dụng. Do đó, các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng
thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những
CTBL. Hình thức này cũng linh hoạt hơn và cho phép ngân hàng thắt chặt mối quan
hệ tín dụng với các khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng. Thông qua
TDTD trực tiếp, ngân hàng có thể bỏn cỏc sản phẩm khác, tăng cường quảng bá
hình ảnh của ngân hàng.
2. Chất lượng tín dụng tiêu dùng của NHTM
2.1. Khái niệm nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng của NHTM
Chất lượng của các khoản cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại thể
hiện ở hiệu quả sử dụng vốn của người vay tiêu dùng. Khách hàng sử dụng vốn vay
đúng mục đích, đạt được nhu cầu tiêu dùng thông qua sự tài trợ của ngân hàng. Chất
lượng cho vay tiêu dùng tốt giúp ngân hàng thu hồi được gốc và lãi, bù đắp chi phí
và thu được lợi nhuận. Điều này có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế
lại tạo được hiệu quả xó hội,tỏc động rất tích cực tới sự phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, vay vốn ngân hàng vẫn đang là khó khăn lớn của người tiêu dùng. Không kể
15
nguồn vốn vay tại ngân hàng, để thoả mãn và nâng cao nhu cầu tiêu dùng, người
tiêu dùng thường phải vay mượn từ những nguồn không chính thức. Nguồn vốn này
mang tính chắp vá, không ổn định, và chi phí cao, gây ảnh hưởng tới đời sống
người tiêu dùng, và tác động xấu đến nền kinh tế. Chính vì vậy, vấn đề quan trọng
hiện nay là làm thế nào đển nâng cao chất lượng CVTD của NHTM.
Nâng cao chất lượng CVTD là việc NHTM cải thiện hiệu quả vốn vay tiêu dùng
của khách hàng cá nhân cho mục đích tiêu dùng, qua đó thu hút thêm nhiều khách
hàng đến với ngân hàng. Nâng cao chất lượng TDTD biểu hiện ở sự gia tăng tổng
dư nợ, tổng doanh số cho vay, giảm tỷ lệ nợ quá hạn, tăng trưởng số lượng khách
hàng được vay vốn tại NHTM.
2.2.
Các chỉ tiêu đánh giá nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng tại NHTM
Mức độ nâng cao chất lượng CVTD được xem xét ở một số chỉ tiêu cơ bản
như sau:
• Số lượng khách hàng vay (KH) vay tiêu dùng vay vốn tại NHTM: chỉ tiêu này được
tính trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Sự tăng trưởng của
nó qua các năm cho thấy chất lượng cho vay tiêu dùng đang được cải thiện.
• Dư nợ cho vay và doanh số cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng: Dư nợ là
số tiền mà NH đang cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Doanh số cho vay là tổng số
tiền NH đã cho vay ra trong kỳ. Dư nợ là chỉ tiêu tích luỹ qua các thời kỳ, tính
theo công thức:
DNCV kỳ này = DNCV kỳ trước + DSCV trong kỳ - DS thu nợ trong kỳ
Đây là chỉ tiêu phản ảnh rõ nhất chất lượng CVTD của NH. Nếu dư nợ
CVTD kỳ này lớn hơn kỳ trước, hoặc doanh số cho vay trong kỳ lớn hơn kỳ
trước, có thể khẳng định rằng, chất lượng CVTD đang được nâng cao.
• Tốc độ tăng trưởng dư nợ TDTD
DNCV kỳ này – DNCV kỳ trước
DNCV kỳ trước
Đây là chỉ tiêu phản ánh tốc độ nâng cao chất lượng cho vay của NH nhanh
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
=
hay chậm. Xem xét trong nhiều năm, tỷ lệ này cho biết tốc độ đó tăng hay giảm.
16
Nếu như chỉ tiêu tăng dần qua các năm thì có thể thấy rằng tốc độ nâng cao chất
lượng ngày càng tăng. Tuy nhiên, khi sử dụng chỉ tiêu này, cần phải kết hợp với các
chỉ tiêu khác thì mới rút ra được kết luận đúng. Nếu như tốc độ tăng dư nợ TDTD
nhỏ hơn so với các nhóm cho vay khác thì không thể nói rằng chất lượng TDTD
được nâng cao.
• Tỷ trọng dư nợ TDTD trong tổng dư nợ cho vay của NHTM:
Tỷ trọng dư nợ TDTD
DN TDTD
Tổng dư nợ cho vay của NHTM
=
Sự tăng lên của con số này cũng đồng nghĩa với chất lượng TDTD được nâng
cao.
• Tỷ trọng nợ quá hạn (NQH) TDTD trong dư nợ TDTD
NQH TDTD
Dư nợ TDTD
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh chất lượng của hoạt
Tỷ trọng NQH TDTD
=
động cho vay đối với mỗi ngân hàng. Chỉ tiêu này thấp cho thấy công tác quản lý
nợ của ngân hàng có hiệu quả.
• Tỷ trọng lợi nhuận tín dụng tiêu dùng
Lợi nhuận TDTD
Tổng lợi nhuận
Sự gia tăng lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp quan trọng nhất phản ánh sự phát
Tỷ trọng lợi nhuận TDTD
=
triển của hoạt động cho vay tiêu dùng cả về số lượng và chất lượng
Tóm lại, sự tăng hoặc giảm của những chỉ tiêu trên cho biết chất lượng TDTD
của NH đang được cải thiện hay giảm sút.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tiêu dùng của NHTM:
3.1. Nhân tố chủ quan:
Những nhân tố chủ quan thuộc về phía NHTM có tác động lớn tới sự nâng
cao hay giảm sút chất lượng TDTD. Có 5 nhân tố như sau:
Chính sách tín dụng:
17
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một NH. Vì thế nó là
nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến hoạt động TDTD. Về cơ bản, nội dung của chính
sách tín dụng bao gồm chính sách KH, chính sách marketing, chính sách về quy mô
và giới hạn tín dụng, chính sách lãi suất và thời hạn tín dụng, chính sách về các
khoản đảm bảo…
• Chính sách KH: NH thường tiến hành phân loại KH. Những KH truyền
thống, KH mục tiêu, KH được xếp hạng cao thường được hưởng nhiều ưu đãi của
NHTM. Một chính sách KH hấp dẫn, chính sách marketing hướng tới nhóm KH là
KH vay tiêu dùng sẽ thúc đẩy người tiêu dùng đến vay vốn tại NH. Từ đó, chất
lượng TDTD được nâng cao.
• Quy mô và giới hạn tín dụng: Bên cạnh các quy định của pháp luật về giới
hạn cho vay, mỗi NH thường có quy định riêng về quy mô và các giới hạn đối với
từng KH cụ thể. Ví dụ như quy mô cho vay tối đa đối với từng KH, từng ngành
nghề, quy mô cho vay trên giá trị vật đảm bảo… Chính sách về quy mô và giới hạn
tín dụng ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô các khoản tín dụng mà KH nhận được từ
NH. Khi muốn nâng cao chất lượng TDTD, NH sẽ phải nới lỏng chính sách này
theo hướng tăng quy mô và mở rộng giới hạn cho vay đối với KH vay tiêu dùng.
• Chính sách lãi suất: lãi suất cho vay của NHTM có tác động lớn tới nhu cầu
vay vốn của KH vay tiêu dùng. Một mức lãi suất cao sẽ hạn chế ý muốn vay mượn
của KH, bởi chi phí vốn cao. Ngược lại, NH sẽ áp dụng mức lãi suất cho vay thấp
khi muốn nâng cao chất lượng cho vay đối với KH vay tiêu dùng. Chi phí vốn thấp
góp phần giảm gánh nặng chi phí cho KH. Khi đó, nhiều KH tìm đến NH để vay
vốn cho nhu cầu tiêu dùng. Số lượng KH vay tiêu dùng tại NH tăng lên, nghĩa là
chất lượng TDTD được cải thiện.
• Chính sách về các khoản đảm bảo: Chính sách đảm bảo bao gồm các quy
định về: trường hợp vay vốn phải có tài sản đảm bảo, các hình thức đảm bảo, tỷ lệ
phần trăm cho vay trên đảm bảo… Thông thường, các NH chỉ cho vay với giới hạn
thấp hơn giá trị thị trường của đảm bảo. Tỷ lệ phần trăm cho vay tuỳ thuộc vào khả
năng bán và khả năng thay đổi giá trị của tài sản đảm bảo. Tỷ lệ này càng cao thì
quy mô vốn mà KH được nhận từ NH càng lớn. Ngược lại, chính sách về các khoản
đảm bảo quá chặt chẽ sẽ cản trở khả năng nâng cao chất lượng TDTD của NHTM.
18
Quy trình cho vay:
Một quy trình cho vay rườm rà, phức tạp, tốn thời gian nhiều khi làm mất đi
cơ hội kinh doanh của KH. Do đó, quy trình thủ tục cho vay của NH cần phải đơn
giản, hợp lý, vừa đảm bảo để NH có được các thông tin cần thiết, vừa không gây
phiền hà cho KH. Điều này sẽ thu hút nhiều KH tới NH để vay vốn.
Quy mô và cơ cấu vốn của NHTM:
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến nâng cao chất lượng TDTD. Với lượng
vốn dồi dào, NHTM sẽ dễ dàng hơn đối với các chính sách tín dụng nhằm nâng cao
chất lượng cho vay. Ngược lại, nếu hoạt động huy động vốn của NH gặp khó khăn
thì NH sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu vay của KH. Tình trạng thiếu vốn khiến NH
tăng lãi suất huy động, từ đó lãi suất cho vay cũng phải tăng lên. Khi đó, sức cạnh
tranh của NH giảm đi và mục tiêu nâng cao chất lượng TDTD khó lòng đạt được.
Bên cạnh đó, cơ cấu nguồn vốn của NH cũng ảnh hưởng đến chất lượng
TDTD. Nếu tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn quá lớn, NH không đủ nguồn trung dài
hạn để tài trợ cho các nhu cầu vốn dài hạn của KH như nhu cầu mua bất động sản.
Việc nâng cao chất lượng TDTD cũng khó khăn hơn.
Đội ngũ cán bộ nhân viên của NHTM:
Ngành dịch vụ có đặc điểm nổi bật là chất lượng dịch vụ phụ thuộc rất nhiều
vào yếu tố con người. NH là doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ tài chính. Nhân
viên NH thường xuyên tiếp xúc với KH, do đó, là hình ảnh đại diện cho NH trong
con mắt KH. Đội ngũ nhân viên có trình độ, có tác phong chuyên nghiệp, thái độ
phục vụ chu đáo, nhiệt tình sẽ để lại cho NH ấn tượng tốt. Sự hài lòng của KH sẽ
giúp cho việc nâng cao chất lượng TDTD của NHTM thuận lợi hơn.
Mạng lưới Ngân hàng và cơ sở vật chất thiết bị của NHTM:
Số lượng và sự phân bố Ngân hàng của NH cũng tác động tới khả năng nâng
cao chất lượng TDTD. KH thường giao dịch với NH có vị trí địa lý gần địa bàn hoạt
động của mình để giảm chi phí về thời gian và phương tiện đi lại. Vì thế, việc nâng
cao chất lượng TDTD sẽ đạt hiệu quả hơn nếu như NHTM có mạng lưới Ngân hàng
dày và rộng, trụ sở, phòng giao dich khang trang, lịch sự…
3.2. Nhân tố khách quan:
19
Những nhân tố từ phía khách hàng
• Nhu cầu vay vốn tiêu dùng của KH
Trong nền kinh tế thị trường, khi nhu cầu về một loại hàng hóa nào đó tăng
lên thì việc tăng cung để đáp ứng nhu cầu đó là hết sức cần thiết. Trong lĩnh vực tín
dụng, điều này cũng hoàn toàn đúng. Người tiêu dùng có nhu cầu lớn về vốn tiêu
dùng sẽ thúc đẩy NH nâng cao chất lượng TDTD, qua đó thu hút đông đảo hơn
lượng KH đến với NH. Vì thế, cầu về vốn tiêu dùng của KH là nhân tố khách quan
tác động tới việc nâng cao chất lượng TDTD của NHTM.
• Khả năng đáp ứng điều kiện vay của KH: được xem xét trên các khía
cạnh:năng lực tài chính và tào sản đảm bảo của KH. Các yếu tố này quyết định đến
việc họ có được vay vốn NH hay không.
Phân tích trước khi cấp tín dụng là khâu không thể thiếu trong hoạt động cho
vay của NHTM. Thông qua đó, NH nắm được tình hình và năng lực tài chính của
KH cần vay vốn. Tình hình và năng lực tài chính của KH càng mạnh thì khả năng
đáp ứng các điều kiện cho vay càng lớn.
TDTD là hoạt động tín dụng hàm chứa nhiều rủi ro nên NH luôn yêu cầu tài
sản đảm bảo cho các khoản vay. Tài sản đảm bảo là căn cứ để NH xác định mức
cho vay đối với KH. Nếu KH không có tài sản đảm bảo, không có người bảo lãnh
hoặc giá trị tài sản đảm bảo thấp, không đủ tiêu chuẩn thỡ khú vay được vốn NH.
Như vậy,tình hình tài chính, năng lực tài chính và tài sản đảm bảo là những
yếu tố quyết định tới khả năng đáp ứng điều kiện vay của KH vay tiêu dùng. Các
chỉ số đó càng tốt, việc nâng cao chất lượng TDTD của NHTM càng được thực hiện
dễ dàng hơn.
Những nhân tố từ phía môi trường kinh doanh
• Thực trạng chung của nền kinh tế: Hoạt động NH có liên quan đến tất cả
các lĩnh vực trong nền kinh tế. Vì thế, những biến động của nền kinh tế sẽ có tác
động tới hoạt động của NH, đặc biệt là hoạt động cho vay. Cụ thể, khi nền kinh tế
tăng trưởng, nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng lên. Các NHTM có xu hướng
20
nâng cao chất lượng tín dụng TDTD, qua đó thu hút được nhiều KH, mở rộng lĩnh
vực đầu tư.
• Môi trường pháp lý: Tín dụng là một trong những hoạt động rủi ro nhất của
NH, song lại rất quan trọng đối với nền kinh tế. Vì thế, nó chịu sự kiểm soát rất chặt
chẽ của pháp luật. Môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch với hệ thống các văn bản
pháp luật hợp lý, thống nhất là điều kiện để KH tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn
của NHTM.
• Môi trường chính trị xã hội: Môi trường chính trị xã hội ổn định giúp đời
sống người dân được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng tăng cả về chất và lượng. Trái lại,
môi trường chính trị xã hội kém ổn định sẽ làm cho xu hướng tiêu dùng của người
dân giảm sút, dẫn đến sự thu hẹp hoạt động TDTD của NHTM.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng TDTD không chỉ chịu ảnh hưởng từ
những nhân tố bên trong NHTM, mà còn từ nhiều nhân tố khách quan khác. Hoạt
động đó tốt hay xấu, mạnh hay yếu đều do các nhân tố này quyết định. Vậy, thực
trạng hoạt động TDTD của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (PGD Kim Mã)
đang diễn ra như thế nào? Các nhân tố kể trên có tác động ra sao tới thực trạng ấy?
Những vấn đề này sẽ được trình bày rõ ràng ở chương 2.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TIÊU DÙNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN – HÀ NỘI (PGD KIM MÃ)
1. Tổng quan về ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) – PGD Kim Mã
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà
Nội và chi nhánh SHB Hà Nội
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB ) tiền thân là Ngân
hàng TMCP Nông Thôn Nhơn Ái được thành lập theo giấy phép số 0041/NH /GP
ngày 13/11/1993 do Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam cấp và chính thức
đi vào hoạt động ngày 12/12/1993. Ra đời trong bối cảnh nền kinh tế đất nước
chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý cuả
21