Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học GIÁ TRỊ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật, ý NGHĨA TRONG LĨNH vực QUÂN sự HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.97 KB, 30 trang )

Giá trị phép biện chứng duy vật. ý nghĩa trong
lĩnh vực quân sự hiện nay
Sự ra đời chủ nghĩa Mác là một bước ngoặc cách mạng trong triết học.
Nội dung quan trọng nhất của cuộc cách mạng khoa học này là việc xây dựng
chủ nghĩa duy vật biện chứng, một triết học hoàn toàn mới về nguyên tắc, khác
về căn bản tất cả các triết học trước đó. Triết học Mác đã mở ra cách nhìn nhận
mới về thế giới vật chất và xem xét các sự vật hiện tượng theo một hướng mới
là trong mối liên hệ, tác động lẫn nhau, đối lập nhau cùng phát triển. Cuộc
khoa học cách mạng này không chỉ là phá vỡ cái cũ, mà chủ yếu là sáng tạo,
xây dựng cái mới, kế thừa, phát triển di sản triết học nhân loại, xây dựng nên
triết học mới đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHÉP BIỆN CHỨNG
Phép biện chứng duy vật của C. Mác và Ph. Ăngghen là sự tiếp thu dưới
hình thức cải tạo và lý giải có phê phán tất cả những gì quý giá và vĩ đại mà
toàn bộ sự phát triển của triết học đã tạo ra. Lịch sử tư tưởng biện chứng được
bắt đầu từ những thành tựu của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại như Hêraclít,
Arixtốt... Con đường dẫn đến phép biện chứng đã được mở ra trong thời kỳ
cận đại thông qua những tư tưởng biện chứng chứa đựng trong triết học của
Đêcáctơ, Xpinôda, Điđơrô, Rútxô và những nhà tư tưởng khác của Pháp ở thế
kỷ XVIII, thông qua một số quan điểm biện chứng quan trọng của các nhà xã
hội không tưởng, quan niệm biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức về
tư nhiên, xã hội và tư duy đã giúp C. Mác và Ph. Ăngghen thấy được hạt nhân
hợp lý trong hệ thống triết học duy tâm khách quan của Hêgghen.
Giai đoạn đầu tiên thời kỳ Hylạp cổ đại là phép biện chứng tự phát, người
đầu tiên đưa ra phép biện chứng là Xôcrát, sau này là Platôn, mà đỉnh cao là
Hêraclít. Theo Xôcrát “con người hãy nhận thức chính mình” và ông dạy học
1


trò của mình bằng phương pháp tranh luận, đàm thoại, phê phán những ý kiến
dù được nhiều người chấp nhận nhưng theo ông vẫn chưa được khách quan, và


như vậy chưa được coi là tri thức đúng đắn. Tranh luận để chỉ ra mâu thuẫn
của đối phương, tài hùng biện kết hợp với sự mỉa mai là công cụ trong diễn
thuyết, hùng biện. Ông cho rằng, khám phá ra chân lý đích thực về bản chất sự
vật tức là phải hiểu nó ở mức độ khái niệm.
Đối với Platôn các ý niệm (idea) là các khái niệm, tri thức đã được
khách quan hoá. Các ý niệm được coi là tồn tại nói chung, bất biến và vĩnh
viễn. Chúng không phải được sinh ra từ cái gì đó hay mất đi, mà tồn tại mãi
mãi như thế từ xưa đến nay. Vì vậy, những ý niệm chung, những tri thức mang
tính khái quát cao đó cần phải tách biệt khỏi thế giới các sự vật cảm tính đang
sinh thành và biến đổi không ngừng. Platôn là nhà biện chứng duy tâm chủ
quan, cái mà biến đổi không ngừng đó đều do lực lượng siêu nhiên tạo ra.
Theo Anaximăngđrơ, mọi sự vật không chỉ có bản chất chung là Apâyrôn,
mà còn xuất hiện từ nó. Tự bản thân Apâyrôn sinh ra mọi cái, đồng thời là cơ
sở vận động của chúng. Apâyrôn là nguồn gốc và sự thống nhất của các sự vật
đối lập nhau như nóng - lạnh, sinh ra - chết đi … Chính những mặt đối lập ấy
đã làm cho sự vật thành những dạng vật chất khác nhau. Toàn bộ vũ trụ được
cấu thành từ Apâyrôn tồn tại như một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng.
Ông phê phán các quan điểm trực quan thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ về
thế giới. Ông bác bỏ quan niệm về tính đồng nhất tuyệt đối, thuần tuý, không
có khác biệt của sự vật... Chứng tỏ quan niệm đó có chứa đựng những yếu tố
biện chứng một cách tự nhiên, tự phát. Tuy nhiên ông cũng chịu ảnh hưởng
các quan niệm thần thoại và tôn giáo, khẳng định tồn tại điểm tận cùng giới
hạn thế giới. Mọi cái cuối cùng đều trở thành Apâyrôn và cái Apâyrôn lại
mang tính duy tâm thần bí.

2


Hêraclít là nhà biện chứng nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại. Cống hiến lớn nhất
và nổi tiếng của ông là triết học duy vật với rất nhiều yếu tố biện chứng có giá

trị, tuy ông chưa trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học như
sau này, mặc dù là biện chứng sơ khai nhưng nó có giá trị to lớn được các nhà
triết học cổ điển Đức sau này kế thừa và các nhà sáng lập triết học Mác xít
đánh giá cao. Hêraclít còn đi xa hơn các vị tiền bối ở phép biện chứng, chính
ông là người sáng lập ra phương pháp biện chứng. Giá trị nổi bật trong phép
biện chứng của Hêraclít cống hiến cho triết học duy vật Hy Lạp cổ đại là quan
niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Ông cho rằng lửa chẳng những là
nguyên nhân sinh ra mọi vật mà còn là nguồn gốc của mọi vận động, Hêraclít
cho rằng, cái chết của lửa là sự ra đời của không khí, cái chết của không khí là
sự ra đời của nước, từ cái chết của nước sinh ra không khí, từ cái chết của
không khí là lửa và ngược lại. Ông đã căn cứ vào những kinh nghiệm cảm tính
khái quát một kết luận nổi tiếng về vật chất vận động, mọi vật đều trôi đi, chảy
đi, không có cái gì đứng nguyên tại chỗ; tất cả mọi vật đều vận động, không có
cái gì tồn tại mà lại cố định... Hêraclít khẳng định luận điểm bất hủ: “Chúng ta
không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông, vì nước sông không ngừng
chảy”(1). Ngay cả mặt trời ông cũng cho rằng mặt trời mỗi ngày một mới. Với
quan niệm như vậy nhiều nhà triết học Hy Lạp cổ đại coi ông là nhà triết học
vận động. So với các nhà triết học tiền bối cùng thời thì Hêracrít đã đưa triết
học duy vật cổ đại tiến lên một bước mới với những quan điểm duy vật và
những yếu tố biện chứng. Cái quý giá nhất trong triết học của ông là phép biện
chứng mặc dù chỉ là phép biện chứng tự phát, mộc mạc, ngây thơ.
Như vậy, dưới góc độ phép biện chứng những giá trị triết học có ý nghĩa
rất to lớn, trong đó phải nói đến Hêraclít, triết học của ông rất nhiều yếu tố
biện chứng có giá trị được các nhà triết học Mácxít đánh giá cao. Các nhà triết
(1)

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội. 2003. tr105 .

3



học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng chỉ cốt nâng cao nghệ thuật
tranh luận, nghệ thuật hùng biện để bảo vệ những luận điểm triết học của mình
và để tìm ra chân lý. Kết quả của quá trình nghiên cứu này nhiều nhà triết học
đã nhận thức được và phát hiện ra nhiều yếu tố của phép biện chứng như mối
liên hệ giữa các hiện tượng và sự vật, sự vận động vĩnh viễn của vật chất; tính
thống nhất của những mặt đối lập của sự vật, tính nhân quả của sự phát sinh,
phát triển diệt vong của sự vật. Những yếu tố biện chứng đó chính là sự phỏng
đoán thiên tài về những nguyên lý và quy luật của phép biện chứng mà C. Mác
và Ph. Ăngghen gọi là phép biện chứng “với tính chất thuần phác tự nhiên
chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu mà chính chủ nghĩa siêu hình
tạo cho nó”(2). Nó chưa được khoa học chứng minh bằng thực nghiệm và cũng
chưa được nghiên cứu một cách tự giác, có ý đồ, có mục đích từ đầu, nó chưa
thành hệ thống, còn lẻ tẻ, nó chưa đủ sức vạch ra quy luật của giới tự nhiên,
nhưng nó đã vạch ra được trực tiếp bản chất của thế giới, nó dựa trên quan
điểm duy vật, nó chống lại quan điểm duy tâm tôn giáo. Đó là hình thức đầu
tiên, hình thức cổ đại của phép biện chứng. Đặc điểm nổi bật theo quan điểm
biện chứng đó, thế giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận của nó
có mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau,
thế giới và các bộ phận cấu thành thế giới ấy không ngừng vận động và phát
triển. Theo Ph. Ăngghen mặt tích cực của phép biện chứng chất phác thời kỳ
cổ đại đó là: “Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì
đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hylạp cổ đại và lần đầu tiên đã
được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng”(3).
Phép biện chứng trong thời kỳ triết học cổ điển Đức
Cantơ là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức là người khởi xướng
hàng loạt tư tưởng biện chứng lỗi lạc, là các tư tưởng sáng tạo ra phép biện
(2)
(3)


C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t 20, tr 491.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t 20, tr 35.

4


chứng duy tâm được những nhà triết học đi sau kế thừa, phát triển, Phictơ,
Senling và Hêghen thường xuyên quay về với Cantơ, tiếp thu có phê phán các
luận điểm và nội dung biện chứng của ông. Do vậy, việc nghiên cứu lịch sử
phép biện chứng tất yếu phải quan tâm tới vai trò của Cantơ trong sự hình
thành phép biện chứng. Trong tác phẩm triết học của mình Cantơ chỉ có một
đoạn trích về quan điểm biện chứng về phép biện chứng tiên nghiệm của lý
tính của ông là được trình bày tương đối đầy đủ như sau:
Một là, bức tranh biện chứng về thế giới và các yếu tố của phương pháp
biện chứng
Hai là, Ông chứng minh tính tất yếu của các mâu thuẫn trong lý tính,
nhưng lại coi chúng chỉ là bề ngoài của các kết luận của lý tính.
Ba là, Ông đã tiến gần tới các nhiệm vụ tích cực của phép biện chứng
với tư cách là phương pháp tư duy nên đã tạo tiền đề để phát triển chúng trong
triết học cổ điển Đức.
Bốn là, biện chứng của đời sống xã hội là lĩnh vực tư tưởng biện chứng.
Tư duy biện chứng của Cantơ chủ yếu được triển khai trong khuôn khổ
của phương pháp siêu hình, đây là đặc trưng của triết học thế kỷ XVII - XVIII,
cùng với việc đưa khoa học tư nhiên cơ học và quyền uy tuyệt đối của lôgíc
hình thức. Phép biện chứng của Cantơ thực ra mới chỉ ra lối thoát cho hạn chế
của triết học thế kỷ XVII, XVIII chứ không phải là xây dựng được lý luận để
khắc phục sự hạn chế đó. Chính Cantơ đã giáng cho phương pháp tư duy siêu
hình một đòn chí tử, phá tan các cơ sở của nó, song về thực chất vẫn nằm trong
khuôn khổ của nó. Đồng thời, phép biện chứng của Cantơ bộc lộ nhiều hạn chế
đó là: còn giới hạn trong sự tìm tòi; nhận thức hạn chế trong khoa học cơ học

dẫn đến thần học về thế giới hữu cơ và thế giới người.
Phép biện chứng của Phichtơ, là một hệ thống phạm trù được nghiên
cứu toàn diện, các quy luật biện chứng được rút ra từ việc phân tích sự tác
5


động qua lại giữa các phạm trù. Đồng thời phương pháp biện chứng của ông
hoá ra cũng là lý luận về sự tồn tại và được xây dựng với tư cách một lý luận
hệ thống phân hoá nội tại. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, ông đã tạo ra
được một lý luận biện chứng phát triển với tư cách là lôgíc học và với tư cách
là phương pháp, đã hợp nhất phép biện chứng và lôgíc học thành một quan
niệm thống nhất về lôgíc học biện chứng, trong khuôn khổ của nó, tư duy lôgíc
đã có được bộ mặt của tri thức khách quan bằng phạm trù.
Đối với Sêlinh ông cho rằng, phát triển là tư tưởng đấu tranh của các mặt
đối lập, các mặt đối lập và đấu tranh của các mặt đối lập là chìa khoá của sự
phát triển.
Đến thòi kỳ của Hêghen ông xây dựng học thuyết biện chứng của mình
đồng thời với cả phép quy nạp và phép diễn dịch, rút ra một phạm trù của phép
biện chứng từ một phạm trù khác; sau đó lại rút ra các quan hệ hiện thực trong
tự nhiên, trong xã hội và trong ý thức xã hội từ hệ thống phạm trù. Lênin viết:
“trong sự thay đổi, sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khái niệm, trong tính
đồng nhất của các mặt đối lập của chúng, trong những chuyển hoá của một
khái niệm này sang một khái niệm khác, trong sự thay thế, sự vận động vĩnh
viễn của những khái niệm, Hêghen đã đoán được một cách tài tình chính mối
quan hệ như vậy của sự vật, của giới tự nhiên”(4). Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, ba
quy luật cơ bản của phép biện chứng, quan hệ của chất và lượng, sự thâm nhập
lẫn nhau của các mặt đối lập và phủ định của phủ định đã được Hêghen phát
triển một cách duy tâm chỉ với tư cách các quy luật của tư duy. Hêghen thường
không gọi chúng là các “quy luật”, ở Hêghen không ít các kết cấu gượng ép,
song: “Nếu người ta đừng phí công dừng lại ở những kết cấu ấy mà đi sâu hơn

nữa vào trong nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy trong đó có vô số những vật quý giá
đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng”(5).
(4)
(5)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t 20, tr 491
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t 21, tr 398

6


Đóng góp to lớn của Hêghen là việc xây dựng học thuyết về biện chứng
của tha hoá, với tư cách mâu thuẫn xã hội đặc biệt và cơ bản. Biện chứng đặc
thù này được nguyện chặc với lịch sử biến đổi của nhận thức và với biện
chứng của cái cũ và với cái mới trong lịch sử nhận thức và trong đời sống của
con ngươi. Các khái niệm của tư duy là bao hàm bản chất nội tại và ý nghĩa
của các sự việc do con người sáng tạo ra, các thể chế văn hoá do con người tạo
dựng, các mối quan hệ giữa con người với con người do hoạt động hữu hiệu
của họ sinh ra. Hoạt động này làm cho tự nhiên tiếp xúc với tinh thần, nhưng
được đối tượng hoá và được vật hoá, bản thân hoạt động này trở nên bị tha hoá
khỏi tinh thần, cái đã sinh ra nó. Phạm trù trung tâm xuyên suốt toàn bộ phép
biện chứng của Hêghen là “phát triển”. Phát triển là một quá trình, là quá trình
vận động, quá trình tự thân vận động của ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, giới
tự nhiên và xã hội loài người chỉ là sự tồn tại khác của “ý niệm”, do sự tha hoá
của ý niệm mà tạo thành. Ph.Ăngghen viết: “...Ở Hêghen, phép biện chứng là
sự tự phát triển của khái niệm”(6), từ ý niệm tuyệt đối, tha hoá thành giới tự
nhiên, Hêghen viết: Cái gì hợp lý thì tồn tại, cái gì tồn tại thì hợp lý. Đó là luận
điểm thể hiện tính hai mặt trong lập trường của Hêghen: vừa mang tính cách
mạng, khoa học, vừa bảo thủ, phản động về mặt triết học.
Chủ nghĩa lịch sử Hêghen là nguyên tắc thống nhất của quá trình sinh

hoạt xã hội và văn hoá tinh thần của nó trong suốt toàn bộ lịch sử của chúng,
nhờ đó tất cả các khâu có cùng về mặt niên đại của chúng đều được nối lại
thành một chuỗi liên tục. Trong sự vận động của tinh thần biết tư duy có một
mối liên hệ mang tính bản chất và mối liên hệ đó tạo thành một chỉnh thể. Chủ
nghĩa lịch sử là sự thống nhất của phát triển và tính cụ thể, trong đó phát triển
được quan niệm là sự đi lên theo các thang bậc của tính cụ thể ngày một tăng,
còn cái cụ thể là sự thống nhất của các tính quy định khác nhau. Hêghen đã chỉ
(6)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t 21, tr 249.

7


ra biện chứng của lao động và tha hoá, của thống trị và bị nô dịch, nhưng biện
chứng của ông vẫn chưa xếp thành hệ thống và chưa trình bày rõ ràng. Quá
trình phát triển mang tính biện chứng phổ biến của tồn tại và nhận thức chỉ đến
Hiện tượng học tinh thần mới được cụ thể hoá thành biện chứng tự do và tha
hoá, xã hội và cá nhân, chân lý và sai lầm…Hêghen trình bày biện chứng của
tính độc lập và tính không độc lập của ý thức dưới các hình ảnh được nhân
cách hoá hiện tượng chủ nô và nô lệ. ông cho rằng: cái hợp lý trong các giai
đoạn lịch sử xác định của nhân loại tất yếu sẽ thể hiện dưới một hình thức
không hợp lý, đối lập với nó và mang lại những đau khổ cho con người.
Trong hiện tượng học tinh thần phép biện chứng của Hêghen bắt nguồn
từ vật liệu đời sống xã hội là quá trình tha hoá của ý thức và quá trình giải
phóng con người khỏi sự tha hoá có một nguyên nhân bản thể luận ẩn kín dưới
dạng vận động mang tính biện chứng của tinh thần tới sự phân đôi nó thành
chủ thể và khách thể, và có được sự tái đồng nhất sau đó của chúng.
Biện chứng của chủ thể và khách thể của tha hoá và tự do trong hiện
tượng học có liên quan mật thiết với biện chứng của lý luận và thực tiễn. Dưới

hình thức biện chứng của nhận thức, mối liên hệ giữa các cặp phạm trù trên đã
đạt tới sự thống nhất hoàn toàn của chúng đến mức khó phân biệt được.
Hêghen không chỉ muốn bảo vệ, duy trì mọi cái đang tồn tại, nền chuyên
chế nhà nước quân chủ Phổ, mà điều cơ bản nhất theo ông, không phải tất cả
những gì hiện đang tồn tại cũng là hiện thực mà thuộc tính hiện thực chỉ thuộc
về những gì đồng thời là tất yếu. Rõ ràng mâu thuẫn lớn nhất của triết học
Hêghen là mâu thuẫn giữa hệ thống và phương pháp, hệ thống duy tâm đã bóp
nghẹt phương pháp biện chứng. Ph.Ăngghen viết: “Hêghen không bị đơn giản
gạt ra một bên. Trái lại, người ta lấy phương diện cách mạng đã trình bày trên
kia của triết học Hêghen, tức là phương pháp biện chứng, làm điểm xuất phát.

8


Nhưng hình thức hiểu Hêghen thì phương pháp ấy lại không dùng được” (7).
Mác đã vạch rõ: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong
tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình
bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép
biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần
dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí
của nó”(8). Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng của tư duy, là phép
biện chứng của ý niệm tuyệt đối. Do đó, phép biện chứng của Hêghen là phép
biện chứng duy tâm. Ph.Ăngghen viết: “Hêghen là một nhà duy tâm, nghĩa là
đối với ông thì những tư tưởng trong đầu óc của chúng ta không phải là những
phản ánh ít nhiều trừu tượng của những sự vật và quá trình hiện thực, mà ngược
lại, những sự vật và sự phát triển của chúng, đối với Hêghen, chỉ là những phản
ánh thể hiện cái “ý niệm” nào đó tồn tại ở một nơi nào đó ngay trước khi có thế
giới. Như vậy, tất cả đều bị đặt lộn ngược và mối liên hệ hiện thực của các hiện
tượng của thế giới đều hoàn toàn bị đảo ngược”(9). Đó là sự sai lầm của Hêghen,
theo Ph.Ăngghen, do những giới hạn không thể tránh được của những tri thức

của bản thân ông, do tri thức và những quan niệm của thời đại ấy mà ông không
thể vượt qua, điều quan trọng nữa ông là nhà duy tâm. Mâu thuẫn lớn nhất của
triết học Hêghen là mâu thuẫn giữa phương pháp biện chứng với hệ thống duy
tâm. Chủ nghĩa duy tâm của Hêghen về cơ bản đã bóp méo các tư tưởng biện
chứng tuyệt diệu đó của ông.
2. GIÁ TRỊ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Sự xuất hiện chủ nghĩa Mác là bước ngoặc cách mạng trong triết học.
Nội dung quan trọng nhất của cuộc cách mạng khoa học này là việc xây dựng

(7)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t 21, tr 248- tr 249.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t 20, tr 494.
(9)
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t 20, tr 40- tr 41.
(8)

9


chủ nghĩa duy vật biện chứng, một triết học kiểu mới về nguyên tắc, khác về
căn bản tất cả các triết học trước đó.
Ph.Ăngghen đã trình bày lịch sử hình thành và phát triển của phép biện
chứng. Ông đã chứng minh tính quy luật của quá trình thay thế các thời kỳ cơ
bản của lịch sử triết học, thông qua sự thay thế các hình thức của phép biện
chứng. Ông đã luận chứng phép biện chứng duy vật ra đời trên cơ sở kế thừa
các hình thức tư duy trước đó: từ phép biện chứng duy vật thời cổ đại đến phép
siêu hình, đến phép duy vật thế kỷ XVIII và phép biện chứng duy vật- là hình
thức cao nhất của tư duy.
Các nhà triết học duy vật trước Mác cho rằng vật chất, tự nhiên là vĩnh

viễn, không ai sáng tạo ra, không bị tiêu diệt, đã giải thích luận điểm chủ yếu
đó của mình theo phương diện tự nhiên về thực chất là không thay đổi. Thực
ra, họ thừa nhận tính phổ biến của vận động, song vận động chỉ được giải thích
như sự vận động cơ học trong không gian, nghĩa là sự đổi chỗ giản đơn, quá
trình bên ngoài, quá trình này không do sự xung đột bên trong và không kéo
theo sau nó những biến đổi bên trong. Các nhà duy vật trước Mác không nhìn
thấy điểm chủ yếu của vận động tính phổ biến và tính chủ yếu của sự biến đổi,
sự phát triển.
Kế thừa có chọn lọc những thành quả của các nhà triết học tiền bối, Mác
và Ăngghen đã cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen và quan điểm duy
vật của Phoiơbắc, dựa trên việc khái quát những thành quả mới nhất của khoa
học đương thời cũng như thực tiễn lịch sử loài người, các ông đã sáng tạo ra
phép biện chứng duy vật, giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng
trong lịch sử triết học. Trong phép biện chứng đó luôn luôn có sự thống nhất
hữu cơ giữa thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy
vật.

10


C. Mác đã phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen một cách sâu
sắc và nghiêm khắc. ông chỉ ra rằng phép biện chứng đó coi thường nội dung
thực tế, vật chất của quá trình tự nhiên và xã hội do đó bóp méo, giải thích một
cách thần bí bản chất của chúng, miêu tả sự biến đổi và phát triển như là quá
trình tinh thần thuần tuý, như là sự phát triển lôgíc của khái niệm. C. Mác và
Ph.Ăngghen đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm của
Hêghen, sau khi tách “hạt nhân hợp lý” vốn có của nó và sau khi đã vứt bỏ lối
quy các quá trình vật chất vào sự vận động lôgíc của tư duy, vào sự tự nhận
thức của “ý niệm tuyệt đối”, Ph.Ăngghen đã viết: “Mác vẫn là người duy nhất
có thể đảm đương được công việc rút từ lôgíc học của Hêghen ra cái hạt nhân

bao hàm những phát kiến thực sự của Hêghen trong lĩnh vực này, và khôi phục
lại phương pháp biện chứng, được giải phóng khỏi những cái vỏ duy tâm của
nó, dưới một dạng đơn giản trong đó nó trở thành một hình thái phát triển duy
nhất đúng đắn của tư tưởng”(10).
C. Mác và Ph. Ăngghen không chỉ cải tạo phép biện chứng duy tâm mà
còn tiến hành cải tạo chủ nghĩa duy vật siêu hình trước đó theo phương pháp
biện chứng. Các ông đã liên kết một cách hữu cơ, gắn bó thành một thể thống
nhất, không tách rời chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, đã xây dựng thế
giới quan triết học khoa học, duy vật biện chứng với tư cách một học thuyết về
những quy luật chung nhất của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng hoàn
toàn không phải là sự kết hợp giản đơn chủ nghĩa duy vật trước Mác với phép
biện chứng duy tâm, hơn nữa về nguyên tắc, sự kết hợp này không thể thực
hiện được. Phép biện chứng duy tâm mới cũng không thể hợp nhất với thế giới
quan duy vật được, vì nó được xây dựng trên sự phủ định bất kỳ chủ nghĩa duy
vật nào. Chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng không thể liên kết được với quan
(10)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t 13, tr 613

11


điểm biện chứng về tự nhiên và xã hội, vì nó phủ nhận bất kỳ phép biện chứng
nào. Thành quả trí tuệ vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăngghen trong lĩnh vực triết
học là ở chỗ hai ông đã cải tạo toàn bộ di sản triết học một cách có phê phán
cách mạng trên lập trường lý luận và xã hội chính trị mới về nguyên tắc, đã
phủ nhận nó một cách biện chứng, trong khi vẫn duy trì và phát triển sáng tạo
những thành tựu của triết học tiền bối. Ph.Ăngghen viết: “Như vậy là ở đây,
triết học đã vượt qua, nghĩa là vừa được khắc phục, vừa được bảo tồn, được

khắc phục về mặt hình thức, được bảo tồn về nội dung”(11).
Mác và Ăngghen đã xây dựng được chủ nghĩa duy vật biện chứng với nội
dung hoàn toàn cách mạng và khoa học, làm cho triết học Mác triệt để và hoàn
bị. Phép biện chứng duy vật đã kế thừa tất cả yếu tố tiến bộ của các hình thức
trước đó của nó, trong đó trực tiếp là phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Công lao lớn nhất của Mác và Ăngghen ở chỗ tạo được sự thống nhất giữa chủ
nghĩa duy vật với phép biện chứng trong lịch sử phát triển triết học nhân loại,
làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phép biện
chứng duy vật của các ông đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận
động và phát triển chung nhất của thế giới. Nhờ đó mà các ông đã khắc phục
được những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ đại cũng như
những sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan làm cho phép biện
chứng duy vật trở thành một khoa học.
Theo quan điểm của Mác, phép biện chứng không chỉ là lý luận thuần
tuý, không chỉ là lý thuyết về nhận thức luận, lôgíc biện chứng mà trước hết là
một quá trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức và ý chí con người, quá
trình vốn có bên trong của hiện thực vật chất, đó là quá trình của sự vận động,
biến đổi, phát triển do sự đấu tranh của các mặt đối lập, quá trình chuyển hoá
những biến đổi tiệm tiến thành nhảy vọt, chất lượng, phủ định và phủ định cái
(11)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t 20, tr 197

12


phủ định. Đó là quá trình lịch sử phát triển tự nhiên và xã hội mà sản phẩm tất
yếu của nó là sự phát sinh và phát triển của tinh thần, ý thức, tư duy với tính
cách là thuộc tính của vật chất có tổ chức cao, được phản ánh rất rõ trong lý
luận phép biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Biện chứng gọi là

khách quan thì chi phối trong toàn bộ tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ
quan, tức là tư duy biện chứng thì chỉ là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ
giới tự nhiên của sự vận động thông qua những mặt đối lập tức là những mặt,
thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hoá cuối cùng
của chúng”(12).
Trong thế giới vật chất, toàn bộ quá trình tự nhiên và xã hội đều diễn ra
một cách biện chứng, các nhà duy vật siêu hình khi nghiên cứu các quá trình
vật chất đã không nhìn thấy tính chất biện chứng của chúng, còn các nhà biện
chứng duy tâm trong khi vạch ra các quá trình biện chứng trong nhận thức đã
không nhìn thấy, hoặc không muốn nhìn thấy những cơ sở vật chất, những quá
trình biện chứng vật chất. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng trong triết học của chủ nghĩa Mác là ở sự thâm nhập lẫn nhau của
chúng, ở chỗ chủ nghĩa duy vật là biện chứng, còn phép biện chứng là duy vật.
Ph.Ăngghen khẳng định sự ra đời và phát triển của phép biện chứng duy
vật là một tất yếu khách quan vì nó hội đủ các tiền đề về lý luận và tự nhiên.
Đó là các tiền đề về lý luận đã chín muồi; khoa học tự nhiên phát triển mạnh;
điều đặc biệt là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh
mẽ... những yếu tố đó đã cung cấp dữ liệu cho triết học khái quát hình thành
phép biện chứng duy vật. Ông viết: “Sự nhận thức có hệ thống về toàn bộ thế
giới bên ngoài có thể đạt được những thành tựu khổng lồ từ thế hệ này qua thế
hệ khác”(13). Cải tạo phép biện chứng duy tâm và cải tạo chủ nghĩa duy vật siêu
hình, phủ nhận quan niệm triét học theo nghĩa cũ của khái niệm và tổng kết
(12)
(13)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t 20, tr 694
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 41.

13



toàn bộ sự phát triển triết học trước đó theo tinh thần cách mạng phê phán,
khắc phục sự đối lập lỗi thời về mặt lịch sử của triết học và thực tiễn xã hội, đó
là nhiệm vụ thế giới quan hết sức to lớn mà muốn giải quyết nó thì chẳng
những cần phải có một quan điểm lý luận mới về nguyên tắc mà còn cần thay
đổi triệt để lập trường xã hội chính trị.
Phép biện chứng và phép siêu hình là hai mặt đối lập trong phương
pháp chung nhất của tư duy.
Phép siêu hình và phép biện chứng là hai phương pháp tư duy phổ biến
của loài người tồn tại song song và đối lập nhau. Ph.Ăngghen đã chú ý nhiều
đến việc phê phán phương thức tư duy siêu hình và làm rõ sự đối lập của nó
với phép biện chứng.
Trước hết, Ph.Ăngghen nêu lên đặc trưng sâu sắc và hiển nhiên về bản
chất của phương pháp tư duy siêu hình. Đối với phương pháp siêu hình thì
những sự vật và sự phản ánh của chúng trong tư duy, tức là những khái niệm,
đều là những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ, vĩnh viễn,
phải được xem xét cái này sau cái kia, cái này độc lập với cái kia. Triết học Hy
Lạp cổ đại quan niệm biện chứng về thế giới, tuy ngây thơ, mộc mạc nhưng
căn bản là đúng đắn, được Hêraclít diễn đạt rõ ràng trong luận điểm: mọi vật
đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật
đều không ngừng thay đổi. Quan điểm này nhìn chung là đúng nhưng không
đủ để giải thích bức tranh tổng thể của thế giới, mà muốn nhận thức thức được
những chi tiết ấy phải tách ra mối liên hệ tự nhiên hay lịch sử của chúng và
nguyên cứu các thuộc tính của chúng.
Từ cuối thế kỷ XVI khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển việc phân chia
tư nhiên ra các thành phần cá biệt, việc tách riêng các loại quá trình và các sự
vật tự nhiên khác nhau thành những loại nhất định, việc nghiên cứu cấu tạo
bên trong những vật thể hữu cơ… đã đem lại những tiến bộ trong lĩnh vực tự
14



nhiên. Chính những phương pháp nghiên cứu ấy đem lại cho họ một thói quen
là xem xét những sự vật tự nhiên và quá trình tự nhiên trong trạng thái biệt lập
của chúng, ở bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, do đó không xem xét chúng
trong trạng thái vận động mà xem xét trong trạng thái tĩnh.
Một đặc điểm lịch sử khác đã quyết định tính chất của thế giới quan siêu
hình là sự thống trị trong một thời gian dài của phương pháp lao động máy
móc. Công nghệ máy móc chú ý đến hình thức bên ngoài của đối tượng lao
động và biến đổi nó bằng cách thay đổi hình thức thông qua cơ học, tĩnh học,
động lực học … Phương pháp tư duy siêu hình tách rời những đặc điểm đối lập
nhau của đối tượng đến mức chúng loại trừ nhau hoàn toàn. Trong điều kiện
này, quy luật khoa học thể hiện là một sự tương quan giữa những tính quy định
bên ngoài mà không tìm cách xác lập mối liên hệ bên trong của chúng. Tất cả
thế giới là kết quả tác động của những lực dính kết và những lực đẩy, lực hấp
dẫn và lực quán tính ở bên ngoài và không phù thuộc vào nhau.
Việc phân chia tự nhiên ra từng bộ phận, việc tách các quá trình và đối
tượng khác nhau của tự nhiên mà Ph.Ăngghen nói tới xét cho cùng là gắn liền
với sự phân chia lao động xã hội được xúc tiến một cách nhanh chóng dưới
chủ nghĩa tư bản, với sự chia nhỏ nó ra thành từng ngành ngày càng hẹp hơn,
với sự phân hoá nó thành những thao tác đơn giản, sơ đẳng cho phép sử dụng
máy móc.
Nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người và cũng nhờ sự
tiến bộ của nhận thức, con người đã tiến hành nghiên cứu các bộ phận khác
nhau của thế giới. Trong quá trình nghiên cứu, người ta tạm thời không chú ý
tới mối liên hệ giữa khách thể đang nghiên cứu với các khách thể khác cũng
như với thế giới nói chung, tạm thời cố định sự vật ở trạng thái hiện có mà
không xem xét nó trong quá trình vận động và phát triển. Nhờ vậy, tri thức của
con người về thế giới ở trạng thái tĩnh ngày càng trở nên sâu sắc. Các nhà triết
15



học coi phương pháp tư duy phân tích, mổ xẻ thế giới là phương pháp duy nhất
để nhận thức và cải tạo thế giới, phương pháp tư duy siêu hình đã ra đời.
Phương pháp tư duy siêu hình nhìn tự nhiên một cách tĩnh tại, ngưng
đọng, trong sự tách rời, ngẫu nhiên, là tổng cộng gộp lại của tất cả các sự vật,
hiện tượng. Phép siêu hình coi nguồn gốc của sự phát triển là do ngoại lực, do
cái hích của thượng đế, phủ nhận tự thân vận động, tự thân phát triển. Phép
siêu hình chỉ nhìn nhận một hình thức vận động cơ học; sự phát triển chỉ là sự
tăng giảm về lượng, mở rộng trong không gian, kéo dài trong thời gian; nó chỉ
thừa nhận hoặc là đúng, hoặc là sai; nó không nhìn thấy sự biến đổi, liên hệ
của các sự vật. Hạn chế lớn nhất của phép siêu hình là tính cô lập tách rời các
đối tượng nghiên cứu, không thấy mối liên hệ, phủ nhận sự phát triển do đó, nó
phản ánh không đúng bản chất của thế giới khách quan. Đánh giá về những
hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình Ph.Ăngghen viết: “Nó chỉ nhìn thấy
những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự
vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát
sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của
những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy
cây mà không thấy rừng”(14). Như vậy, đứng trên lập trường siêu hình thì
không giải quyết đúng đắn vấn đề những mâu thuẫn của sự vận động và sự
phát triển, nó xem xét sự vật đứng im và không có sức sống, cái này tách biệt
cái kia thì trong tư duy không thấy được mâu thuẫn trong các sự vật.
Khoa học ngày càng phát triển mạnh mẽ, tự nó cũng đã chứng minh rằng
bản thân thế giới luôn luôn tồn tại một cách biện chứng, có sự liên hệ, tác động
lẫn nhau, luôn vận động và phát triển. Quan điểm siêu hình cũng chính bị khoa
học tự nhiên làm mất đi cơ sở tồn tại của nó. Nó đã bị phép biện chứng duy
tâm khách quan phủ định.
(14)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t 20, tr 37.


16


Việc kết hợp một cách tài tình giữa việc giải phóng chủ nghĩa duy vật
khỏi tính chất trực quan, máy móc siêu hình và giải phóng phép biện chứng
khỏi tính chất duy tâm thần bí, Mác và Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch sử, đã
sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, ở đó chủ nghĩa duy vật thì
biện chứng, còn phép biện chứng thì duy vật.
Phép biện chứng duy vật sinh ra và phát triển trong mối liên hệ khăng
khít với những nhu cầu chín muồi về mặt lịch sử của nhận thức khoa học và
của thực tiễn xã hội. Phép biện chứng duy vật là phương pháp của sự nhận
thức và của hoạt động cải tạo cách mạng phù hợp với bản chất sự vật được C.
Mác và Ph. Ăngghen xây dựng đã đáp ứng cho những nhu cầu nhận thức của
con người về thế giới; nó ra đời như là sự tất yếu và hợp quy luật một cách
khách quan trong sự phát triển lâu dài của tư tưởng triết học, phép biện chứng
đã xác nhận toàn bộ tiến trình phát triển về sau của sự nhận thức và của thực
tiễn lịch sử, trong đó phép biện chứng đã và đang tiếp tục đóng vai trò to lớn.
Tuy nhiên trong thực tiễn cuộc sống, cũng như trong nhận thức và cải tạo thế
giới phải kết hợp, vận dụng khéo léo cả hai phương pháp biện chứng duy vật
và phương pháp siêu hình, có như vậy mới nhận dạng đúng sự vật ở thời điểm,
vị trí nào đó để có biện pháp phù hợp cải tạo thế giới khách quan, phục vụ lợi
ích của con người.
Sự khác nhau giữa phép biện chứng tự phát và phép biện chứng tự
giác.
Phép biện chứng tự phát là biện chứng vốn có của thực tại khách quan,
biện chứng của sự vật, nó diễn ra một cách tự phát, không phụ thuộc vào nhận
thức và ý muốn của con người. Phép biện chứng tự phát là chỉ những yếu tố
biện chứng không chủ định trong triết học Hylạp cổ đại. Phép biện chứng tự
phát là chỉ tư duy biện chứng của các nhà khoa học tự nhiên không ý thức

nghiên cứu phép biện chứng, song kết quả nghiên cứu của họ đã phản ánh
17


đúng sự vận động biến đổi của sự vật và chính họ vô tình đã vạch ra tính biện
chứng của thế giới khách quan.
Phép biện chứng tự giác, nó đã trở thành môn khoa học bởi vì, nó có đối
tượng nghiên cứu; có nhiệm vụ nghiên cứu; có hệ thống nguyên lý, khái niệm,
phạm trù, quy luật; có phương tiện truyền tải; nó luôn gắn lý luận với thực tiễn,
phục vụ thực tiễn; nó dựa trên lập trường duy vật của phép biện chứng. Phép
biện chứng tự phát là vốn có của hiện thực khách quan khi con người chưa
nhận thức được nó; còn phép biện chứng tự giác chính là phép biện chứng duy
vật khoa học nó được rút ra từ giới tự nhiên và lịch sử trên cơ sở con người
nhận thức được các quy luật của tự nhiên và xã hội. Ph.Ăngghen viết: “Từ lâu
người ta đã suy nghĩ một cách biện chứng trước khi biết biện chứng là gì, cũng
như từ lâu người ta đã nói theo văn xuôi trước khi có danh từ văn xuôi”(15).
Phép biện chứng duy vật là sự phát triển đến đỉnh cao của phép biện
chứng.
Công lao to lớn của C. Mác và Ph. Ăngghen đối với lịch sử tư tưởng
nhân loại là các ông đã tìm thấy cơ sở khách quan của phép biện chứng trong
thế giới hiện thực, trong tự nhiên, trong lịch sử, trong các quan hệ sản xuất, các
quan hệ xã hội con người. Đồng thời các ông đã kế thừa phát triển và phê phán
những tư tưởng biện chứng của các nhà triết học trước đó, Ph.Ăngghen viết:
“Hêghen không bị gạt ra một bên một cách đơn giản. Trái lại, người ta lấy khía
cạnh cách mạng đã trình bày trên kia của triết học Hêghen, tức là phương pháp
biện chứng làm điểm xuất phát. Nhưng dưới hình thức kiểu Hêghen thì phương
pháp ấy lại không dùng được” (16), để cho phương pháp ấy trở thành công cụ để
nhận thức và cải tạo thế giới thì phải đúc nó lại trong lò đúc của thế giới duy
vật. Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học, Ph.Ăngghen coi phép biện chứng
(15)

(16)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 202
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập 21, tr 428

18


duy vật là hình thức cao nhất của tư duy khoa học và chỉ ra sự đối lập về
nguyên tắc giữa phép biện chứng và phép siêu hình, sự khác nhau căn bản giữa
phép biện chứng mác xít và phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Sự phát triển của thế giới quan biện chứng trong lịch sử tư tưởng triết
học, chúng ta thấy phép biện chứng mácxít đối lập với phép biện chứng duy
tâm, đó là sự khác nhau căn bản của hai phương pháp trên. Ph.Ăngghen viết:
“Có thể nói rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện
chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó trong quan niệm duy
vật về tự nhiên và về lịch sử”(17). Phép biện chứng duy vật được PhĂngghen
coi là sự tổng kết toàn bộ quá trình phát triển của triết học và khoa học tự
nhiên, đồng thời là sự khái quát các quy luật khách quan của giới tự nhiên và
xã hội. Ph.Ăngghen viết tiếp: “Trái lại, đối với phép biện chứng là phương
pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của
chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự
ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”(18).
Phép biện chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật
vận động và phát triển chung nhất của thế giới. Nhờ vậy, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã khắc phục được những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự
phát thời cổ đại cũng như những sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách
quan thời cận đại, làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học.
Ph.Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về phép biện chứng: “Phép biện chứng
chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và

sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy” (19). Phép biện
chứng là khoa học vì nó tự giác nghiên cứu thế giới; nó phản ánh quy luật
khách quan, nó cung cấp cho con người công cụ nhận thức vĩ đại. Phép biện
(17)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 22.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 38.
(19)
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 201.
(18)

19


chứng nhìn nhận thế giới trong sự vận động phát triển không ngừng, trong mối
liên hệ, trong sự tác động lẫn nhau, trong sự tất yếu, tất nhiên, ràng buộc trong
mối quan hệ nhân quả; nó là một chỉnh thể thống nhất và thống nhất ở tính vật
chất. Mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Phép biện chứng
thừa nhận năm hình thức vận động, vận động là phương thức tồn tại của vật
chất, vận động là sự cố hữu của vật chất. Phép biện chứng coi sự phát triển là
quá trình đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện; Tư duy biện chứng là một tư duy mềm dẻo, linh hoạt, nó coi các
giá trị có sự chuyển hoá cho nhau trong sự thống nhất của các mặt đối lập.
Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù,
những nguyên lý, những quy luật được khái quát từ hiện thực, phù hợp với
hiện thực. Cho nên, nó có khả năng phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và
sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuỳ theo nhu cầu thực tiễn và phù
thuộc vào trình độ nhận thức của con người, phạm vi các vấn đề được bao quát
trong phép biện chứng duy vật ngày càng được phát triển cả bề rộng lẫn chiều
sâu. Nhưng bất kỳ cấp độ phát triển nào của nó, nguyên lý về mối liên hệ phổ

biến và sự phát triển chính là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy
vật. Bởi vậy, Ph.Ăngghen đã định nghĩa “phép biện chứng… là môn khoa học
về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã
hội loài người và của tư duy”.
Các nguyên lý, quy luật và các cặp phạm trù của phép biện chứng duy
vật.
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
Quan điểm Mác xít khẳng định cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự
vật và hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện
tượng trên thế giới dù đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng
cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới
20


vật chất. Tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật , các
hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại
đó. Có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ chủ yếuthứ yếu… Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và phát triển qua nhiều giai
đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau tạo thành
sự phát triển của các sự vật hiện tượng. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nó
khái quát bức tranh về mối liên hệ phổ biến của thế giới vật chất. Nó đòi hỏi
phải có quan điểm toàn diện khi xem xét các sự vật, hiện tượng.
Nguyên lý về sự phát triển, nó phản ánh đặc trưng phổ quát nhất của thế
giới là xu hướng vận động biến đổi của thế giới là tiến lên. Nó cung cấp cho
chúng ta phương pháp nhận thức khoa học về thế giới, chỉ cho chúng ta con
đường đúng đắn để cải tạo tự nhiên và xã hội.
Phát triển là phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn
về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và làm cho sự vận
động ngày càng hoàn thiện hơn. Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi

về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất; sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc,
nghĩa là trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát,
nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Ph.Ăngghen đã khái quát toàn bộ lịch sử phát triển của triết học, khoa học
tự nhiên, khoa học lịch sử và khoa học kinh tế, ông đã trình bày khái quát các
quy luật cơ bản của phép biện chứng. Mỗi quy luật phản ánh những mặt riêng
lẻ của quá trình phát triển duy nhất trong thế giới hiện thực xung quanh chúng
ta. Ph.Ăngghen xem xét và phân tích làm rõ các quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật: quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; quy luật
21


chuyển hoá từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất và ngược
lại; quy luật phủ định của phủ định. Khi bàn đến tính khách quan của các quy
luật của phép biện chứng, Ph.Ăngghen chỉ ra rằng: “Không thể là đưa những
quy luật biện chứng từ bên ngoài vào giới tự nhiên, mà là phát hiện ra chúng
trong giới tự nhiên và rút chúng ra từ giới tự nhiên”(20).
Quy luật mâu thuẫn.
Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, là cơ sở phương
pháp luận chỉ đạo mọi phương pháp đấu tranh cụ thể của con người đối với tự
nhiên và xã hội. Tính khách quan, tính phổ biến của mâu thuẫn: mâu thuẫn có
ở tất cả các sự vật hiện tượng cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Mâu thuẫn của sự vật được thể hiện giữa hai mặt đối lập của nó, vừa thống
nhất vừa chuyển hoá cho nhau. Lênin viết: “Điều kiện của một sự nhận thức về
tất cả các quá trình của thế giới trong “sự tự vận động” của chúng, trong sự phát
triển tự phát của chúng, trong đời sống sinh động của chúng là sự nhận thức chúng
với tính cách là sự thống nhất của các mặt đối lập”(21).
Nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển của sự vật đó là tự thân
do mâu thuẫn và đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong

sự vật. Khi xem xét sự vật phải trên quan điểm duy vật biện chứng, trong các
lĩnh vực khác nhau của sự nhận thức giới tự nhiên như cơ học, toán học, sinh
vật học... kể cả vận động cũng có mâu thuẫn- thường xuyên nảy sinh mâu
thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn biện chứng trong vận động thể hiện
trong sự đối lập và chuyển hoá giữa vận động và đứng im. Ăngghen viết:
“Theo quan điểm biện chứng, khả năng biểu hiện vận động bằng cái đối lập
với nó, tức thể tĩnh, hoàn toàn không phải là một điều gì khó khăn cả. Theo
quan điểm biện chứng, tất cả sự đối lập ấy, như chúng ta đã thấy, đều chỉ là
tương đối; không có thể tĩnh tuyệt đối, không có sự thăng bằng vô điều kiện.
(20)
(21)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 25.
V.I Lênin, Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến Bộ, M. 1981, tr 379.

22


Vận động riêng biệt thì có xu hướng thăng bằng, song vận động toàn thể thì lại
loại trừ sự thăng bằng. Cho nên, thể tĩnh và thế thăng bằng ở nơi nào chúng
diễn ra thì đều là kết quả của một vận động có hạn nào đó, và hiển nhiên là vận
động ấy có thể đo được bằng kết quả của nó, có thể biểu hiện ra bằng kết quả của
nó và đi từ kết quả ấy có thể được phục hồi lại nó dưới hình thức này hay hình thức
khác”(22).
Mâu thuẫn là phổ biến trong hiện thực khách quan thì tất yếu trong tư duy
không tránh khỏi mâu thuẫn. Mâu thuẫn trong tư duy đó là mâu thuẫn giữa
năng lực nhận thức vô hạn ở bên trong con người với năng lực thực tế của con
người, bởi vì con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài và mâu thuẫn đó
sẽ được giải quyết trong sự nối tiếp nhau vô tận của các thế hệ của con người.
Ăngghen viết: “Trong lĩnh vực tư duy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu

thuẫn; chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong
của con người với sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những con người bị
hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế, trong những năng lực nhận
thức,- mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối
tiếp đó ít ra đối với chúng ta trên thực tiễn, cũng là vô tận,- và được giải quyết
trong sự vận động đi lên vô tận”(23).
Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi về
chất và ngược lại.
Quy luật này phản ánh cơ chế, cách thức của quá trình phát triển; là cơ sở
phương pháp luận cho mọi cơ chế của sự phát triển với các yêu cầu cơ bản là
phải thường xuyên tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sự thay đổi về chất,
chống chủ quan duy ý chí, khi lượng tích luỹ đạt đến độ thì kiên quyết thực

(22)
(23)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 93.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 174

23


hiện bước nhảy, chống bảo thủ trì trệ, cần phải vận dụng linh hoạt các hình
thức bước nhảy để đẩy nhanh sự phát triển.
Ph.Ăngghen đã chỉ ra tính khách quan, phổ biến, bản chất của quy luật
lượng chất là ở chỗ, trong thế giới hiện thực sự thay đổi về chất là kết quả của
những sự thay đổi về lượng. Quá trình chuyển hoá từ chất này sang chất khác
là sự đứt đoạn trong liên tục, là sự nhảy vọt về chất. “Mặc dù, tất cả tính tiệm
tiến của nó, bước chuyển từ hình thức vận động này sang một hình thức vận
động khác bao giờ cũng vẫn là một bước nhảy vọt, một bước ngoặt quyết

định”(24). Song, đồng thời với quá trình trên, cũng diễn ra quá trình ngược lại,
chuyển hoá từ sự biến đổi về chất thành sự biến đổi về lượng, sự chuyển hoá
lượng- chất và sự chuyển hoá ngược lại có ở tất cả mọi lĩnh vực.
Quy luật phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định với tư cách là một quy luật cơ bản của phép biện
chứng lần đầu tiên được trình bày trong tiết học Hêghen. Nhưng quy luật đó
được xây dựng trên cơ sở duy tâm khách quan. C. Mác và Ph.Ăngghen đã kế
thừa những giá trị đó và đưa ra quy luật phủ định của phủ định là sự phát triển
thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không
ngừng. Quy luật này đã khái quát nên khuynh hướng phát triển tiến lên theo
chu kỳ phủ định của phủ định. Đây là cơ sở phương pháp luận của phủ định
biện chứng, nó chỉ đạo mọi phương pháp nhận thức và hành động trong thực
tiễn của con người.
Bản chất của quy luật này là ở chỗ, cái mới dường như trở lại cái cũ,
nhưng trên cơ sở cao hơn, nó xảy ra ở các lĩnh vực khác nhau cả trong tự
nhiên, xã hội và tư duy của con người, cái ra đời sau phủ định cái trước đó
nhưng trên cơ sở cao hơn. Ph.Ăngghen viết: “...Đó là phủ định cái phủ định,
bình đẳng ở một trình độ cao hơn...Vậy phủ định cái phủ định là gì? Là một
(24)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 98.

24


quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác
dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy;
một quy luật như ta đã thấy, biểu hiện trong giới động vật và thực vật, trong
địa chất học, toán học, lịch sử, triết học”(25).
Sự khác nhau cơ bản giữa phủ định biện chứng và phủ định siêu hình; phủ

định siêu hình là phủ định sạch trơn, còn phủ định biện chứng là sự phủ định
gắn liền với sự phát triển, là sự kế thừa lịch sử của cái mới đối với cái cũ.
Ph.Ăngghen cho rằng phủ định của phủ định ít nhất phải trải qua một chu kì và
phủ định mang tính kế thừa. Khẳng định phủ định biện chứng không phải là sự
thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái bị phủ định, mà trái lại nó giữ lại các yếu tố
tích cực.
Tóm lại, ba quy luật trên là ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật. Chúng tác động trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Mỗi
quy luật cơ bản của phép biện chứng đề cập một phương diện của quá trình
vận động và phát triển. Trong thực tế, sự vận động và phát triển của bất kỳ một
sự vật hay hiện tượng nào cũng là sản phẩm tác động tổng hợp của tất cả các
quy luật của phép biện chứng. Trong quá trình tích luỹ về lượng để tiến tới
thay đổi về chất cũng phải chú ý đến phát hiện mâu thuẫn, tìm ra phương thức
và lực lượng thích hợp để giải quyết mâu thuẫn. Bước nhảy được thực hiện,
mâu thuẫn được giải quyết cũng tức là sự phủ định biện chứng được hoàn
thành. Cho nên, trong toàn bộ quá trình ấy cần phải phát hiện ra các yếu tố tích
cực đang tồn tại trong sự vật, loại bỏ những yếu tố lỗi thời lạc hậu cản trở sự ra
đời của cái mới, không tạo điều kiện thuận lợi cho cái mới phát triển.
Các cặp phạm trù
Trong quá trình suy nghĩ, con người thường xuyên sử dụng những khái
niệm, đó là hình thức của tư duy phản ánh những mặt, những thuộc tính quan
(25)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 200.

25


×