Phần 1
LÝ LUẬN KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ HIỆN TRƯỜNG
1. Khái niệm về hiện trường
Hiện trường là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội
và trong nhiều ngành khoa học, trong đó có Khoa học hình sự. Để hiểu rõ khái
niệm hiện trường trong khoa học hình sự, cần phải tìm hiểu các quan niệm về
hiện trường nói chung.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học năm 2001: “Hiện trường là
nơi xảy ra sự việc”; Từ điển Bách khoa Công an nhân dân, năm 2005: “Hiện
trường là nơi diễn ra sự việc hay hoạt động thực tế”. Nơi ở đây được hiểu là một
địa điểm nhất định trong không gian và có một khoảng thời gian nhất định cho
sự việc xảy ra. Sự việc được nêu là những sự việc xảy ra mang tính chất bất kỳ
như hoạt động văn nghệ, thể thao, vụ trộm cắp tài sản, vụ cháy,…. Điều đó có
nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng, quá trình… nào đó xảy ra trong hiện thực khách
quan thì đều phải gắn với không gian, thời gian xác định, hay nói cách khác mọi
hoạt động xảy ra trong hiện thực khách quan đều phải có hiện trường. Đây là các
quan niệm có tính khái quát chung nhất về hiện trường nhưng những quan niệm
trên chưa chỉ rõ cụ thể tính chất của sự việc xảy ra.
Trong công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, hiện trường được dùng
để chỉ nơi xảy ra vụ án giết người, vụ cướp tài sản, vụ tai nạn, tệ nạn, vụ cháy,
sự cố kỹ thuật… hoặc nơi phát hiện dấu vết, vật chứng của tội phạm, nơi phát
hiện tử thi chưa được làm rõ nguyên nhân… Những loại vụ việc đó đều thuộc
đối tượng điều tra của cơ quan bảo vệ pháp luật. Đây là những vụ việc xâm hại
đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, những loại vụ việc đó được gọi là
vụ việc mang tính hình sự. Vụ việc mang tính hình sự là những vụ việc xảy ra
làm phương hại đến những khách thể được Bộ luật hình sự bảo vệ, gây những
hậu quả tác hại nhất định, làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn
xã hội, đó là hiện tượng vật chất, tồn tại khách quan luôn diễn ra tại địa điểm,
phạm vi không gian, trong một khoảng thời gian xác định.
Khái niệm hiện trường theo quan điểm của Khoa học hình sự: Hiện trường
là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ việc mang tính hình sự. Những vụ việc mang tính
hình sự trong đó bao hàm những vụ án, những vụ tai nạn, tệ nạn xã hội, ở đó có
hoặc không có tội phạm. Đó là nơi mà cơ quan thực thi pháp luật cần tiến hành
khám nghiệm để phát hiện, thu thập dấu vết, vật chứng, cũng như những thông
tin làm sáng tỏ các tình tiết của vụ việc đã xảy ra. Nơi xảy ra vụ việc mang tính
1
hình sự là phạm vi không gian mà ở đó trực tiếp diễn ra sự tác động giữa các đối
tượng vật chất liên quan đến vụ việc mang tính hình sự. Trong nhiều trường
hợp, nơi phát hiện vụ việc có khi không phải là nơi xảy ra vụ việc mang tính
hình sự. Nơi phát hiện vụ việc mang tính hình sự là địa điểm tồn tại những dấu
vết, vật chứng phản ánh có vụ việc mang tính hình sự đã xảy ra. Có những vụ
việc xảy ra chỉ xác định được nơi phát hiện, không thể xác định được nơi trực
tiếp xảy ra vụ việc đó. Ví dụ như phát hiện tử thi trôi trên sông, trong trường
hợp này đó là nơi phát hiện vụ việc mang tính hình sự, chưa xác định được nơi
xảy ra vụ việc là ở đâu (nơi nạn nhân nhảy, bị ngã hoặc bị vứt xuống sông).
Bất kỳ một vụ việc mang tính hình sự nào đã hoặc đang xảy ra chúng ta
đều có thể xác định được địa điểm, thời gian xảy ra, ở đó tồn tại những thông tin
phản ánh về vụ việc. Vụ việc mang tính hình sự xảy ra thực chất là quá trình tác
động giữa các đối tượng vật chất, trong đó mỗi đối tượng vừa là đối tượng tác
động, vừa là đối tượng bị tác động, đối tượng bị tác động mang những thông tin
phản ánh về đối tượng tác động. Quá trình tác động của các đối tượng vật chất,
con người có thể nhận biết, lưu giữ và tái hiện lại thông qua tư duy trừu tượng,
được gọi là phản ánh nhận thức. Mặt khác, sự tác động giữa các đối tượng vật
chất còn làm xuất hiện hay mất đi một phần vật thể, các dấu hiệu, đặc điểm của
vật thể; gây ra sự biến đổi ở các sự vật có liên quan hoặc trong môi trường vật
chất xung quanh và tồn tại dưới các dạng vật chất cụ thể, được gọi là phản ánh
vật chất. Cả hai dạng phản ánh nêu trên đều phản ánh về một sự việc, hiện tượng
đã xảy ra. Những phản ánh này cung cấp thông tin về diễn biến của vụ việc
mang tính hình sự và rất có ý nghĩa cho quá trình phát hiện, điều tra và phòng
ngừa tội phạm. Mặt khác, giữa đối tượng tác động, đối tượng bị tác động và môi
trường xung quanh có mối quan hệ với nhau, chúng tác động lẫn nhau và phản
ánh lẫn nhau
Khi nhận thức đầy đủ các đối tượng vật chất tham gia trong quá trình xảy
ra vụ việc mang tính hình sự, nhận thức được mối quan hệ giữa chúng, xác định
được các phản ánh hình thành thì chúng ta mới xác định một cách toàn diện ý
nghĩa hình sự của hiện trường, đây là cơ sở khoa học để thu thập dấu vết, vật
chứng tại hiện trường và mẫu so sánh nhằm xác định chứng cứ chứng minh các
tình tiết, diễn biến vụ việc trong quá trình điều tra.
2. Phân loại hiện trường
- Mục đích phân loại hiện trường
+ Phân loại hiện trường là cơ sở quan trọng giúp cho việc tổ chức, bố trí
lực lượng, phương tiện trong quá trình bảo vệ hiện trường. Nhận biết được từng
2
loại hiện trường sẽ đảm bảo cho công tác bảo vệ hiện trường được triển khai
nhanh chóng, đồng bộ, đúng yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
+ Việc phân chia thành hiện trường vụ có người chết chưa rõ nguyên nhân,
hiện trường vụ cướp tài sản, hiện trường vụ cháy… và từng loại hiện trường đó
có bị xáo trộn hay còn nguyên vẹn là cơ sở để người lãnh đạo chỉ huy thuộc Cơ
quan điều tra các cấp quyết định việc điều động lực lượng, sử dụng loại phương
tiện thiết bị khám nghiệm và áp dụng biện pháp thích hợp để triển khai kịp thời,
nhanh chóng công tác khám nghiệm hiện trường nhằm góp phần điều tra làm rõ
vụ việc xảy ra.
+ Nhận thức được loại hiện trường cần khám nghiệm là cơ sở để người chủ
trì, người tham gia khám nghiệm quyết định áp dụng phương pháp, sử dụng
phương tiện khám nghiệm để đạt mục đích của quá trình khám nghiệm. Từ đó
đảm bảo cho quá trình phát hiện, thu thập và khai thác dấu vết, vật chứng đạt
hiệu quả cao nhất.
+ Kết quả phân loại hiện trường là cơ sở để ghi tên vụ việc trong biên bản
khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, sơ đồ hiện trường và
khái quát báo cáo kết luận vụ việc sau khi khám nghiệm.
- Căn cứ phân loại hiện trường
+ Căn cứ vào tính chất vụ việc đã xảy ra có:
Hiện trường vụ có người chết;
Hiện trường vụ có người bị thương;
Hiện trường vụ tai nạn giao thông;
Hiện trường vụ tai nạn lao động;
Hiện trường vụ trộm cắp tài sản;
Hiện trường vụ cướp tài sản;
Hiện trường vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
Hiện trường vụ hiếp dâm;
Hiện trường vụ ngộ độc;
Hiện trường vụ vi phạm về môi trường;
Hiện trường vụ cháy, nổ, sự cố kỹ thuật;
Hiện trường vụ rải tờ rơi, viết khẩu hiệu có nội dung phản động…
Cách phân loại trên là dựa vào nhóm các vụ việc xảy ra, nhưng hiện trường
các vụ việc mang tính hình sự trong thực tế xảy ra khác nhau, vì vậy các loại
3
hiện trường trên còn có thể chia thành nhiều loại hiện trường cụ thể khác nhau.
Ví dụ: Hiện trường có người chết còn có thể chia thành hiện trường có người
chết do súng đạn, hiện trường có người chết dưới nước, hiện trường có người
chết do ngộ độc…
+ Căn cứ vào đặc điểm phạm vi không gian nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ
việc có:
Hiện trường trong nhà;
Hiện trường ngoài trời;
Hiện trường vừa ngoài trời vừa trong nhà;
Hiện trường trên các phương tiện giao thông;
Hiện trường dưới nước…
+ Căn cứ vào diễn biến vụ việc có:
Hiện trường nơi xảy ra vụ việc mang tính hình sự. Hiện trường xảy ra vụ
việc là nơi trực tiếp diễn ra các hành vi của con người và sự tác động của các đối
tượng vật chất khác liên quan đến vụ việc mang tính hình sự. Tại hiện trường có
thể tồn tại nhiều dấu vết, vật chứng quan trọng nếu được phát hiện, khai thác tốt
sẽ là cơ sở để tái hiện toàn bộ vụ việc đã xảy ra.
Hiện trường nơi phát hiện vụ việc mang tính hình sự. Hiện trường nơi phát
hiện vụ việc mang tính hình sự là địa điểm phát hiện dấu vết, vật chứng, tử thi…
phản ánh có vụ việc mang tính hình sự đã xảy ra. Dấu vết, vật chứng, thông tin
tài liệu tồn tại ở hiện trường nơi phát hiện vụ việc mang tính hình sự phản ánh
các đối tượng vật chất tham gia trong quá trình xảy ra vụ việc nên có ý nghĩa đối
với hoạt động điều tra.
Nếu xét về diễn biến quá trình của con người khi thực hiện hành vi phạm
tội, thì tội phạm thường diễn ra qua các giai đoạn: chuẩn bị, thực hiện và che
giấu hành vi phạm tội. Cho nên, đối với các vụ án hình sự có thể phân chia hiện
trường thành nhiều khu vực khác nhau:
* Khu vực chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội;
* Khu vực thực hiện hành vi phạm tội;
* Khu vực che giấu hành vi phạm tội;
+ Căn cứ vào tình trạng hiện trường:
Việc xác định tình trạng hiện trường dựa trên cơ sở kết quả quan sát hiện
trường, những thông tin thu thập được khi đến hiện trường.
4
* Hiện trường nguyên vẹn là hiện trường khi khám nghiệm dấu vết, vật
chứng và cảnh vật ở hiện trường chưa bị thay đổi, xáo trộn. Do dấu vết, vật
chứng không bị thay đổi nên việc nghiên cứu phát hiện cũng như thu thập, khai
thác chúng thuận lợi, đồng thời dễ xác định quan hệ giữa các dấu vết, vật chứng
giúp cho đánh giá kết luận vụ việc được chính xác, khách quan.
* Hiện trường xáo trộn là hiện trường khi tiến hành khám nghiệm thì các
dấu vết, vật chứng cảnh vật ở hiện trường đã có sự thay đổi, mất mát, hư hỏng.
Đối với loại hiện trường này vị trí, trạng thái, đặc điểm của dấu vết, vật chứng
có sự thay đổi dẫn đến việc nghiên cứu phát hiện, xác định dấu vết, vật chứng
liên quan đến vụ việc sẽ khó khăn, phức tạp hơn. Nhiều trường hợp, do hiện
trường xáo trộn quá nhiều, làm cho việc nghiên cứu phát hiện, khai thác dấu vết,
vật chứng không chính xác dẫn đến không kết luận được hoặc kết luận không
chính xác.
II. KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
1. Nhận thức chung về khám nghiệm hiện trường
- Khái niệm khám nghiệm hiện trường
Trong quá trình điều tra khám phá tội phạm, khám nghiệm hiện trường là
một trong những mắc xích quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của
quá trình này. Khám nghiệm hiện trường được xác định là một bộ phận trọng
yếu của công tác điều tra tại hiện trường, góp phần thu thập chứng cứ cũng như
giúp cho việc xây dựng kế hoạch điều tra, tiến hành các biện pháp điều tra khác
phù hợp, đúng hướng.
Khám nghiệm hiện trường là hoạt động tố tụng hình sự, là quá trình tổ
chức nghiên cứu phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, đánh giá dấu vết, vật
chứng và những tin tức tài liệu có liên quan trực tiếp tại hiện trường, nhằm làm
rõ tính chất vụ việc, người thực hiện và các tình tiết khác của vụ việc mang tính
hình sự.
+ Vị trí của khám nghiệm hiện trường trong điều tra hình sự là: “hoạt động
điều tra Tố tụng hình sự”, “hoạt động thu thập thông tin..”.
+ Địa điểm tiến hành khám nghiệm hiện trường: Nơi xảy ra, nơi phát hiện
vụ việc mang tính hình sự.
+ Nội dung của khám nghiệm hiện trường là “tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ,
mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết
của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án”, nghiên cứu đánh giá các
dấu vết vật chứng và những tin tức tài liệu, phát hiện thu thập thông tin, dấu vết,
vật chứng của tội phạm hoặc nghi có liên quan đến tội phạm,…
5
+ Đối tượng nghiên cứu của khám nghiệm hiện trường là các phản ánh vật
chất có ý nghĩa hình sự tồn tại ở hiện trường. Các phản ánh nhận thức như lời
khai, tin tức có liên quan là hệ quả của vụ việc mang tính hình sự, cũng hình
thành, tồn tại ở hiện trường, cần phải được nghiên cứu thu thập để làm rõ bản
chất sự việc. Bởi vì, các phản ánh vật chất và phản ánh nhận thức đều là phản
ánh về một vụ việc, đây là hai mặt của một vấn đề. Tuy nhiên, phương pháp,
cách thức nghiên cứu, phát hiện, thu thập lại rất khác nhau. Trong khám nghiệm
hiện trường có nghiên cứu những phản ánh nhận thức, nhằm hỗ trợ để thực hiện
tốt việc nghiên cứu các phản ánh vật chất. Tóm lại, những tin tức có liên quan
cũng là đối tượng cần nghiên cứu trong khám nghiệm hiện trường, nhưng nó chỉ
có ý nghĩa bổ trợ, còn đối tượng chính của khám nghiệm hiện trường là các phản
ánh vật chất, khoa học điều tra hình sự gọi là dấu vết, vật chứng.
Quá trình khám nghiệm phải tuân thủ quy định của Điều 4 “Tôn trọng và
bảo vệ các quyền cơ bản của công dân”; Điều 7 “Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân”; Điều 75 “Thu thập và bảo quản vật
chứng” Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Để phù hợp với thực tiễn điều tra, Bộ
Công an đã ra Chỉ thị số 02 /2001/CT-BCA (C11) ngày 06/02/2001 về “Công
tác khám nghiệm hiện trường trong lực lượng Công an nhân dân” và Quy chế
ban hành theo quyết định số 57/2001/QĐ-BCA (C11) ngày 06/02/2001 về “Phân
công trách nhiệm giữa các lực lượng Công an nhân dân trong công tác khám
nghiệm hiện trường”.
- Nhiệm vụ khám nghiệm hiện trường
+ Điều tra thu thập, phân tích chọn lọc những tin tức tài liệu có liên quan
đến hiện trường và sự việc xảy ra nhằm phục vụ cho việc đánh giá về hiện
trường, định hướng cho các hoạt động chiến thuật xuất phát từ hiện trường.
Những thông tin cần thu thập: thông tin phản ánh về thời gian xảy ra vụ việc, về
người phát hiện, về tung tích lai lịch và mối quan hệ của nạn nhân, đặc điểm
nhận dạng thủ phạm, những thay đổi của các dấu vết, vật chứng trong quá trình
bảo vệ hiện trường...
+ Ghi nhận vị trí, trạng thái và quang cảnh chung của hiện trường bằng
cách mô tả vào biên bản khám nghiệm hiện trường, vẽ sơ đồ hiện trường và
chụp ảnh hiện trường. Hiện trường chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định,
nhưng việc nghiên cứu địa điểm, phạm vi không gian, trạng thái và quang cảnh
của hiện trường phải thực hiện trong suốt quá trình điều tra vụ án. Do đó, cần
phải ghi nhận vị trí, trạng thái, quang cảnh của hiện trường và mối tương quan
giữa phạm vi hiện trường với vùng lân cận.
6
+ Áp dụng các biện pháp, phương pháp khoa học và sử dụng phương tiện
kỹ thuật chuyên dùng hỗ trợ nhằm phát hiện, thu lượm và bảo quản toàn bộ dấu
vết vật chứng có ở hiện trường. Hiện trường vụ việc mang tính hình sự luôn tồn
tại các phản ánh vật chất, đó là các dấu vết, vật chứng. Các phản ánh vật chất
chứa đựng những thông tin phản ánh về diễn biến hành động của con người, quá
trình tác động giữa các đối tượng vật chất. Dấu vết, vật chứng tồn tại dưới nhiều
dạng khác nhau, trong đó có nhiều loại rất khó phát hiện, nên cần có phương tiện
kỹ thuật hỗ trợ nhằm phát hiện được tất cả các dấu vết, vật chứng. Nếu không
phát hiện được dấu vết, vật chứng thì không thể nghiên cứu đánh giá xác định cơ
chế hình thành và khai thác các thông tin để làm rõ diễn biến và tình tiết của vụ
việc.
+ Nghiên cứu, đánh giá tất cả các dấu vết, vật chứng và những tin tức, tài
liệu thu thập được nhằm xác lập chứng cứ pháp lý và định hướng cho các hoạt
động điều tra tiếp theo.
+ Lập hồ sơ khám nghiệm hiện trường vụ việc mang tính hình sự theo đúng
yêu cầu pháp luật và yêu cầu nghiệp vụ của ngành Công an. Hồ sơ khám nghiệm
hiện trường vụ việc mang tính hình sự bao gồm: Biên bản khám nghiệm hiện
trường, bản ảnh hiện trường, sơ đồ hiện trường, báo cáo khám nghiệm hiện
trường (và biên bản khám nghiệm tử thi, bản ảnh khám nghiệm tử thi đối với
hiện trường có người chết). Khi xây dựng các tài liệu này phải theo mẫu quy
định, nội dung của từng loại tài liệu phải đáp ứng chính xác, khách quan, toàn
diện, đúng luật nhằm đảm bảo giá trị pháp lý của hoạt động khám nghiệm hiện
trường.
+ Phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong công tác phòng ngừa tội phạm,
những nguyên nhân điều kiện nảy sinh tội phạm, xác định phương thức, thủ
đoạn hoạt động mới của tội phạm, từ đó đề xuất các biện pháp thích hợp để
phòng ngừa, ngăn chặn một cách tích cực và đấu tranh có hiệu quả đối với các
loại tội phạm.
- Yêu cầu khi khám nghiệm hiện trường
+ Đảm bảo yêu cầu pháp lý: Khám nghiệm hiện trường vụ việc mang tính
hình sự là hoạt động điều tra tố tụng, do đó quá trình tổ chức khám nghiệm hiện
trường phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Cụ thể dựa vào các văn bản
sau:
* Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
* Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004
7
* Các chỉ thị, quyết định của Bộ Công an như: Chỉ thị số 02/2001/CT-BCA
(C11), ngày 06/02/2001 của Bộ trưởng Bộ Công an về công tác khám nghiệm
hiện trường của lực lượng Công an nhân dân; Quyết định số 57/2001/QĐ-BCA
(C11), ngày 06/02/2001 ban hành quy chế phân công trách nhiệm giữa các lực
lượng Công an nhân dân trong công tác khám nghiệm hiện trường; Thông tư số
76/2011/QĐ-BCA ngày 22/11/2011 quy định phân công trách nhiệm và quan hệ
phối hợp trong công tác điều tra, giải quyết tai nạn giao thông của lực lượng
Cảnh sát nhân dân.
+ Đảm bảo yêu cầu khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời: Ở hiện trường vụ
việc mang tính hình sự, các dấu vết vật chứng luôn chịu sự tác động của các yếu
tố khách quan và chủ quan nên dễ bị thay đổi, phá huỷ, hiện trường dễ bị xáo
trộn. Vì thế khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi cần triển khai kịp
thời nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các biến đổi có thể xảy ra đối với hiện
trường, dấu vết, vật chứng. Mặt khác, kết quả khám nghiệm hiện trường vụ việc
mang tính hình sự là cơ sở để quyết định nội dung các biện pháp tố tụng hình sự
ở giai đoạn tiếp theo, do đó khám nghiệm hiện trường cần được tiến hành một
cách khẩn trương nhằm thu thập, phân tích các thông tin để định hướng xây
dựng kế hoạch điều tra tiếp theo.
+ Đảm bảo yêu cầu kế hoạch hóa: Quá trình khám nghiệm phải được lập kế
hoạch và thực hiện theo kế hoạch đã đề ra. Việc lập kế hoạch đối với khám
nghiệm hiện trường là một yếu tố quan trọng, vừa đảm bảo yêu cầu về tính cấp
bách, vừa thể hiện sự phối hợp có hiệu quả của các lực lượng nghiệp vụ.
Tính kế hoạch trong khám nghiệm hiện trường thể hiện trong việc chuẩn bị
nhân lực, phương tiện kỹ thuật và trình tự giải quyết các công việc ở hiện trường
của từng lực lượng tham dự khám nghiệm. Đồng thời còn thể hiện ở sự phối hợp
điều động phương tiện giao thông để đưa lực lượng đến hiện trường.
+ Đảm bảo yêu cầu bí mật: Khám nghiệm hiện trường là công tác nghiệp
vụ điều tra, trong quá trình thực hiện sử dụng rất nhiều phương pháp, biện pháp
nghiệp vụ chuyên sâu, và kết quả khám nghiệm hiện trường giúp định hướng
quá trình điều tra, do vậy yêu cầu đặt ra là phải giữ bí mật tuyệt đối. Những
người tham gia, tham dự khám nghiệm hiện trường không được cung cấp thông
tin về hiện trường cho bất cứ ai không có trách nhiệm. Người chủ trì khám
nghiệm phải quán triệt để người tham gia, tham dự khám nghiệm biết, trước khi
triển khai khám nghiệm hiện trường.
+ Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng nghiệp vụ: Khi tiến
hành khám nghiệm cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các lực lượng
nghiệp vụ như Điều tra viên, cán bộ Kỹ thuật hình sự, bác sĩ pháp y, các nhà
8
chuyên môn và các lực lượng khác có liên quan, mỗi lực lượng tham gia khám
nghiệm phải thực hiện đúng, đầy đủ chức năng nhiệm vụ đã quy định. Đồng
thời, tổ chức khám nghiệm phải khoa học và phải có người chủ trì điều hành có
bản lĩnh, am hiểu nghiệp vụ, pháp luật. Người chủ trì khám nghiệm phải quán
xuyến được công việc, phân công nhiệm vụ một cách hợp lý. Chỉ khi tiến hành
đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ mới có điều kiện để đạt kết quả cao trong hoạt
động khám nghiệm hiện trường.
- Phương pháp khám nghiệm hiện trường
Để quá trình khám nghiệm hiện trường đạt được mục đích, yêu cầu đề ra,
phát hiện được tất cả các dấu vết, vật chứng tồn tại ở hiện trường thì đòi hỏi phải
có phương pháp khám nghiệm phù hợp. Muốn vậy, cần phải dựa vào kết quả của
việc quan sát hiện trường, dựa vào cấu trúc, tình trạng thực tế của hiện trường
còn nguyên vẹn hay xáo trộn, dựa vào kinh nghiệm chuyên môn của cán bộ
khám nghiệm và dựa vào đặc điểm tình hình địa phương.
Nội dung của phương pháp khám nghiệm hiện trường thể hiện ở việc tổ
chức lực lượng cho quá trình khám nghiệm hiện trường một cách hợp lý, phù
hợp với điều kiện địa hình, cấu trúc của hiện trường; sử dụng những chiến thuật,
biện pháp và phương tiện kỹ thuật khám nghiệm một cách phù hợp với những
phản ánh vật chất tồn tại ở hiện trường nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc
phát hiện dấu vết, vật chứng. Ngoài ra, phương pháp khám nghiệm hiện trường
còn thể hiện ở việc áp dụng trình tự thực hiện các công việc ở hiện trường, trình
tự phát hiện, thu thập các dấu vết, vật chứng đảm bảo chúng không bị mất mát,
hư hỏng hoặc sai lệch thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu đánh giá,
giám định phục vụ tốt cho cho hoạt động điều tra làm rõ vụ việc.
Đối với hiện trường vụ việc mang tính hình sự, có thể lựa chọn áp dụng
những phương pháp khám nghiệm sau:
+ Phương pháp khám nghiệm dựa theo diễn biến vụ việc đã nhận định
(phương pháp khám nghiệm hiện trường lần theo dấu vết):
Trên cơ sở phân tích những thông tin đã thu thập ở giai đoạn chuẩn bị
khám nghiệm và quan sát thực trạng hiện trường, lực lượng khám nghiệm hiện
trường nhận định về đường vào, đường ra của thủ phạm, quá trình diễn biến thực
hiện hành vi của thủ phạm ở hiện trường, những thay đổi về sự sắp xếp các đồ
vật….Từ đó nhận định trình tự xuất hiện các loại dấu vết, vật chứng, những khu
vực chúng tồn tại. Kết quả của nhận định đó là cơ sở xác định trình tự nghiên
cứu từng khu vực, từng đồ vật trong phạm vi hiện trường và trình tự phát hiện,
ghi nhận, thu lượm, bảo quản từng loại dấu vết, vật chứng tại hiện trường.
9
Phương pháp này được tiến hành theo trình tự từ điểm bắt đầu đến điểm
tiếp theo. Điểm bắt đầu thường là đường vào, vị trí thủ phạm bắt đầu đột nhập
vào hiện trường với những dấu vết đã quan sát rõ. Điểm khám nghiệm tiếp theo
là hướng hoạt động của thủ phạm tại hiện trường với những dấu vết, vật chứng
theo nhận định có khả năng tồn tại.
Áp dụng phương pháp này có ưu điểm: Sử dụng hợp lý phương tiện kỹ
thuật và lực lượng để đạt hiệu quả cao trong khám nghiệm; tận dụng và khai
thác được tối đa hiệu suất của phương tiện kỹ thuật để phát hiện dấu vết, nhất là
dấu vết ẩn và vi vết; có cơ sở để đánh giá xác định giá trị của dấu vết, vật chứng
đã thu lượm; tiết kiệm thời gian và công sức trong khám nghiệm. Tuy nhiên
phương pháp này có nhược điểm: Thường chỉ khám nghiệm những nơi nhận
định có sự việc xảy ra dẫn đến có khu vực tồn tại dấu vết, vật chứng nhưng
không khám nghiệm; đối với những vụ việc mang tính hình sự mà phạm vi hiện
trường rộng, phức tạp hoặc hiện trường bị xáo trộn nhiều, khó nhận định diễn
biến sự việc thì khó áp dụng phương pháp này.
+ Phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc:
Khám nghiệm theo hình xoáy ốc từ trong ra ngoài: Phương pháp khám
nghiệm này thực hiện theo trình tự bắt đầu từ một đồ vật nào đó (hoặc tử thi) ở
trung tâm hiện trường sau đó nghiên cứu phát hiện dấu vết ở đồ vật (hoặc khu
vực) kế tiếp, liền kề theo trình tự từ trong ra ngoài, cho đến khi tiếp cận ranh
giới của hiện trường thì kết thúc.
Khám nghiệm theo hình xoáy ốc từ ngoài vào trong: Lực lượng khám
nghiệm bắt đầu từ một đồ vật ở phần giáp với giới hạn phạm vi hiện trường, sau
đó nghiên cứu phát hiện dấu vết ở đồ vật (hoặc khu vực) kế tiếp, liền kề theo
trình tự từ ngoài vào trong.
Phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc thường được lựa chọn áp
dụng đối với hiện trường rộng ở ngoài trời và áp dụng đối với những hiện
trường đã xác định vùng trung tâm. Ví dụ, đối với loại hiện trường có người chết
thường bắt đầu khám nghiệm bắt đầu từ tử thi, từ nơi tử thi tiếp xúc, sau đó đến
các nơi khác.
Phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc có ưu điểm: Không cần
nhiều nhân lực và phương tiện; Tất cả các đồ vật, các khu vực trong phạm vi
hiện trường đều được khám nghiệm; Việc nhận định, kết luận diễn biến của vụ
việc thuận lợi, đảm bảo tính hệ thống. Tuy nhiên, các phương pháp này cũng có
nhược điểm như: Khi khám nghiện có thể phát hiện được những dấu vết, đồ vật
nhưng đó không phải là dấu vết hình sự không liên quan đến vụ việc mang tính
10
hình sự; Thường chỉ tập trung phát hiện các dấu vết dễ thấy, bỏ sót không phát
hiện vi vết và dấu vết ẩn.
+ Phương pháp khám nghiệm theo đường song song.
Lực lượng khám nghiệm bắt đầu từ một phía của hiện trường, tiến hành
nghiên cứu các khu vực, đồ vật theo một đường đến phía đối diện, sau đó vòng
lại tiếp tục khám nghiệm các khu vực, đồ vật kế tiếp theo một đường song song
với đường nêu trên, sau đó tiếp tục khám theo các đường song song tương tự
cho đến khi đến ranh giới hiện trường thì kết thúc.
Phương pháp này thường được áp dụng khi khám nghiệm những hiện
trường rộng, không có ranh giới tự nhiên.
Phương pháp khám nghiệm theo đường song song nêu trên có ưu điểm: chỉ
cần ít cán bộ chuyên môn và phương tiện kỹ thuật cũng có thể hoàn thành khám
nghiệm một hiện trường; tất cả các đồ vật, các khu vực trong phạm vi hiện
trường đều được khám nghiệm, tránh sót lọt dấu vết, vật chứng; việc nhận định,
kết luận diễn biến của vụ việc thuận lợi, đảm bảo tính hệ thống. Hạn chế của
phương pháp này là: Khi khám nghiện có thể phát hiện được những dấu vết, đồ
vật nhưng đó không phải là dấu vết hình sự, không liên quan đến vụ việc mang
tính hình sự; thường chỉ tập trung phát hiện các dấu vết dễ thấy, bỏ sót không
phát hiện vi vết và dấu vết ẩn.
+ Phương pháp khám nghiệm theo cách cuốn chiếu.
Phương pháp khám nghiệm này thực hiện như sau: Lực lượng khám
nghiệm chia thành từng nhóm cùng với phương tiện khám nghiệm, dàn thành
hàng ngang (hết chiều rộng của hiện trường), đồng thời cùng khám nghiệm các
đồ vật, các khu vực ở hiện trường theo trình tự từ đầu đến cuối hiện trường.
Phương pháp này được sử dụng khi khám nghiệm những hiện trường mà
phạm vi không gian không lớn và có chiều ngang hẹp, có thể bố trí được cán bộ
khám nghiệm dàn hết mặt bằng từ đầu này đến đầu kia của hiện trường.
Phương pháp này có ưu điểm là toàn bộ các khu vực trong phạm vi hiện
trường đều được khám nghiệm, có thể phát hiện được hầu hết các phản ánh vật
chất dễ thấy ở hiện trường và tiết kiệm thời gian khám nghiệm. Hạn chế của
phương pháp này là: Lực lượng và phương tiện khám nghiệm phải nhiều; do
từng nhóm cán bộ khám nghiệm từng phần khác nhau của hiện trường, nên sự
liên kết để xác định về diễn biến hành vi phạm tội khó khăn hơn các chiến thuật
khác.
+ Phương pháp khám nghiệm theo cách chia khu vực:
11
Đối với những hiện trường có ranh giới tự nhiên ngăn cách tạo thành các
khu vực độc lập (như tường, hàng rào, lối đi…) hoặc những hiện trường có
phạm vi quá rộng thì chia hiện trường thành nhiều khu vực, nhiều ô khác nhau
để khám nghiệm. Tuỳ theo lực lượng và phương tiện hiện có mà tiến hành khám
nghiệm lần lượt từng khu vực hoặc khám đồng loạt các khu vực hiện trường.
Việc khám nghiệm từng khu vực hiện trường đã phân chia, có thể áp dụng các
phương pháp nêu trên.
Ưu điểm của phương pháp này là tất cả các đồ vật ở hiện trường đều được
nghiên cứu khám nghiệm, đảm bảo yêu cầu toàn diện. Tuy nhiên, phương pháp
này có hạn chế là trong nhiều trường hợp khi khám nghiệm phải sử dụng nhiều
lực lượng và nhiều phương tiện; Đồng thời, do mỗi khu vực hiện trường được
khám nghiệm độc lập, nên việc xác định quan hệ giữa các dấu vết, vật chứng để
kết luận về hành vi phạm tội của thủ phạm gặp khó khăn.
Mỗi phương pháp khám nghiệm cụ thể có những ưu điểm và những hạn
chế nhất định, vì thế trước khi tiến hành khám nghiệm người chủ trì phải nắm
vững lực lượng, phương tiện và đặc điểm tình hình thực tế của hiện trường để
xác định phương pháp khám nghiệm cho phù hợp. Tùy thuộc vào thực tế từng
vụ việc cụ thể, khi khám nghiệm mỗi hiện trường có thể áp dụng một phương
pháp. Nhưng có thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau như chiến thuật chia
khu vực và xoáy ốc, hoặc chia khu vực và song song…
- Các hoạt động trong khám nghiệm hiện trường
Khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, để phát hiện, ghi nhận, thu lượm,
bảo quản, đánh giá dấu vết, vật chứng ở hiện trường, cán bộ khám nghiệm thực
hiện các hoạt động cụ thể sau:
+ Quan sát: Đây là quá trình tri giác trực tiếp (hoặc qua phương tiện hỗ trợ)
của người cán bộ khám nghiệm đối với đối tượng vật chất để nhận thức về nó.
Ví dụ: Đối tượng quan sát trong khám nghiệm hiện trường vụ án giết người là
các sự vật, hiện tượng, dấu vết, vật chứng, tử thi tồn tại ở hiện trường và mối
tương quan giữa chúng.
Ngoài hoạt động quan sát, trong quá trình khám nghiệm hiện trường, còn
có thể phát hiện các dấu vết, vật chứng bằng sự thụ cảm của các cơ quan khác
như khứu giác, vị giác, thính giác để phát hiện sự tồn tại của các loại dấu vết, vật
chứng có mùi, vị đặc trưng; hoặc có thể phát hiện sự tồn tại loại dấu vết dưới
dạng âm thanh bằng sự thụ cảm của cơ quan thính giác. Tuy nhiên, phương pháp
này đòi hỏi kinh nghiệm, sự nhạy bén của cán bộ khám nghiệm hiện trường.
12
+ Đo đạc: Đo đạc là phương pháp có tính phổ biến thường được áp dụng
trong khám nghiệm nhằm xác định vị trí, khoảng cách, kích thước của đối tượng
vật chất từ đó làm rõ đặc điểm và mối quan hệ giữa các đối tượng vật chất với
nhau. Trong quá trình khám nghiệm hiện trường vụ việc mang tính hình sự việc
xác định vị trí, kích thước của thương tích, dấu vết, vật chứng, tử thi luôn phải
đảm bảo sự chính xác, vì vậy áp dụng phương pháp đo đạc mang tính bắt buộc.
Trong khám nghiệm, tùy thuộc từng hiện trường cụ thể có thể sử dụng các
phương pháp đo như: Phương pháp tam giác, phương pháp chữ nhật, phương
pháp góc đồng tâm, phương pháp trục đường thẳng.
Ngoài việc đo đạc để xác định vị trí, kích thước (sử dụng các loại thước
đo), có thể áp dụng các phương tiện chuyên dụng để đo đạc về từ trường, về tọa
độ, đo cường độ,…
+ Ghi nhận: Là một trong những biện pháp sao chép và lưu giữ thông tin
về hiện trường, dấu vết, tử thi. Đây là hoạt động được quy định trong Bộ luật Tố
tụng hình sự vì thế khi áp dụng các phương pháp ghi nhận phải đúng pháp luật.
Đồng thời, để đảm bảo được giá trị pháp lý của hoạt động điều tra, việc ghi nhận
phải chính xác, khách quan, toàn diện. Quá trình khám nghiệm hiện trường,
thường áp dụng các biện pháp ghi nhận sau đây: Mô tả tỉ mỉ vào biên bản khám
nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi; ghi nhận bằng cách vẽ sơ đồ
phác họa hoặc bằng các biểu đồ; ghi nhận bằng cách chụp ảnh hình sự, quay
phim.
+ Phân tích, tổng hợp, so sánh: Khám nghiệm hiện trường là quá trình
nghiên cứu thu thập, đánh giá các phản ánh vật chất đã phát hiện ở hiện trường
nhằm mục đích nhận thức về bản chất của vụ án đã xảy ra trên thực tế. Ở hiện
trường có thể tồn tại nhiều loại dấu vết, vật chứng, khi phát hiện thì tiến hành
phân tích, đánh giá chúng. Ngoài ra, các dấu vết, vật chứng môi trường vật chất
ở hiện trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, khi khám nghiệm người cán bộ
điều tra phải phân tích đánh giá để tìm ra mối liên hệ đó và quan hệ của nó với
hành vi phạm tội của thủ phạm. Tiến hành phân tích, đánh giá tổng thể các dấu
vết, vật chứng để rút ra thông tin đầy đủ, khách quan từ hiện trường, tức là từ
những hiện tượng, vật chất cụ thể ở hiện trường qua phân tích, tổng hợp, so sánh
sẽ xác định được bản chất của sự việc. Điều đó cho thấy phân tích, tổng hợp và
so sánh là phương pháp luôn được sử dụng trong khám nghiệm hiện trường.
+ Thực nghiệm: Trên cơ sở dấu vết đã phát hiện, qua phân tích, đánh giá
xác định cơ chế hình thành, từ đó triển khai thực nghiệm trên những đối tượng
có hoàn cảnh, điều kiện tương tự nhằm tìm ra mối quan hệ nhân quả giữa hành
động phạm tội với dấu vết, vật chứng tồn tại ở hiện trường. Thực nghiệm không
13
những để nhận thức rõ, chính xác về nguyên nhân, điều kiện hình thành dấu vết,
mà còn là phương pháp để kiểm tra những kết luận, nhận định về dấu vết, nhất
là những trường hợp cùng một dấu vết nhưng giữa các cán bộ khám nghiệm có
đánh giá khác nhau.
- Lực lượng và phương tiện khám nghiệm hiện trường
+ Lực lượng khám nghiệm hiện trường
Căn cứ Điều 150, 151 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh Tổ
chức điều tra hình sự năm 2004; Quyết định số 57/2001/QĐ-BCA (C11) ngày
06/02/ 2001 của Bộ trưởng Bộ Công an về “Quy chế phân công trách nhiệm
giữa các lực lượng Công an nhân dân trong công tác khám nghiệm hiện trường”,
Thông tư 01/2006/TT-BCA (C11) ngày 12/01/2006 Hướng dẫn thực hiện một số
nội dung của Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, thành phần khám
nghiệm hiện trường bao gồm:
* Người chủ trì khám nghiệm hiện trường:
Thủ trưởng, phó Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra hoặc An ninh điều
tra các cấp (đối với các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp);
Điều tra viên được được phân công thụ lý chính điều tra vụ án;
Cục Trưởng (hoặc Phó cục trưởng được ủy quyền), Trưởng phòng cấp tỉnh
(hoặc phó Trưởng phòng được ủy quyền) thuộc các đơn vị: Cảnh sát giao thông
đường bộ, đường sắt; Cảnh sát đường thủy; Cảnh sát phòng cháy chữa cháy,
Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp; Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự an toàn
xã hội; Giám thị trại giam, trại tạm giam.
* Lực lượng tham gia, tham dự khám nghiệm:
Điều tra viên thuộc cơ quan Cảnh sát điều tra, An ninh điều tra;
Cán bộ Kỹ thuật hình sự;
Cán bộ Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy (đối với hiện
trường các vụ tai nạn giao thông);
Cán bộ Cảnh sát phòng cháy chữa cháy (đối với hiện trường các vụ cháy
hoặc nổ);
Cán bộ Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp; cán bộ Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội (đối với các hiện trường do Thủ trưởng hoặc Phó Thủ
trưởng các cơ quan này chủ trì khám nghiệm hiện trường);
Cán bộ Cảnh sát điều khiển chó nghiệp vụ (khi có yêu cầu của chủ trì lực
lượng khám nghiệm);
14
Bác sỹ pháp y trong Công an nhân dân (đối với hiện trường có người chết);
Cán bộ chuyên môn thuộc lĩnh vực khoa học, kỹ thuật phù hợp với yêu cầu
khám nghiệm từng loại vụ việc, như: Bác sỹ Pháp y thuộc y tế, quân đội; kỹ sư
cháy nổ; kỹ sư xây dựng …
Kiểm sát viên thuộc Viện kiểm sát cùng cấp;
Người chứng kiến;
Bị can, người bị hại (nếu cần thiết).
* Đối với lực lượng trinh sát trong các cơ quan Cảnh sát điều tra:
Tùy theo chức năng nhiệm vụ và tính chất của từng loại hiện trường mà
Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng cơ quan Cảnh sát điều tra hoặc lãnh đạo của
Ban chuyên án, chủ động và khẩn trương cử cán bộ xuống ngay hiện trường để
phối hợp nắm tình hình hiện trường, tình hình có liên quan đến công tác trinh sát
phục vụ yêu cầu điều tra vụ án và yêu cầu nghiệp vụ.
+ Khi tham gia khám nghiệm hiện trường, thông qua công tác nghiệp vụ
trinh sát phải chủ động kết hợp việc xem xét, phát hiện dấu vết, vật chứng và các
tài liệu có liên quan phục vụ yêu cầu điều tra tiếp theo. Đồng thời, phát hiện các
dấu vết, tài liệu có giá trị phục vụ yêu cầu nghiệp vụ, mở rộng vụ án, yêu cầu
trinh sát phục vụ công tác phòng chống tội phạm.
+ Phương tiện khám nghiệm hiện trường:
* Phương tiện kỹ thuật chuyên dùng để khám nghiệm hiện trường như: Va
ly khám nghiệm chung, va ly khám nghiệm tử thi, va ly phát hiện, thu thập dấu
vết sinh vật, các chất ma túy… Trong các va ly có các dụng cụ, phương tiện để
phát hiện, làm rõ, ghi nhận, thu lượm, bảo quản dấu vết, vật chứng như thước,
các loại, la bàn, búa, kềm, kéo, tuốc-nơ-vít, các loại bột phát hiện dấu vết đường
vân, chổi quét bột, các loại háo chất, máy tĩnh điện phát hiện dấu vết giày dính
bụi,… Ngoài ra, còn có các loại chai, lọ, túi, bao bì,… để bảo quản dấu vết.
* Phương tiện ghi hình như máy ảnh, máy quay phim các loại,…
* Phương tiện chiếu sáng: đèn pha, đèn chiếu xiên, đèn poliray,…
* Phương tiện thông tin, liên lạc: máy điện thoại, bộ đàm,…
* Phương tiện, dụng cụ bảo hộ lao động như: mặt nạ phòng độc, khẩu
trang, kính, găng tay, ủng, áo bảo hộ,....
* Các loại biên bản, giấy tờ, sơ đồ,…
* Phương tiện giao thông phục vụ quá trình đi lại của lực lượng khám
nghiệm: ô tô, xe máy,…
15
2. Quy trình khám nghiệm hiện trường
- Chuẩn bị khám nghiệm
+ Chuẩn bị trước khi đến hiện trường:
* Chuẩn bị về lực lượng khám nghiệm: Sau khi tiếp nhận thông tin và xác
định vụ việc mang tính hình sự đã xảy ra thuộc thẩm quyền điều tra của đơn vị
mình, Thủ trưởng đơn vị xem xét cần huy động những lực lượng nào tham gia,
Thủ trưởng đơn vị tham gia chịu trách nhiệm phân công cán bộ thuộc đơn vị
mình quản lý tham gia khám nghiệm hiện trường và giao việc cụ thể cho từng
người. Cá nhân được giao tham gia khám nghiệm phải chuẩn bị tinh thần, cơ sở
vật chất cần thiết và có mặt đúng thời gian tại địa điểm tập kết đã thống nhất.
Đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền thụ lý của lực lượng Công an nhân
dân. Khi thực hiện khám nghiệm, lực lượng tham gia khám nghiệm hiện trường
được thành lập theo quyết định của Thủ trưởng Cơ quan điều tra thụ lý loại vụ
việc đó. Tuỳ thuộc vào loại, tính chất của vụ việc, Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát
điều tra hoặc An ninh điều tra sẽ điều động, phân công lực lượng phối hợp để
thực hiện khám nghiệm hiện trường.
* Chuẩn bị phương tiện cho khám nghiệm hiện trường: Trên cơ sở các
thông tin ban đầu về loại vụ việc xảy ra, tình hình ở hiện trường mà các lực
lượng được phân công có trách nhiệm chuẩn bị đầy đủ các phương tiện cần thiết.
+ Những việc cần làm khi đến hiện trường, trước khi khám nghiệm
* Khi đến hiện trường, cán bộ khám nghiệm phải nhanh chóng tham gia
giải quyết các công việc khẩn cấp, như: Cấp cứu, cứu chữa người và tài sản có
nguy cơ thiệt hại tiếp diễn; lấy sinh cung nạn nhân; kịp thời, ưu tiên nghiên cứu
xử lý các dấu vết, vật chứng có nguy cơ bị phá huỷ tại hiện trường; tiến hành bắt
giữ thủ phạm nếu đã rõ và còn ở khu vực hiện trường; triển khai các biện pháp
ổn định trật tự ở khu vực hiện trường và vùng lân cận, hạn chế những ảnh hưởng
xấu về mặt chính trị, trấn an tư tưởng cho những người xung quanh.
* Nghe người chỉ huy bảo vệ hiện trường báo cáo về công tác bảo vệ hiện
trường. Kiểm tra toàn bộ công tác bảo vệ hiện trường, nếu phát hiện có những
vấn đề chưa phù hợp hoặc không đúng thì phải yêu cầu người chỉ huy bảo vệ
hiện trường tìm biện pháp giải quyết khắc phục ngay.
* Gặp gỡ, trao đổi với lãnh đạo chính quyền địa phương (phường, xã, thị
trấn), lãnh đạo cơ quan chủ quản (nếu vụ việc xảy ra ở các cơ quan, xí nghiệp,
nông lâm, ngư trường) để nắm tình hình về an ninh trật tự ở địa bàn xảy ra vụ
việc. Trao đổi những vấn đề liên quan cần phải phối hợp giải quyết hoặc nêu ra
16
yêu cầu đề nghị lãnh đạo chính quyền địa phương, lãnh đạo cơ quan có vụ việc
xảy ra giúp đỡ trong quá trình khám nghiệm hiện trường.
* Nắm thông tin về tình hình hiện trường: ai phát hiện vụ việc, phát hiện
khi nào; người, cơ quan bị hại mức độ thiệt hại; diễn biến tình tiết sự việc, ai là
người chứng kiến; những người liên quan đến vụ việc; thời tiết khí hậu đã ảnh
hưởng đến hiện trường, những yếu tố tác động làm thay đổi dấu vết vật chứng.
Xác định rõ những khu vực nào của hiện trường đã xáo trộn; những dấu vết, vật
chứng, đồ vật nào đã thay đổi, nguyên nhân thay đổi, thay đổi như thế nào?…
* Lựa chọn người chứng kiến, mời và giải thích quyền, nghĩa vụ cho người
chứng kiến.
* Thu thập những hồ sơ, tài liệu có liên quan đến vụ việc xảy ra. Đặc biệt
đối với các vụ cháy, nổ, sự cố kỹ thuật, tai nạn, lừa đảo, buôn lậu, giết người,
trộm cắp tài sản… Đó là những tài liệu như sơ đồ, bản vẽ kỹ thuật, các tài liệu
về chỉ tiêu kỹ thuật, hướng dẫn sử dụng, vận hành, quy định về việc phòng ngừa
cháy nổ, sự cố, chức năng nhiệm vụ của những người liên quan, hệ thống sổ
sách, hóa đơn chứng từ, tài liệu kiểm kê, kiểm tra…..
Sau khi tiến hành các công việc trên, lực lượng khám nghiệm rút ra những
kết luận sơ bộ về tình hình hiện trường, diễn biến vụ việc. Sau đó, hội ý lực
lượng tham gia, tham dự khám nghiệm để phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng
người.
- Tiến hành khám nghiệm hiện trường
+ Quan sát hiện trường:
Quan sát hiện trường là hoạt động đầu tiên của quá trình khám nghiệm, kết
quả của quan sát là tiền đề cho các hoạt động tiếp theo ở hiện trường.
Quan sát hiện trường là việc nắm bao quát vị trí, trạng thái, quang cảnh
chung của hiện trường và những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tử thi có ở hiện
trường. Trên cơ sở kết quả quan sát hiện trường để chọn chiến thuật, phương
tiện phục vụ khám nghiệm và phương pháp phát hiện, thu thập dấu vết, vật
chứng và các tin tức, tài liệu khác nằm trong mối quan hệ với vụ việc mang tính
hình sự khi khám tỉ mỉ hiện trường.
Khi quan sát hiện trường, lực lượng khám nghiệm nghiên cứu, phân tích, so
sánh, khái quát để đi đến nhận thức ban đầu về tình trạng hiện trường, hệ thống
dấu vết, vật chứng và diễn biến vụ việc xảy ra. Đây là hoạt động bao quát tổng
thể và nhận thức về hiện trường.
17
Mục đích của quan sát hiện trường là nhằm hiểu được toàn bộ trạng thái
chung của hiện trường; vị trí tồn tại của các dấu vết, vật chứng đã nhìn thấy rõ;
vị trí, cách sắp xếp các đồ vật ở hiện trường; vị trí, tình trạng của tử thi;…và
nhận thức những khu vực có khả năng tồn tại dấu vết; xác định phạm vi cụ thể
của hiện trường để bảo vệ, khám nghiệm; xác định phương pháp tìm thu dấu vết,
vật chứng, các tài liệu có liên quan đến vụ việc xảy ra… Từ đó lựa chọn phương
pháp khám nghiệm hiện trường phù hợp với điều kiện cụ thể của hiện trường.
Đối tượng của quan sát hiện trường là cấu trúc địa hình, trạng thái của hiện
trường, sự sắp xếp các đồ vật, các dấu vết, vật chứng xuất hiện và tồn tại ở hiện
trường.
Khi tiến hành quan sát, để bao quát được phạm vi không gian hiện trường,
khi thực hiện quan sát hiện trường cần phải lựa chọn vị trí và phương pháp quan
sát thích hợp. Thường lựa chọn vị trí cao, có tầm nhìn rộng để bao quát được
hiện trường. Thực hiện quan sát từ xa đến gần, từ chung đến riêng, có trọng tâm,
trọng điểm, vừa quan sát vừa phải phân tích đánh giá xác định nơi có thể tồn tại
dấu vết, vật chứng. Đối với hiện trường rộng, hoặc hiện trường bị che khuất tự
nhiên có thể đi vào trong hiện trường để quan sát. Nhưng khi vào hiện trường,
cán bộ khám nghiệm phải đi theo một lối nhất định, lối đó được đánh giá là
không tồn tại dấu vết, vật chứng, đánh dấu vị trí đã đi vào.
Cùng với quá trình quan sát hiện trường, phải thực hiện một số việc sau:
Chụp ảnh, quay phim, vẽ phác họa sơ đồ và ghi nhận mô tả những vấn đề chung
nhất về hiện trường. Tiến hành đặt số cho những dấu vết, vật chứng, tử thi… đã
nhìn thấy (Lưu ý: Khi đặt hướng mặt số về một phía, đặt cạnh dấu vết, không
đặt lên trên dấu vết, để tránh phá hủy dấu vết).
Các lực lượng trực tiếp tiến hành khám nghiệm cùng quan sát hiện trường.
Kết thúc quá trình quan sát hiện trường phải thống nhất các vấn đề cần giải
quyết sau đây:
* Cần thay đổi hay bổ sung những việc gì đối với công tác bảo vệ hiện
trường. Có cần tăng cường lực lượng bảo vệ và phương tiện hỗ trợ cho công tác
bảo vệ và khám nghiệm hiện trường hay không, nếu có thì phương án cụ thể như
thế nào.
* Nhận định đánh giá xác định lối vào và lối ra của thủ phạm, khu vực dấu
vết vật chứng thấy rõ cũng như khu vực nghi có dấu vết, vật chứng, nhận định
về diễn biến của vụ việc.
18
* Đánh giá chất lượng dấu vết nguồn hơi, trên cơ sở đó quyết định áp dụng
phương pháp, phương tiện để xử lý thu thập nguồn hơi phục vụ giám biệt hoặc
sử dụng chó nghiệp vụ để truy vết ngay tại hiện trường.
* Chú trọng, kịp thời phát hiện dấu vết nóng, nhanh chóng ưu tiên thu thập,
khai thác dấu vết nóng để xác định và truy tìm thủ phạm tại hiện trường.
* Quyết định phương pháp khám nghiệm, phương tiện sử dụng trong giai
đoạn khám nghiệm tỉ mỉ. Thống nhất xác định trình tự các việc cần làm ở giai
đoạn khám tỉ mỉ và xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng lực lượng.
+ Khám nghiệm tỉ mỉ:
Khám nghiệm tỉ mỉ là bước tiếp theo sau quan sát hiện trường. Khám
nghiệm tỷ mỉ là giai đoạn vận dụng tổng hợp những tri thức về kỹ thuật nghiệp
vụ, chiến thuật, phương pháp với sự hỗ trợ của phương tiện kỹ thuật để phát
hiện, ghi nhận, thu lượm, phân tích đánh giá toàn bộ những phản ánh vật chất có
trong phạm vi hiện trường. Trên cơ sở khai thác dấu vết, vật chứng rút ra thông
tin chứng minh tình tiết của vụ việc mang tính hình sự, đồng thời quyết định thu
mẫu so sánh nhằm xác định chứng cứ của vụ việc.
Mục đích của khám nghiệm tỉ mỉ là trên cơ sở sử dụng các phương pháp
khoa học, chiến thuật, kỹ thuật và các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ nhằm phát
hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản và đánh giá tất cả các dấu vết, vật chứng tồn
tại ở hiện trường, tạo cơ sở cho việc thu các mẫu so sánh và các tin tức tài liệu
khác xuất phát từ hiện trường, phục vụ cho quá trình điều tra tiếp theo.
Để đảm bảo chất lượng của dấu vết tại hiện trường mà chúng ta có thể thu
thập được, trong quá trình phát hiện và thu lượm dấu vết cần thực hiện tốt các
yêu cầu sau:
* Khẩn trương tiến hành các các biện pháp, phương pháp nhằm loại trừ
những yếu tố tác động vào dấu vết;
* Phát hiện và thu lượm dấu vết một cách nhanh nhất để rút ngắn thời gian
dấu vết chịu ảnh hưởng của những tác động bên ngoài;
* Áp dụng các phương pháp, sử dụng các phương tiện phát hiện, thu lượm
phù hợp với từng loại dấu vết;
* Khám nghiệm khách quan, toàn diện, chính xác. Phải chú ý phát hiện tất
cả dấu vết vật chứng tồn tại ở hiện trường, không coi trọng dấu vết này, hoặc lời
khai kia…mà bỏ qua các dấu vết, vật chứng khác, vì ở thời điểm này chưa thể
xác định được giá trị của từng dấu vết, vật chứng.
19
* Đảm bảo theo đúng trình tự: Phát hiện dấu vết; đặt số; đánh giá mối liên
quan giữa các dấu vết đã phát hiện; chụp ảnh, mô tả, vẽ sơ đồ hiện trường và
dấu vết vật chứng; nghiên cứu đánh giá nhằm khai thác các thông tin chứa đựng
trong dấu vết, vật chứng; thu lượm dấu vết, vật chứng; đóng gói những dấu vết,
vật chứng và mẫu so sánh theo đúng quy định.
Quá trình khám nghiệm tỉ mỉ, phải đảm bảo tổ chức thực hiện những hoạt
động cụ thể sau:
* Phát hiện dấu vết, vật chứng: Sử dụng phương pháp khoa học, phương
tiện kỹ thuật hỗ trợ thích hợp, nghiên cứu chi tiết từng khu vực, từng đồ vật ở
hiện trường nhằm phát hiện tất cả các dấu vết, vật chứng trong phạm vi hiện
trường đã khoanh vùng. Đây là hoạt động rất quan trọng, tạo cơ sở cho các hoạt
động tiếp theo. Nếu không phát hiện được dấu vết, vật chứng thì không có hoạt
động thu thập, đánh giá khai thác dấu vết, vật chứng. Giai đoạn này cán bộ khám
nghiệm vận dụng tri thức về khoa học dấu vết trong công tác thu thập chứng cứ,
phương pháp tiến hành tương ứng với từng loại dấu vết.
Để phát hiện hết dấu vết, vật chứng trên hiện trường, cán bộ khám nghiệm
cần phải nắm được:
Dấu vết, vật chứng được hình thành và tồn tại ở hiện trường mang tính đặc
trưng cho từng hành vi, từng đối tượng tác động và từng loại vụ việc. Do vậy,
trước khi khám nghiệm tỉ mỉ cần phải xác định đối với hiện trường đang khám
nghiệm sẽ tồn tại loại dấu vết, vật chứng gì, ở đâu. Từ đó định hướng cho việc
khám nghiệm tỉ mỉ vào khu vực trọng tâm, trọng điểm nhằm phát hiện dấu vết.
Dấu vết, vật chứng hình thành có tính quy luật và mang tính hệ thống, do
vậy khi phát hiện được một dấu vết, vật chứng nào đó thì phải suy luận, phán
đoán để xác định quan hệ giữa chúng nhằm tìm dấu vết, vật chứng khác. Mối
quan hệ lô-gíc này được thực hiện xuyên suốt trong quá trình khám nghiệm tỉ
mỉ.
Các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ thường được sử dụng:
Dùng đèn chiếu xiên quan sát từ nhiều góc độ khác nhau để phát hiện dấu
vết như: dấu vết xước, các dấu vết in không màu như dấu vết chân, giày, dép,
dấu vết đường vân…
Dùng kính phóng địa để phát hiện vi vết
Các loại bột hoá học để phát hiện và làm rõ dấu vết như: bột nhôm, bột
đồng, bột than chì…
20
Các loại hoá chất để phát hiện làm rõ dấu vết đường vân như iốt, nitrat bạcđối với dấu vết vân tay trên vải, trên giấy; để phát hiện dấu vết vân tay dính máu
thường sử dụng hoá chất như luminol, benzidin…
Dùng đèn tử ngoại (UV) để phát hiện những dấu vết có tính phát quang như
dấu vết máu, dấu vết tinh dịch…
Dùng động vật để phát hiện dấu vết ẩn, dấu vết nguồn hơi.
Khi đến hiện trường thường sử dụng các phương pháp phát hiện sau:
Đối với loại dấu vết có màu và kích thước lớn, bằng mắt thường có thể
nhận biết được thì việc phát hiện chủ yếu sử dụng phương pháp quan sát, cùng
với việc kết hợp với việc suy đoán để phát hiện dấu vết.
Đối với các dấu vết mờ hoặc dấu vết là vi vết tiến hành quan sát kết hợp
với kinh nghiệm của cán bộ khám nghiệm để phát hiện ra dấu vết như: Phán
đoán về diễn biến quá trình hành động của thủ phạm; phát hiện dấu vết theo dấu
vết chân của thủ phạm; thu dấu vết trước khi phát hiện.
Từ dấu vết thu được trên hiện trường, suy luận để tìm thu công cụ gây án
để từ đó phát hiện các dấu vết khác như dấu vết vân tay, dấu vết máu trên đó…
* Ghi nhận dấu vết: Đây là cách thức để ghi nhận các thông tin tài liệu có
thật được phát hiện trong quá trình khám nghiệm hiện trường theo đúng trình tự
thủ tục và phương pháp được quy định tại các Điều 77, 95, 150, 154 Bộ luật
TTHS. Trong mọi trường hợp, trước khi thu lượm dấu vết, vật chứng đều phải
tiến hành ghi nhận dấu vết, vật chứng bằng cách chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ,
mô tả trong biên bản khám nghiệm hiện trường, nhằm ghi nhận lại toàn bộ vị trí
dấu vết, vật chứng đã phát hiện. Chú ý ghi nhận và mô tả về vị trí, số lượng,
loại, hình dạng, kích thước, màu sắc, trạng thái, … của toàn bộ dấu vết, vật
chứng vào biên bản khám nghiệm hiện trường.
* Nghiên cứu phân tích đánh giá dấu vết, vật chứng phát hiện được: Đánh
giá dấu vết, vật chứng là xác định cơ chế hình thành dấu vết, vật chứng và tìm ra
các thông tin chứa đựng trong từng dấu vết, vật chứng.
Khi đánh giá dấu vết, vật chứng cần lưu ý:
Không những phải đánh giá từng dấu vết, vật chứng, mà đòi hỏi khai thác
chúng trong mối quan hệ với nhau;
Khi phát hiện được dấu vết, vật chứng tiến hành khai thác ngay và tiếp tục
khai thác sau khi phát hiện được tất cả dấu vết, vật chứng.
21
* Sử dụng phương tiện kỹ thuật thích hợp và phương pháp khoa học để thu
thập dấu vết, vật chứng và mẫu so sánh nhằm xác định chứng cứ chứng minh
tình tiết của vụ việc:
Phải đánh giá dấu vết, vật chứng trước khi quyết định thu. Thu thập dấu
vết, vật chứng, mẫu so sánh là hoạt động thu thập chứng cứ, cho nên đối với dấu
vết, vật chứng cần thu phải áp dụng phương pháp khoa học và dùng phương
tiện, thiết bị thích hợp để thu, nhằm đảm bảo tính kịp thời, tính khách quan, tính
khoa học và tính pháp lý. Riêng đối với mẫu so sánh, khi thu ngoài các yêu cầu
trên phải đảm bảo tương ứng với dấu vết đã thu và tính đại diện. Khi thực hiện
nhiệm vụ này, đòi hỏi người cán bộ khám nghiệm phải nắm vững tính năng tác
dụng và sử dụng thành thạo phương tiện kỹ thuật chuyên dùng trong việc thu
dấu vết, vật chứng và mẫu so sánh.
Khám nghiệm tỉ mỉ có nhiều yêu cầu đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, muốn
thực hiện tốt các nội dung nhiệm vụ nêu trên, cần lưu ý các vấn đề sau:
* Đối với hiện trường mà dấu vết, đồ vật xuất hiện ở nơi không phù hợp
với quy luật hình thành hoặc mâu thuẫn với phương thức gây án thì có thể đây là
hiện trường giả tạo hoặc dấu vết, vật thể đó không liên quan đến sự việc.
* Đối với dấu vết, vật chứng khi đã được phát hiện, phải đánh giá để quyết
định việc thu giữ. Quá trình thu lượm dấu vết, vật chứng chỉ được áp dụng
những phương pháp khoa học tương ứng và sử dụng phương tiện kỹ thuật thích
hợp đối với loại dấu vết, vật chứng đó. Quá trình thu lượm phải đúng theo quy
định của pháp luật.
* Căn cứ vào những dấu vết, vật chứng đã phát hiện được người cán bộ
khám nghiệm luôn chú ý thu mẫu so sánh nhằm khai thác đầy đủ giá trị thông
tin của dấu vết, vật chứng và phục vụ giám định xác định chứng cứ chứng minh
tình tiết của vụ việc.
* Thu thập dấu vết, vật chứng bao gồm các hoạt động ghi nhận và thu
lượm. Phải thực hiện ghi nhận dấu vết, vật chứng trước khi thu lượm.
+ Kết thúc khám nghiệm:
Tất cả các lực lượng tham gia, tham dự khám nghiệm hiện trường họp rút
kinh nghiệm, tập trung giải quyết các vấn đề sau:
* Kiểm tra toàn bộ công tác khám nghiệm hiện trường, xác định tính toàn
diện của hoạt động khám nghiệm. Trường hợp, nếu còn nơi, khu vực nào chưa
khám nghiệm để phát hiện dấu vết, vật chứng thì tiếp tục triển khai khám
nghiệm. Hoàn chỉnh và thông qua biên bản khám nghiệm hiện trường. Quyết
định việc kết thúc hay tiếp tục bảo vệ hiện trường.
22
* Đánh giá kết luận vụ việc: Trên cơ sở khai thác dấu vết, vật chứng, tin
tức tài liệu thu thập được, phân tích, tổng hợp để kết luận, nhận định về vụ việc
đã khám nghiệm về: Thời gian xảy ra, thời gian phát hiện vụ việc; tính chất sự
việc: vụ án, tai nạn, tệ nạn…; hậu quả tác hại do hành vi nguy hiểm gây ra về
người, tài sản; diễn biến sự việc, phương thức thủ đoạn hoạt động của tội phạm;
loại và đặc điểm của công cụ, phương tiện sử dụng trong quá trình xảy ra sự
việc. Nếu là vụ án, cần đánh giá về: Động cơ, mục đích gây án, trạng thái tâm lý,
thói quen của thủ phạm; số lượng thủ phạm; thủ đoạn che giấu hành vi phạm
tội…
* Đóng gói, niêm phong và vận chuyển dấu vết, vật chứng và mẫu so sánh
về Cơ quan điều tra. Khi bảo quản, đóng gói dấu vết, vật chứng và mẫu so sánh
cần đảm bảo các yêu cầu sau: Bảo quản theo đúng luật định; tránh mọi tác động
bên ngoài làm hư hỏng dấu vết, vật chứng và mẫu so sánh; dấu vết, vật chứng và
mẫu so sánh phải được đóng gói trong những dụng cụ phù hợp; phải giữ nguyên
trạng thái của dấu vết, vật chứng khi đóng gói; đóng gói riêng lẻ, tách rời nhau;
để khô tự nhiên những vật ẩm ướt trước khi đóng gói; đóng gói an toàn các loại
chất độc, dễ cháy, dễ nổ,…; ngoài các bao gói phải ghi tên vụ việc, loại dấu vết,
ngày thu để tránh nhầm lẫn với vụ việc khác. Thực hiện niêm phong theo quy
định của pháp luật, các dấu vết vật chứng khi thu phải ghi trong biên bản.
* Giải quyết những công việc sau khám nghiệm: Sau khi thực hiện khám
nghiệm hiện trường, giai đoạn cuối cần phải làm những việc sau đây:
Báo cáo lãnh đạo đơn vị về vụ việc đã khám nghiệm, trong đó nêu quan
điểm kết luận, nhận định và các đề xuất giải quyết tiếp theo;
Triển khai xử lý dấu vết, vật chứng đã thu theo yêu cầu điều tra và theo quy
định của pháp luật;
Hoàn chỉnh hồ sơ khám nghiệm hiện trường: Sao biên bản khám nghiệm
hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi (nếu có khám tử thi); vẽ hoàn thiện
các sơ đồ hiện trường; tráng phim, in phóng ảnh và làm hoàn chỉnh bản ảnh hiện
trường; soạn thảo, trình duyệt, đánh máy hoàn chỉnh báo cáo khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi (đối với hiện trường có người chết).
3. Hồ sơ khám nghiệm hiện trường
- Biên bản khám nghiệm hiện trường
+ Khái niệm:
Khi tiến hành khám nghiệm hiện trường phải lập biên bản theo quy định tại
Điều 95, 125, 150, 154 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
23
Biên bản khám nghiệm hiện trường là tài liệu pháp lý, ghi nhận tình hình
thực tế khách quan ở hiện trường và kết quả khám nghiệm hiện trường bằng
hình thức mô tả.
Nội dung biên bản khám nghiệm hiện trường phản ánh trung thực thực tế
khách quan quá trình, kết quả nghiên cứu quang cảnh chung hiện trường và
phương pháp phát hiện, ghi nhận, thu lượm các dấu vết, vật chứng ở hiện
trường. Không ghi nhận những nhận định, nhận xét chủ quan. Biên bản khám
nghiệm hiện trường được coi nguồn là chứng cứ chỉ khi được xác lập theo trình
tự, thủ tục pháp luật quy định.
Biên bản khám nghiệm hiện trường là kết quả của khám nghiệm hiện
trường, đồng thời là một phần kết quả của hoạt động điều tra tại hiện trường, do
đó biên bản khám nghiệm hiện trường có thể được sử dụng làm căn cứ khi khởi
tố vụ án hình sự.
+ Yêu cầu
* Biên bản khám nghiệm hiện trường phải được xác lập theo đúng thủ tục
pháp luật.
* Nội dung biên bản khám nghiệm hiện trường phải đầy đủ, chính xác,
khách quan và toàn diện. Ghi nhận đúng thực tế, không ghi nhận theo ý chủ
quan.
* Nội dung biên bản khám nghiệm hiện trường phải trình bày theo trình tự
có hệ thống lôgíc.
* Biên bản khám nghiệm hiện trường phải đảm bảo yêu cầu liên kết với các
tài liệu khác.
* Biên bản trình bày sạch đẹp, văn phong ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, thuật
ngữ trong biên bản mang tính phổ thông và ngữ pháp tiếng Việt. Không dùng từ
địa phương, tiếng lóng, tiếng bồi, từ nước ngoài. Trong biên bản không được
viết tắt, không dùng ký hiệu riêng.
+ Cấu trúc biên bản khám nghiệm hiện trường
Cấu trúc nội dung biên bản khám nghiệm hiện trường được thực hiện theo
mẫu biên bản do Bộ Công an ban hành. Biên bản khám nghiệm hiện trường có
cấu trúc gồm 3 phần, với yêu cầu nội dung của từng phần như sau:
* Phần mở đầu: Trình bày các nội dung: tên cơ quan thụ lý; thời điểm ngày
tháng năm và địa điểm tiến hành khám nghiệm; họ, tên, chức vụ của những
người tham dự khám nghiệm (người chủ trì, người tiến hành, người giám sát,
24
người chứng kiến); thời tiết, khí hậu, ánh sáng và tình trạng hiện trường khi tiến
hành khám nghiệm; tên vụ việc được tiến hành khám nghiệm hiện trường.
* Phần nội dung: Được cơ cấu thành 2 phần: Phần 1: Hiện trường và quá
trình khám nghiệm. Phần 2: Dấu vết, tài liệu mẫu vật thu được.
Phần 1: Thể hiện được quá trình, phương pháp, kết quả nghiên cứu quang
cảnh chung của hiện trường và phát hiện, thu thập các dấu vết, vật chứng; Khi
mô tả dấu vết, vật chứng phát hiện được phải thể hiện được vị trí, hình dạng,
kích thước, chiều hướng, màu sắc, trạng thái, đặc điểm, số lượng và mối liên hệ
giữa chúng.
Phần 2: Thống kê tổng quát loại, số lượng các dấu vết, vật chứng, tài liệu,
mẫu vật thu được.
* Phần kết luận: Ghi rõ các công việc và biện pháp đã tiến hành trong quá
trình khám nghiệm: số lượng sơ đồ và loại sơ đồ hiện trường; số lượng các kiểu
ảnh đã chụp; Những ý kiến bổ sung, thêm, bớt, sửa chữa, điều chỉnh; thời điểm
kết thúc cuộc khám nghiệm; lời kết của biên bản và chữ ký, họ tên của các thành
viên tham dự khám nghiệm hiện trường.
- Sơ đồ hiện trường
+ Khái niệm:
Sơ đồ hiện trường là bản vẽ kỹ thuật nhằm mô tả quang cảnh hiện trường,
vị trí của đồ vật, dấu vết, vật chứng, tử thi ở hiện trường. Sơ đồ hiện trường
đồng thời là tài liệu minh hoạ, bổ sung cho biên bản khám nghiệm hiện trường.
Nội dung của sơ đồ hiện trường phản ánh đúng thực tế vị trí, trạng thái của
đồ vật, cảnh vật, dấu vết, vật chứng ở hiện trường. Trên cơ sở các sơ đồ hiện
trường sẽ giúp nhận thức về vị trí quang cảnh hiện trường và diễn biến sự việc.
+ Yêu cầu
* Sơ đồ hiện trường được vẽ theo đúng mẫu quy định
* Sơ đồ hiện trường phải đảm bảo đúng kỹ thuật vẽ: Xác định phương
hướng trên bản vẽ thống nhất theo quy ước quốc tế (phía Bắc phải hướng về
phía trên); phải có vật chuẩn để xác định vị trí của dấu vết, vật chứng. Vật chuẩn
là vật có tính cố định, nổi bật ở hiện trường.
* Sử dụng thống nhất đơn vị đo trên một bản vẽ và ký hiệu vẽ. Phải dùng
các ký hiệu đã quy định đối với từng loại đồ vật để thể hiện trong bản vẽ.
* Sơ đồ hiện trường được vẽ theo tỷ lệ nhất định: Vẽ theo tỷ lệ xích (các số
đo chiều dài trên sơ đồ với vật thực ở hiện trường thống nhất theo một tỷ lệ
25