Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt bốn năm học tập và rèn luyện tại khoa Kế Toán – Tài Chính Ngân
Hàng, trường Đại học Tây Đô, để hoàn thành chương trình học của mình ngoài sự cố
gắng và nổ lực của bản thân thì sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của quý thầy cô là vô
cùng to lớn. Quý thầy cô đã từng bước hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm, kiến thức
quý báu là những hành trang vô giá giúp em vững bước trong cuộc sống, nghề nghiệp
và tương lai sau này.
Trước hết em xin cảm ơn gia đình là chổ dựa tinh thần, nguồn động lực giúp em
có thể an tâm học tập và hoàn thành tốt bốn năm học vừa qua và cũng là nơi cho em
những bài học quý giá về cuộc sống để em có thể bước tiếp trên con đường tương lai.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban giám hiệu nhà trường Đại học Tây Đô,
Ban lãnh đạo khoa Kế toán – Tài chính ngân hàng đã tạo không gian, điều kiện học
tập, nghiên cứu cho em một cách tốt nhất trong thời gian qua. Em cũng xin gửi lời cảm
ơn đến tất cả các thầy cô đã giảng dạy và truyền đạt bài học vô giá em trong suốt bốn
năm qua.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Đặng Bửu Kiếm, thầy đã
giành rất nhiều thời gian quý báu để tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành tốt
luận văn tốt nghiệp.
Sau cùng, em xin kính chúc Ban lãnh đạo và Quý thầy cô trường Đại học Tây
Đô luôn thành công trong công việc và cuộc sống, đặc biệt có thật nhiều sức khỏe để
tiếp tục công cuộc giảng dạy, truyền đạt kiến thức quý giá cho tất cả mọi người.
Trân trọng kính chào!
Sinh viên thực hiện
Lê Nguyễn Long Nhi
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
1
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các
doanh nghiệp ngành thủy sản” là do chính tôi thực hiện cùng với sự hướng dẫn của
thầy Đặng Bửu Kiếm. Những thông tin, dữ liệu, số liệu đưa ra trong luận văn được
trích dẫn rõ ràng về nguồn gốc, đảm bảo tính khách quan và trung thực.
Cần Thơ, ngày…. tháng…. năm 2016
Sinh viên thực hiện
Lê Nguyễn Long Nhi
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
2
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Họ và tên GVHD: ĐẶNG BỬU KIẾM
Học vị: Nghiên cứu sinh, Thạc sỹ
Chuyên ngành: Tài Chính Ngân Hàng
Cơ quan công tác:
Họ và tên sinh viên: LÊ NGUYỄN LONG NHI
MSSV: 12D340201124
Chuyên ngành: Tài Chính Ngân Hàng
Tên đề tài: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NGÀNH THỦY SẢN
NỘI DUNG NHẬN XÉT
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
Xác nhận của GVHD
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
3
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
MỤC LỤC
Trang
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
4
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1: Tóm tắt các nghiên cứu trước về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thanh
khoản của các công ty............................................................................................29
Bảng 3.1: Ký hiệu và cách tính các biến trong mô hình.......................................33
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình...............................................42
Bảng 4.2: Ma trận tương quan của các biến độc lập...........................................44
Bảng 4.3: Kiểm tra đa cộng tuyến của các biến độc lập trong mô hình..............45
Bảng 4.4: Kiểm tra Fixed Effect và Random Effect bằng Hausman....................46
Bảng 4.5: Mô hình tác động cố định (Fixed Effect)..............................................47
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
5
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Hiệu quả xuất khẩu thủy sản Việt Nam giai đoạn 1996 – 2014............8
Hình 2.2: Tổng tài sản của các doanh nghiệp ngành thủy sản trong giai đoạn 2010 –
2014..........................................................................................................................9
Hình 2.3: Tổng doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp ngành thủy sản trong
giai đoạn 2010 – 2014............................................................................................10
Hình 2.4: Tăng trưởng và cấu trúc tăng trưởng theo ngành kinh tế....................12
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
6
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AEC
ASEAN Economic Community
D/A
Tỷ lệ nợ/tổng tài sản
FCF
Dòng tiền tự do
FEM
Tác động cố định (Fixed Effect Model)
GTA
Tăng trưởng tổng tài sản
HĐSXKD
Hoạt động sản xuất kinh doanh
P/B
Giá trị thị trường/giá trị sổ sách
P/E
Giá trị thị trường/thu nhập trên mỗi cổ phần
REM
Tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model)
ROA
Lợi nhuận/tổng tài sản
TPP
Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement
VKFTA
Free Trade Agreements Vietnam – Korea
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
7
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Tính thanh khoản được xem như một yếu tố quan trọng đo lường khả năng đáp
ứng các nghĩa vụ nợ đến hạn của một doanh nghiệp. Chỉ tiêu này không chỉ được nhà
quản lý doanh nghiệp kiểm soát, điều tiết cho phù hợp với bối cảnh hoạt động kinh
doanh và năng lực của doanh nghiệp mà còn được các nhà cho vay xem xét rất kỹ
trước khi ra các quyết định tài trợ nguồn vốn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, các nhà
đầu tư trên thị trường khi lựa chọn cổ phiếu để đầu tư thường cũng quan tâm đến vấn
đề thanh khoản của chính doanh nghiệp mà họ sắp mua cổ phiếu. Một doanh nghiệp
gặp vấn đề về thanh khoản là những dấu hiệu đầu tiên cho thấy khả năng kiệt quệ tài
chính, phá sản của một doanh nghiệp là có thể xảy ra trong tương lai gần. Trong bài
báo cáo này khả năng thanh khoản của doanh nghiệp được đo lường thông qua tỷ số
thanh toán hiện hành (current ratio) và một số các yếu tố có thể tác động đến tính
thanh khoản được xem xét như: quy mô, đòn bẩy, tỷ lệ dòng tiền tự do, tăng trưởng
tổng tài sản, giá trị thị trường/giá trị sổ sách, tỷ suất sinh lời/tổng tài sản. Kết quả
nghiên cứu của bài báo cáo sẽ cung cấp những chứng cứ thực nghiệm quan trọng giúp
cho các nhà quản lý điều hành doanh nghiệp tốt hơn từ đó làm hấp dẫn, gia tăng các
nguồn tài trợ từ bên ngoài từ các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư tiềm năng.
Đề tài nghiên cứu được thực hiện để lượng hóa và phân tích các yếu tố tác động
đến thanh khoản công ty thông qua tỷ số thanh khoản hiện hành (current ratio). Bên
cạnh đó, nghiên cứu dựa trên cơ sở các nghiên cứu trước và tình hình thực tế tại Việt
Nam, nghiên cứu đã đề xuất các biến được sử dụng gồm: Tỷ lệ dòng tiền tự do, Giá trị
thị trường/Giá trị sổ sách – P/B, Tỷ lệ nợ, Giá trị thị trường/Thu nhập trên mỗi cổ phân
– P/E, Tỷ lệ tăng trưởng tổng tài sản, Quy mô doanh nghiệp, Tỷ số ROA và Tỷ lệ lưu
chuyển tiền thuần.
Nghiên cứu thu thập mẫu dữ liệu trong giai đoạn 2010 – 2014 của 19 công ty
ngành thủy sản niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
(HOSE) và Hà Nội (HNX) bao gồm 95 quan sát với bảng dữ liệu cấu trúc không cân
xứng. Trong nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp thống kê mô tả và tiến hành
chạy hai mô hình tác động là mô hình tác động cố định (Fixed Effect Model – FEM)
và mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model – REM) để ước lượng mô
hình hồi quy.
Bên cạnh đó, nghiên cứu còn sử dụng các kiểm định để kiểm tra hiện tượng
tương quan giữa các biến trong mô hình với việc kiểm định bằng ma trận tương quan
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
8
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
và nhân tử phóng đại phương sai (VIF), cùng với đó nghiên cứu sẽ thực hiện kiểm
định Hausman để kiểm tra xem giữa hai mô hình tác động cố định và tác động ngẫu
nhiên thì mô hình nào phù hợp hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy biến tỷ lệ nợ có tác động ngược chiều đến tỷ lệ
thanh toán hiện hành, và các biến độc lập: giá trị thị trường/giá trị sổ sách – P/B, quy
mô doanh nghiệp, tỷ số P/E, tỷ lệ lưu chuyển tiền thuần, tỷ lệ tăng trưởng tổng tài sản,
tỷ số ROA và tỷ lệ dòng tiền tự do chưa có bằng chứng thống kê cho thấy là các yếu tố
trên có tác động đến khả năng thanh toán hiện hành của doanh nghiệp.
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
9
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Đặt vấn đề và lý do nghiên cứu
Trong bối cảnh nền kinh tế dưới sự quản lý vĩ mô nhà nước, kinh tế Việt Nam
đã có những khởi sắc đáng chú ý: nền kinh tế được phục hồi rõ nét, lạm phát được
kiểm soát, xuất khẩu được duy trì và tiếp tục tăng trưởng. Mặc khác, Việt Nam chính
thức ký Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA), tham gia
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đã mở ra nhiều cơ hợi cho nền kinh tế Việt Nam.
Đồng thời, Việt Nam trở thành một trong những thành viên của Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) điều này góp phần không nhỏ trong quá trình thúc đẩy
xuất – nhập khẩu và phát triển nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là phát triển ngành Thủy
sản.
Từ khi chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đã có
những thành quả đáng khích lệ trong việc tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, thu nhập của
người dân tăng cao, các doanh nghiệp phát triển hơn về số lượng và hiệu quả hơn
trong hoạt động kinh doanh. Đóng góp vào những thành tích này, phải kể đến vai trò
của nhiều ngành kinh tế đã từng bước vươn lên và khẳng định tiềm năng phát triển của
mình trên phạm vi trong nước và cả thế giới, trong đó có ngành thủy sản. Cũng như
những quốc gia đang phát triển khác, Việt Nam rất coi trọng xuất khẩu, lấy xuất khẩu
làm nền tảng để thu ngoại tệ nhằm phát triển kinh tế trong nước và xây dựng cơ sở hạ
tầng. Với ưu thế là một quốc gia ven biển, giàu tiềm năng về thủy sản, có thể nói thủy
sản là một mặt hàng xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế lớn, do đó từ lâu thủy sản đã giữ
một vai trò quan trọng trong lĩnh vực xuất khẩu của nước ta, nhận thức được điều này
ngành thủy sản ngày càng được chăm lo nhiều hơn. Cho đến nay, sau khi trải qua
nhiều thăng trầm, ngành thủy sản nước ta đã có những thành tựu đáng kể, với kim
ngạch xuất khẩu tăng liên tục theo từng năm và luôn hoàn thành kế hoạch đề ra. Có thể
nói ngành thủy sản đã trở thành ngành then chốt trong nền kinh tế quốc dân, góp phần
quan trọng trong việc phát triển kinh tế nước ta.
Hiện nay, trước nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng trong khu vực và thế
giới, cùng với những gì đang diễn ra trên thị trường thì còn khá nhiều doanh nghiệp
trong nước đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt thanh khoản. Điều này khiến
hiệu quả hoạt động suy giảm, giảm năng lực cạnh tranh, điều đáng nói hơn là có thể
dẫn đến phá sản nếu sử dụng không hợp lý giữa nguồn vốn và tài sản. Nhận thấy được
tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của tính thanh khoản đến quá trình hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp ngành thủy sản là không hề nhỏ, vì vậy tác giả đã quyết
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
10
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
định lựa chọn đề tài “Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh
nghiệp ngành thủy sản” để làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Vấn đề nghiên cứu
Nội dung của bài nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc phân tích những yếu tố
tác động đến thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản. Từ đó đưa ra những
kết luận và giải pháp nhằm nâng cao thanh khoản cho công ty.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
1.3.1.
Mục tiêu chung
Mục tiêu của vấn đề nghiên cứu là tìm hiểu, phân tích và làm rõ về các yếu tố
tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản được niêm yết
trên sàn giao dịch Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX) trong giai đoạn
2010 – 2014.
1.3.2.
Mục tiêu cụ thể
-
Xác định các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của doanh nghiệp.
-
Đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của doanh
nghiệp.
-
Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao tài chính doanh nghiệp.
1.4. Câu hỏi nghiên cứu
-
Câu hỏi được đặt ra ở đây là tính thanh khoản của một doanh nghiệp được đo lường
như thế nào?
-
Các yếu tố nào có thể tác động đến tính thanh khoản của doanh nghiệp?
-
Mức độ tác động của những yếu tố đó như thế nào?
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, bài viết sử dụng phương pháp thống kê mô tả
kết hợp với việc phân tích tổng hợp, đối chiếu và so sánh để rút ra các kết luận làm cơ
sở để nghiên cứu đề tài.
1.6. Phạm vi nghiên cứu
1.6.1.
Nội dung: Đề tài nghiên cứu về các yếu tố tác động đến tính thanh khoản
của các doanh nghiệp ngành thủy sản.
1.6.2.
Không gian: Các doanh nghiệp ngành thủy sản niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
1.6.3.
Thời gian: Số liệu thu thập từ năm 2010 đến năm 2014.
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
11
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
1.7. Ý nghĩa của luận văn nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu giúp các đối tượng liên quan hiểu rõ hơn tính thanh khoản có
vai trò quan trọng như thế nào đối với một doanh nghiệp, bên cạnh đó kết quả nghiên
cứu của bài báo cáo sẽ cung cấp những chứng cứ thực nghiệm quan trọng giúp cho các
nhà quản lý có những chính sách, biện pháp kiểm soát và những điều chỉnh phù hợp để
điều hành doanh nghiệp tốt hơn. Mặc khác, trên cơ sở thực hiện đề tài và trong quá
trình phân tích các dữ liệu tác giả đã có những tìm hiểu sâu hơn về vấn đề nghiên cứu
điều này góp phần trao dồi và cũng cố thêm nguồn kiến thức cho tác giả.
1.8. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Giới thiệu tổng quan nghiên cứu – Chương này nêu ra lý do
nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, phạm
vi nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài.
Chương 2: Cơ sở lý luận – Nội dung chương nêu tổng quan về ngành thủy
sản, cở sở lý thuyết và các nghiên cứu trước về các yếu tố tác động đến tính thanh
khoản của các doanh nghiệp.
Chương 3: Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu – Mục đích của chương là
mô tả mô hình nghiên cứu, dữ liệu, các biến nghiên cứu và giải thích các biến có trong
mô hình.
Chương 4: Kết quả và thảo luận kết quả – Nội dung của chương là đưa ra
các kết quả phân tích từ việc phân tích ma trận tương quan, đa cộng tuyến, phân tích
hồi quy và thống kê mô tả từ đó thảo luận và đưa ra các ý kiến, nhận xét trong quá
trình phân tích.
Chương 5: Kết luận và kiến nghị – Kết luận về kết quả đạt được từ quá trình
phân tích, đưa ra các kiến nghị cũng như mặt hạn chế của để tài và đề xuất các nghiên
cứu tiếp theo.
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
12
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong chương 1 tác giả đã trình bày khái quát về các vấn đề cần nghiên cứu
như mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi và phương pháp nghiên cứu. Ở
trong chương này tác giả sẽ tiếp tục trình bày về cơ sở lý thuyết của vấn đề nghiên cứu
bao gồm khái quát về ngành thủy sản và các nghiên cứu trước đó để làm cơ sở cho
việc nghiên cứu góp phần xác định được các yếu tố có ảnh hưởng đến khả năng thanh
khoản của doanh nghiệp, bên cạnh đó việc nghiên cứu trên cơ sở lý thuyết này giúp
nhà quản trị lên kế hoạch nhằm tăng khả năng thanh khoản của doanh nghiệp.
2.1. Giới thiệu về ngành thủy sản
2.1.1. Định nghĩa ngành
Ngành thủy sản là ngành sản xuất vật chất nhằm lợi dụng những khả năng tiềm
tàn về sinh vật trong môi trường nước để sản xuất ra những sản phẩm phục vụ cho nhu
cầu đời sống con người.
Ngành thủy sản bao gồm tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực
đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, bảo quản, lưu trữ, vận chuyển, tiếp thị, mua bán thủy
sản và các sản phẩm thủy sản. Các hoạt động thương mại chính của ngành nhằm cung
cấp sản phẩm thủy sản cho người tiêu dùng hoặc cung cấp các yếu tố đầu vào cho
những ngành công nghiệp chế biến khác. Bằng những cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
cuộc sống của 500 triệu người (tính đến cuối năm 2013) ở các quốc gia đang phát triến
phụ thuộc hoàn toàn với nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.
2.1.2. Đặc điểm của ngành thủy sản
Ngành thủy sản là ngành sản xuất vật chất độc lập
Về mặt lý luận một ngành sản xuất được coi là độc lập khi có các điều kiện như
có đối tượng lao động riêng, cố công cụ và phương pháp lao động riêng, có lực lượng
lao động chuyên môn hóa thể hiện đó là một ngành nghề nhất định.
Sản xuất thủy sản nước ta đã có từ lâu đời. Nó tồn tại song song với quá trình
tồn tại và phát triển của con người, thông qua sức lao động của mình kết hợp với
những công cụ lao động thích hợp, con người đã khai thác và nuôi dưỡng các sinh vật,
các nguồn lợi phong phú đa dạng sống trong môi trường để chế biến thành thực phẩm
và cung cấp nguyên liệu cho các ngành khác. Tuy nhiên, do tính đặc thù của đối tượng
lao động là khả năng tái sinh tự nhiên, tính mùa vụ mà sản xuất thủy sản có nhiều nét
giống với ngành nông nghiệp. Trải qua thời kỳ phát triển lâu dài cùng với sự tác động
của phân công lao động xã hội, ngành thủy sản đã tách ra khỏi nông nghiệp dưới hình
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
13
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
thức là nghề nghiệp truyền thống của từng vùng từng địa phương. Cho đến nay, dưới
sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các công cụ lao động, các kỹ
thuật sản xuất tiên tiến ngày càng được áp dụng rộng rải vào sản xuất thay thế cho sản
xuất nhỏ, thủ công. Từ đó, ngành thủy sản phát triển ngày một vững mạnh, dần dần trở
thành ngành sản xuất vật chất độc lập và quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, khi nói rằng ngành thủy sản là một ngành sản xuất vật chất độc lập
hoàn toàn không có nghĩa là tách rời hệ thống kinh tế thủy sản với các ngành khác
trong nền kinh tế quốc dân. Tính độc lập ở đây là độc lập tương đối xét dưới góc độ
của hệ thống lớn (kinh tế quốc dân), bao gồm nhiều phân hệ (trong đó có ngành thủy
sản) gắn bó chặt chẻ với nhau. Sự phát triển của ngành thủy sản chịu ảnh hưởng lớn
bởi sự phát triển của các ngành khác và nền kinh tế. Ngược lại, ngành thủy sản có sự
tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và các ngành kinh
tế khác.
Ngành thủy sản là một ngành sản xuất vật chất hỗn hợp, phức tạp và mang tính
mùa vụ
Ngành thủy sản là một ngành sản xuất vật chất hỗn hợp
Do đối tượng lao động của ngành thủy sản là cá và các sinh vật dưới nước có
khả năng tái sinh tự nhiên, nên đi đôi với việc khai thác các nguồn lợi tự nhiên cần
phải nghiên cứu và thực hiện bảo vệ, duy trì và tái tạo nguồn lợi. Tiến hành nuôi trồng
và phát triển các sinh vật đó để phục vụ cho nhu cầu sản xuất lâu dài. Công việc này
phần lớn phụ thuộc và các điều kiện tự nhiên, do đó xét về mặt sản xuất thì ngành thủy
sản vừa mang tính của sản xuất công nghiệp vừa mang tính của sản xuất nông nghiệp.
Từ đó, việc quản lý sản xuất trong ngành thủy sản mang tính chất hỗn hợp.
Ngành thủy sản là một ngành sản xuất vật chất phức tạp
Do các đối tượng lao động là các sinh vật sống dưới nước nên trữ lượng khó
xác định một cách chính xác, đồng thời các sinh vật có thể di chuyển tự do theo ngư
trường không bị ràng buộc phân chia giữa các địa giới hành chính. Bên cạnh đó là các
điều kiện khí hậu, thời tiết, dòng chảy, địa hình, thủy văn,… tạo nên tính mùa vụ phức
tạp về cả không gian và thời gian. Từ đó dẫn đến ngành thủy sản hình thành nhiều
ngành, nhiều nghề khác nhau. Đối tượng sau khi khai thác được lại có tính chất mau
hư hỏng và ươn thối, dẫn đến sản xuất thủy sản phải tiến hành khép kín từ khâu đầu
vào đến khâu đầu ra hay từ khai thác, nuôi trồng cho đến việc chế biến, kinh doanh
tiêu thụ sản phảm và đầu tư tái tạo nguồn lợi. Do đó, việc tổ chức và quản lý ngành
thủy sản mang tính chất đa dạng và phức tạp nhằm phù hợp với phương hướng chung
trong việc phát triển ngành, đó là khép kín các khâu chuyên môn hóa kết hợp với kinh
doanh tổng hợp theo cơ chế phát triển ngành.
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
14
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
Ngành thủy sản là một ngành sản xuất vật chất mang tính mùa vụ
Do sự tác động của điều kiện tự nhiên, môi trường sống và tập tính sống của
các đối tượng, các chủng loại động thực vật làm cho các yếu tố sản xuất trong ngành
thủy sản không sử dụng hết thời gian trong năm. Vì vậy công tác tổ chức cần áp dụng
nhiều biện pháp khác nhau về kinh tế và tổ chức kỹ thuật để giảm bớt tính bất lợi này.
2.1.3. Quá trình phát triển
Trong những năm gần đây, ngành Thủy sản là một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn của Việt Nam. Giá trị ngoại tệ xuất khẩu của ngành Thủy sản đóng góp vào
sự tăng trưởng nền kinh tế quốc dân chiếm tỷ trọng cao và đang trên đà phát triển
mạnh với sự ổn định lâu dài. Tỷ trọng của ngành Thủy sản trong khối Nông – Lâm –
Ngư nghiệp và trong nền kinh tế quốc luôn tăng qua các năm và trở thành ngành quan
trọng trong sự phát triển của Việt Nam. Ngành Thủy sản góp phần tăng trưởng kinh tế,
chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nông thôn, xóa đói giảm nghèo, tạo nhiều công ăn việc
làm cho người lao động. Bên cạnh đó, ngành Thủy sản thúc đẩy và cải thiện cuộc sống
của người dân ở các vùng ven biển, vùng núi, trung du và Tây nguyên. Đặc biệt, ngành
Thủy sản góp phần đảm bảo chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Tuy nhiên, từ lúc ra đời cho đến những năm giữa thế kỷ trước, nghề cá Việt
Nam vẫn là một loại hình hoạt động kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, trình độ sản xuất
còn lạc hậu và thủ công. Nhưng kể từ năm 1950, Đảng và Nhà nước ta thấy được tầm
quan trọng, sự đóng góp ngày càng lớn của nghề cá Việt Nam cho nền kinh tế quốc
dân, cho thấy một cách nhìn mới về nghề cá. Quá trình phát triển ngành Thủy sản có
thể chia thành 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1954 – 1960
Kinh tế Thủy sản được chăm lo hơn và dần hình thành phát triển như một
ngành kinh tế – kỹ thuật. Đây cũng là giai đoạn mà nền kinh tế miền Bắc được dần
khôi phục và phát triển. Với sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức
nghề cá công nghiệp (Hạ Long, Việt – Đức, Việt – Trung), nhà máy cá hộp Hạ Long
được thành lập.
Giai đoạn 1960 – 1980
-
Từ năm 1960 – 1975: Việc thành lập Tổng cục Thủy sản (1960) đã đánh dấu vị trí của
ngành Thủy sản như một chỉnh thể của ngành kinh tế – kỹ thuật. Tuy nhiên,vào giai
đoạn này, ngành Thủy sản phải đối mặt với nhiều khó khăn bởi đây cũng chính là giai
đoạn đất nước có chiến tranh, đòi hỏi sự kết hợp của ngư dân biển nói riêng và cả nước
nói chung cùng nhau thực hiện nhiệm vụ “Xây dựng miền Bắc và đánh giặc Mỹ giải
phóng miền Nam”.
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
15
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
-
Từ năm 1976 – 1980: Đất nước thống nhất tạo một bước tiến để ngành Thủy sản phát
triển trên rộng khắp cả nước với sự thành lập Bộ Hải sản (1976) cùng với việc thực
hiện 10 năm Di chúc của Bác Hồ. Ngành Thủy sản nhận được nhiều tác dụng rất lớn.
Tuy nhiên, kinh tế thủy sản vẫn giảm sút do hậu quả nặng nề từ chiến tranh, nền kinh
tế đang trong quá trình khôi phục và do cơ chế quản lý chưa phù hợp nên làm giảm
động lực thúc đẩy sản xuất thủy sản.
Giai đoạn 1981 đến nay
Bộ Hải sản được tổ chức lại thành Bộ Thủy sản (1981). Ngành Thủy sản bước
sang một giai đoạn hoàn toàn mới – giai đoạn phát triển toàn diện về mọi mặt từ khai
thác, nuôi trồng, hậu cần dịch vụ, chế biến và xuất khẩu. Đồng thời, ngành còn đẩy
mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất đến việc mở
rộng hợp tác quốc tế để thúc đẩy sự tăng trưởng.
Năm 1981, sự ra đời của Công ty xuất nhập khẩu thủy sản Seaprdex Việt Nam
và áp dụng cơ thế “tự cân đối, tự trang trải” đã tạo nguồn động lực mới cho sự phát
triển ngành Thủy sản. Vì vậy, ngành Thủy Sản được coi là ngành tiên phong đầu tiên
trong quá trình đổi mới, tạo ra bước ngoặc cho sự tăng trưởng phát triển của kinh tế
Thủy sản trong thời gian qua.
Năm 1993, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khoá VII đã
xác định xây dựng Thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ trong sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực, mở rộng quy mô,… tạo nguồn thu
lớn cho Ngân sách nhà nước.
Trong những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, nhờ áp dụng các giải pháp
đúng đắn, ngành Thủy sản đã thu được nhiều thành tựu đáng kể: Năm 1990, tổng sản
lượng thủy sản vượt mức 1 triệu tấn, và đạt 2 triệu tấn (2000), 3 triệu tấn (2004), vượt
mức 4 triệu tấn (2007). Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu đã vượt qua mức 500 triệu
USD, vượt ngưỡng 1 tỷ USD (2000), đạt 2 tỷ USD (2002), trên 3 tỷ USD (2006), vượt
mức 4 tỷ USD, đạt 4,5 tỷ USD (2008).
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
16
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
(Nguồn: Tổng cục Hải quan và Hiệp hội chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
Hình 2.1: Hiệu quả xuất khẩu thủy sản Việt Nam giai đoạn 1996 – 2014
Thực tế cho thấy, xuất khẩu thủy sản trong suốt giai đoạn 1995 – 2014 vẫn phát
triển theo chiều rộng (gia tăng sản lượng xuất khẩu để tăng giá trị xuất khẩu). Kết quả
cho thấy, bình quân giai đoạn 1995 – 2014 trong 100% phần tăng thêm của giá trị kim
ngạch xuất khẩu có đêns 64,27% là do yếu tố tăng sản lượng xuất khẩu tạo ra, yếu tố
giá chỉ chiếm có 35,73%. Cụ thể các năm kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc 100% vào
tăng sản lượng xuất khẩu là năm 2001, 2002, 2004, 2005, 2006, 2007, 2012 (trong
100% phần tăng thêm của kim ngạch xuất khẩu thủy sản có đến 100% là do yếu tố
tăng sản lượng tạo ra, yếu tố giá không có tác động đến sự gia tăng kim ngạch xuất
khẩu trong những năm này); Các năm 1996, 1997, 1998, 2009, 2011 trong 100% phần
tăng lên của kim ngạch xuất khẩu có đến 75% là do yếu tố giá tạo ra, còn lại dưới 25%
là do yếu tố sản lượng hình thành. Riêng năm 2009, mặc dù sản lượng và kim ngạch
xuất khẩu có giảm so với năm trước do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu kéo theo nhu cầu tiêu thụ ở các thị trường giảm. Tuy nhiên đây lại là năm cho hiệu
quả giá trị xuất cao nhất trong 100% phần tăng thêm của giá trị kim ngạch xuất khẩu
cpó đến 100% là do yếu tố giá tạo ra (giá xuất khẩu bình quân tăng trong năm 2009 đã
tạo đà cho việc tăng giá xuất khẩu bình quân cho các năm trong giai đoạn 2010 –
2014) và có xu hướng tăng trong thời gian tới. Cho thấy sự tăng trưởng ổn định của
ngành thủy sản cũng như giữ một vị thế quan trọng.
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
17
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
(Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả)
Hình 2.2: Tổng tài sản của các doanh nghiệp ngành thủy sản 2010 – 2014
Có thể thấy tình hình tổng tài sản của các doanh nghiệp ngành thủy sản luôn
tăng qua các năm và đạt giá trị lớn nhất vào năm 2014 với 29.661.974 triệu đồng tăng
1.850.266 triệu đồng so với năm 2013, tăng 7.067.732 triệu đồng so với năm 2012,
tăng 8.068.821 triệu đồng so với năm 2011 và tăng 9.980.647 triệu đồng so với năm
2010, tương ứng tăng 6,65% (2013), 31,28% (2012), 37,37% (2011) và tăng 50,71%
(2010). Điều này cho thấy các doanh nghiệp ngành thủy sản không ngừng mở rộng sản
xuất kinh doanh và đầu tư thông qua việc gia tăng giá trị tổng tài sản trong quá trình
hoạt động kinh doanh góp phần thúc đẩy quá trình phát triển tình hình tài chính của
doanh nghiệp, cùng với đó việc gia tăng giá trị tổng tài sản sẽ giúp việc vận hành trơn
chu của bộ máy sản xuất trong doanh nghiệp.
(Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả)
Hình 2.3: Tổng doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp ngành thủy sản giai
đoạn 2010 – 2014
Từ kết quả trên có thể thấy được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp diễn
ra tương đối hiệu quả thể hiện thông qua việc nguồn doanh thu qua các năm luôn tăng,
trong đó doanh thu cao nhất là năm 2014 với 40.600.885 triệu đồng, tuy nhiên năm
2012 doanh thu có sự sụt giảm nhưng sự sụt giảm này là không đáng kể. Với những số
liệu trên có thể đánh giá được các doanh nghiệp đã không ngừng mở rộng các mối
quan hệ trong và ngoài nước, thực hiện thúc đẩy quá trình hoạt động để đảm bảo cho
việc vận hành trơn tru của thị trường. Tuy nhiện lợi nhuận mà các doanh nghiệp mang
lại là chưa thực sự hiệu quả, trong đó lợi nhuận từ năm 2012 đến năm 2014 luôn giảm,
đặc biệt năm 2014 là giảm mạnh nhất chỉ đạt 283.384 triệu đồng, một con số khá nhỏ,
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lợi nhuận giảm từ năm 2012 là do sự tăng giá nguyên
liệu đầu vào, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ suất lợi nhuận của các công ty khi mà tỷ lệ
chi phí sản xuất là rất lớn chiếm 70% – 80%. Đặc biệt trong tình trạng thiếu nguồn
cung trong nước, các doanh nghiệp đã phải nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, điều này
làm cho chi phí ngày càng đẩy lên cao nên mặc dù doanh thu mà các doanh nghiệp
mang lại là khá lớn nhưng lợi nhuận thì tương đối thấp.
2.1.4. Sự đóng góp và vai trò của ngành thủy sản
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
18
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
Sự đóng góp của ngành thủy sản
Với sự tăng trưởng nhanh và hiệu quả, ngành Thủy sản đã đóng góp tích cực
trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đóng góp hiệu quả cho công
cuộc xóa đói, giảm nghèo. Ngoài ra, ngành Thủy sản còn giải quyết việc làm cho
trên 4 triệu lao động, nâng cao đời sống cho cộng đồng dân cư ở các vùng ven biển…,
đồng thời góp phần quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc phòng trên vùng biển đảo
của Tổ quốc. Mặc dù, giá trị xuất khẩu năm 2015 đạt 6,7 tỷ USD, nhìn chung giảm so
với 2014 (do thị trường tiêu thụ kém, giá xuất khẩu hạ và biến động giảm giá của các
đồng ngoại tệ so với USD đã tác động mạnh đến xuất khẩu thủy sản Việt Nam, và chịu
ảnh hưởng sâu nhất là mặt hàng tôm. Xuất khẩu tôm liên tục giảm 25 – 30%, riêng mặt
hàng cá biển tăng 5%, xuất khẩu tất cả các sản phẩm chính khác đều giảm từ 3 – 25%.
Xuất khẩu sang các thị trường đều giảm 3 – 27%, riêng ASEAN tăng 8%), nhưng giá
trị xuất khẩu ngành thủy sản đã đóng góp vào sự tăng trưởng chung của tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) lại tăng hơn so với năm ngoái cụ thể là năm 2015 tăng 6,68%, trong
đó quý I tăng 6,12%, quý II tăng 6,47%, quý III tăng 6,87%, quý IV tăng 7,01%.
Trong mức tăng trưởng chung 6,68% của toàn nền kinh tế, khu vực nông – lâm – ngư
nghiệp tăng 2,41% đóng góp 0,4 điểm phần trăm. Trong khu vực nông – lâm – ngư
nghiệp, Ngành thủy sản tăng 2,80%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm.
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Hình 2.4: Tăng trưởng và cấu trúc tăng trưởng theo ngành kinh tế
Theo nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng của
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam bình quân giai đoạn năm 1991 – 1995
đạt 8,2%; giai đoạn 1996 – 2000 đạt 7,0%; giai đoạn 2001 – 2005 đạt 7,5% và giai
đoạn 2006 – 2010 đạt 6,32%. Tính bình quân giai đoạn 1991 – 2011, tốc độ tăng
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
19
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
trưởng nền kinh tế đạt trên 7,1%/năm, được đánh giá là tốc độ tăng trưởng cao và ổn
định so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Giai đoạn 2011 – 2014, mức tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) luôn thấp hơn 7% (năm 2011: 6,24%; năm
2012: 5,25%; năm 2013: 5,42%) và năm 2014 là 5,82% cao hơn mức tăng trưởng của
năm 2012 và năm 2013, cho thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh tế.
Vai trò của ngành thủy sản
Ngành thủy sản có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất, mở rộng
nền kinh tế quốc dân. Vai trò của ngành thủy sản được thể hiện qua các mặt như sau:
-
Ngành thủy sản là một ngành sản xuất quan trọng cung cấp thực phẩm cho nhu cầu đời
sống của con người. Lương thực thực phẩm nói chung và thực phẩm thủy sản nói riêng
là điều kiện thiết yếu để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống con người. Cho nên
phát triển ngành lương thực thực phẩm và ngành thủy sản sẽ cho phép đảm bảo sức
khỏe cho con người, từ đó nâng cao năng suất lao động. Ngoài những đặc điểm chung
thì còn có những đặc điểm riêng thể hiện ưu thế của ngành đó là: sản phẩm thủy sản có
khẩu vị ngon, dễ chế biến, thành phần chất đạm cao, ít mỡ, giàu chất khoáng, dễ tiêu
hóa nên xu hướng chung là các mặt hàng thủy sản ngày càng được qua chuộng. So với
một số sản phẩm khác như thịt bò, thịt lợn, thịt gà, trứng,… thì sản phẩm thủy sản nhìn
chung là có ưu thế hơn về phẩm chất và ngày càng trở thành loại thực phẩm có nhu
cầu cao trên toàn thế giới.
-
Ngành thủy sản còn là một ngành cung cấp thức ăn gia súc quan trọng. Bột cá dùng để
chế biến thức ăn gia súc phục vụ chăn nuôi lấy từ phế liệu, phế phẩm trong các ngành
sản xuất thủy sản, đây là nguồn thức ăn giàu chất đạm làm cho gia súc tăng trưởng
nhanh, sinh sản nhiều, tạo điều kiện phát triển các ngành sản xuất thực phẩm khác. Ở
nước ta hiện nay, hàng năm các nhà máy chế biến thủy sản sản xuất khoảng trên
40.000 tấn bột cá cung cấp cho các cơ sở chế biến thức ăn gia súc, nuôi trồng thủy sản.
-
Ngành thủy sản còn là một ngành cung cấp nguyên liệu cho các ngành khác. Ngoài
việc cung cấp thực phẩm cho con ngƣời và thức ăn gia súc thì các nguyên liệu thủy
sản, trong đó có nhiều loại: giáp xác, nhuyễn thể, rong câu,… cung cấp nguyên liệu
cho các ngành khác như dược phẩm, hóa chất, thủ công mỹ nghệ… Ngành thủy sản là
ngành giữ vị trí quan trọng trong ngoại thương, góp phần tích lũy của cải để nước ta
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xuất khẩu thủy sản nước ta hiện nay
nằm trong số 15 nước xuất khẩu thủy sản chủ yếu của thế giới, sản phẩm thủy sản của
nước ta đã có mặt trên 50 nước.
-
Ngành thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm, nâng
cao thu nhập cho ngư dân và cộng đồng dân cư sống ven biển nói riêng và người lao
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
20
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
động nói chung. Ngành thủy sản đã thu hút một lực lượng lao động khá lớn trong
ngành khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ gián tiếp khác của hoạt động thủy sản.
Không những thế, ngành thủy sản ngày càng khẳng định được vai trò của mình
trong việc đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, tăng trưởng nền kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn, gắn nghề cá nói riêng và nông – lâm – ngư nghiệp
nói chung với công nghiệp và giao thông vận tải hình thành một cơ cấu kinh tế thống
nhất. Đặc biệt ngành thủy sản là một trong nguồn xuất khẩu quan trọng của Việt Nam,
là phương tiện có hiệu quả để tích lũy vốn, giúp đảm bảo chủ quyền quốc gia, an ninh
quốc phòng.
2.1.5. Cơ hội và thách thức của ngành thủy sản trong bối cảnh hội nhập
2.1.5.1. Cơ hội
Chính thức trở thành thành viên của TPP đã mở ra bước ngoặc đáng kể cho
ngành thủy sản Việt Nam. Vì khi đó thuế nhập khẩu của các nước thành viên TPP sẽ
giảm xuống 0%, lợi ích mà TPP mang lại là rất lớn cho việc xuất – nhập khẩu của Việt
Nam. Khi tham gia TPP, ngành thủy sản Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để giải quyết các
tranh chấp về chống bán phá giá tôm và cá tra, chống trợ cấp, chương trình giám sát cá
da trơn ở Mỹ được công bằng hơn; giúp tăng sức cạnh tranh của nhiều mặt hàng thủy
sản Việt Nam trên thị trường Nhật Bản, trong đó mặt hàng tôm có khả năng cạnh tranh
cao nhất. Ngoài ra, ngành thủy sản Việt Nam còn có được thuận lợi hơn trong nhập
khẩu nguyên liệu cá ngừ để phục vụ chế biến xuất khẩu, giúp Việt Nam tăng khả năng
cạnh tranh cũng như đẩy mạnh xuất khẩu cá ngừ; tăng khả năng cạnh tranh về giá với
các đối thủ (Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia) xuất khẩu sang các nước
thành viên TPP. Đặc biệt là mặt hàng tôm xuất khẩu sang Nhật Bản và mặt hàng cá
ngừ trước 2 đối thủ Thái Lan và Philippines. Mặc khác khi tham gia TPP vấn đề về
chất lượng của ngành thủy sản cũng được gia tăng do sự cạnh tranh về chất lượng và
an toàn vệ sinh thực phẩm.
2.1.5.2. Thách thức
Bên cạnh nhưng cơ hội, TPP cũng mang lại nhiều thách thức cho ngành thủy
sản Việt Nam phải kể đến đó là sự bảo hộ thương mại tức là sự cạnh tranh về giá thành
các mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu, quy tắc xuất xứ, quy mô, chất lượng và nguồn
nhân lực phục vụ cho sản xuất chưa thể sánh kịp với các nước thành viên khác trong
TPP. Đặc biệt là khi gỡ bỏ hàng rào thuế quan, ngành thủy sản Việt Nam cần phải đối
mặt với những hàng rào phi thuế quan khác dựng lên nhằm bảo hộ sản xuất thủy sản
trong nước như yêu cầu về an toàn thực phẩm ngày càng khắt khe hơn, hay sự kiện
chống bán phá giá, chống trợ cấp, các quy định kiểm tra hóa chất, kháng sinh,… đây
cũng chính là trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
21
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
Nếu muốn ngành thủy sản Việt Nam phát triển và cạnh tranh được với các nước khác
thì buộc nhà nước cũng như các doanh nghiệp ngành thủy sản Việt Nam phải khắc
phục điểm yếu, sử dụng thế mạnh để đón đầu thách thức.
2.2. Các khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
2.2.1.
Định nghĩa, ý nghĩa
Thanh khoản là khả năng tiếp cận các tài sản hoặc nguồn vốn có thể dùng để
chi trả với chi phí hợp lý ngay khi nhu cầu vốn phát sinh. Thanh khoản đại diện cho
khả năng thực hiện tất cả các nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn. Do thực hiện bằng tiền
mặt, thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền tệ, việc không thể thực
hiện nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến tình trạng thiếu thanh khoản.
Thanh khoản rất quan trọng trong phân tích báo cáo tài chính vì thanh khoản
chính là số tiền hoặc các khoản tương đương tiền mà một công ty đang nắm giữ hoặc
các tài sản mà công ty có thể chuyển đổi thành tiền trong một thời gian ngắn.
Thanh khoản cũng liên quan đến khả năng một công ty thực hiện các nghĩa vụ
của mình khi đến hạn. Nhiều công ty có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt
cũng có thể rơi vào những khó khăn nghiêm trọng do tính thanh khoản. Một nguồn
vốn được coi là có tính thanh khoản cao khi chi phí huy động vốn thấp và thời gian thu
hồi vốn nhanh và một tài sản được gọi là có tính thanh khoản cao khi đáp ứng được
các chỉ tiêu sau: có sẳn lượng để mua hoặc bán (the right amount id available); có sẵn
thị trường giao dịch (at the right location); có sẵn thời gian giao dịch (at the right time)
và giá cả hợp lý (at the right price).
Khả năng thanh khoản là tỷ số đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của
công ty. Các tỷ số thường được dùng để đánh giá khả năng thanh khoản là: tỷ số thanh
toán hiện hành (current ratio), tỷ số thanh toán nhanh (quick ratio), tỷ lệ tiền mặt (cash
ratio). Tầm quan trọng của khả năng thanh khoản được đánh giá bằng việc xem xét
hậu quả khi công ty không có khả năng thanh toán nợ trong ngắn hạn (Nguyễn Minh
Kiều, 2012).
Việc thiếu khả năng thanh khoản làm cho công ty mất đi cơ hội nhận được các
khoản chiết khấu ưu đãi hay cơ hội kiếm thêm lợi nhuận. Đồng thời, thanh khoản gặp
khó khăn cũng khiến cho khả năng điều hành bị hạn chế. Việc mất khả năng thanh
khoản còn có thể dẫn đến việc công ty phải bán đi các dự án đầu tư, tài sản, huy động
vốn với chi phí cao và tình trạng xấu nhất là phá sản. Bên cạnh đó, thanh khoản giúp
doanh nghiệp linh hoạt và có được các lợi thế khi điều kiện thị trường thay đổi và ứng
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
22
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
phó được với những chiến lược của các công ty cạnh tranh (Brigham và Houston,
2003).
Tuy nhiên một số nghiên cứu khác lại cho rằng thuật ngữ "tính thanh khoản" có
thể được hiểu theo 3 cách. Thứ nhất, dùng để chỉ khả năng chuyển thành tiền của tài
sản nhằm trang trải các khoản nợ và nghĩa vụ ngắn hạn. Để làm được việc này, doanh
nghiệp cần phải sở hữu các tài sản có tính thanh khoản, đó là tiền mặt và tương đương
tiền (bao gồm, cổ phiếu blue-chip và các chứng khoán trên thị trường tiền tệ ví dụ trái
phiếu chính phủ). Các tài sản có tính thanh khoản phải đảm bảo có thể được mua bán
trên thị trường nhanh chóng mà không ảnh hưởng đến giá cả, tức là giá giao dịch
không bị chênh lệch quá nhiều so với giá gốc. Tất nhiên, các nhà đầu tư yêu thích đầu
tư vào các tài sản có tính thanh khoản cao vì họ có thể dễ dàng rút khỏi vụ đầu tư và
lấy lại khoản đầu tư của mình (kèm theo cả lãi hoặc nếu là lỗ thì số tiền bị mất cũng
không đáng kể). Thứ hai, tính thanh khoản chỉ khả năng trả nợ của doanh nghiệp khi
đến hạn. Và, thứ ba, tính thanh khoản liên quan đến khả năng vận hành trơn tru của thị
trường xét về khía cạnh các giao dịch mua và bán.
Như Crockett (2008) định nghĩa thực nghiệm về vai trò của tính thanh khoản:
“Tính thanh khoản dễ nhận ra hơn là định nghĩa nó”. Định nghĩa thanh khoản mang
tính trừu tượng và đòi hỏi sự tư duy cao. Theo dòng lịch sử, thanh khoản đã song hành
với sự phát triển của khái niệm tiền tệ và đã thay đổi theo quá trình mở rộng tài chính,
trong một phạm vi rộng hơn, nó thay đổi theo sự cải tiến trong cấu trúc và chức năng
của hệ thống tài chính. Trong phần này chúng ta sẽ cùng điểm qua những định nghĩa
và khái niệm mà các nhà kinh tế học đã đưa ra về tính thanh khoản và qua đó cũng
chứng minh một điều rằng, tính thanh khoản ngày nay đã phát triển phức tạp hơn rất
nhiều.
Lý thuyết tài chính cho rằng, với những bất hoàn hảo của thị trường vốn, dịch
chuyển nguồn vốn giữa những thành phần kinh tế trong một khoảng thời gian yêu cầu
một lượng tài sản tài chính phi rủi ro thích hợp trong nền kinh tế: để lưu giữ giá trị và
là công cụ trao đổi được đông đảo những người tham gia trên thị trường chấp nhận. Đó
chính là định nghĩa tiền giấy hay tiền pháp định, tiền vừa đảm nhiệm chức năng là đơn
vị hạch toán, vừa giữ chức năng là trung gian trao đổi. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập
đến một dạng thanh khoản truyền thống và đơn sơ nhất là thanh khoản tài sản.
Khái niệm này có thể nói là quen thuộc và được chấp nhận phổ biến nhất “Tiền
là tài sản có tính thanh khoản cao nhất nên tiền cũng được lựa chọn làm thước đo cho
khả năng thanh khoản của các tài sản khác”.
Lý thuyết tài chính cũng lý giải vai trò của các ngân hàng thương mại như là
những nhà cung cấp tính thanh khoản: bởi chức năng trợ cấp những khoản vay hoặc
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
23
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
nắm giữ những chứng khoán nợ sơ cấp được phát hành bởi các thành phần kinh tế có
nhu cầu được cung cấp thêm vốn, bởi chức năng tập trung nguồn vốn từ những nhà
đầu tư bằng cách phát hành “chứng khoán nợ gián tiếp”. Do sự phát triển lớn mạnh và
nhất là những đặc tính trong hợp đồng của các chứng khoán nợ này, chúng được cân
nhắc và chấp nhận chung như là một sự thay thế, trong hầu hết các mối quan hệ, cho
cơ sở tiền tệ hợp pháp. Điều này đã dẫn dắt đến định nghĩa của khái niệm thanh khoản
ngân hàng, thanh khoản ngân hàng bao gồm cả khả năng ngay lập tức của ngân hàng
và tính thanh khoản được cung cấp từ phát hành dòng tín dụng.
Rủi ro thanh khoản ngân hàng vì thế liên kết cả với khả năng đáp ứng nghĩa vụ
của ngân hàng đối với người gửi tiền ở ngân hàng họ cũng như việc chuyển tiền gửi
thành tiền mặt khi cần thiết (bằng cách rút bớt “drawing-down” dòng tín dụng) và
chức năng duy trì sự cân bằng giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra. Những dòng tiền
này được quản lý dưới sự điều hành và kiểm soát của ngân hàng trung ương, nó bảo
đảm tính có sẵn của cơ sở tiền tệ cần thiết để giữ vững sự phát triển của tiền ngân
hàng. Ngân hàng trung ương cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra và làm
mạnh thêm cơ sở hạ tầng cần thiết để ổn định hệ thống tài chính.
Trong suốt những thập niên gần đây, sự phát triển nhanh chóng của thị trường
tài chính, đặc biệt là sự trưởng thành trong vai trò của thị trường chứng khoán thứ cấp
đã tạo nên sự mở rộng hình ảnh của tài sản tài chính, bao gồm cả định nghĩa của thanh
khoản. Do đó, chúng ta đang chứng kiến sự tiếp nhận một khái niệm mới là thanh
khoản thị trường, mức độ thanh khoản này được định trên cơ sở một số đặc điểm hoạt
động liên quan đến thị trường chứng khoán như sau (Bervas, 2006):
o Chi phí giao dịch được đo lường bởi thời gian chào bán – mua của giao dịch chứng
khoán.
o Chiều sâu thị trường, tức là khối lượng giao dịch có thể thực hiện ngay lập tức mà
không có sự thay đổi của giá giới hạn.
o Khả năng hồi phục của thị trường, nghĩa là tốc độ mà giá cả có thể trở lại trạng thái
cân bằng của nó sau một cú sốc ngẫu nhiên trong dòng giao dịch.
Những đặc điểm đã kể trên của thanh khoản thị trường được thể hiện đầy đủ
trong những thị trường có tổ chức, nơi giao dịch những tài sản tài chính đúng chuẩn
được phát hành rộng rãi, nơi đảm bảo sự công bằng cho nhà đầu tư, hứa hẹn cung cấp
cho họ những thông tin chính xác về tài sản giao dịch và nhà phát hành.
Định nghĩa thanh khoản thị trường nhấn mạnh rõ ràng sự thay đổi đã diễn ra
trong rủi ro thanh khoản, giờ đây rủi ro thanh khoản còn liên hệ chặt chẽ với khả năng
xây dựng quỹ tiền tệ theo mong muốn của các nhà đầu tư tổ chức cũng như cá nhân,
những người tham gia trên thị trường tài chính nói chung luôn có thể điều chỉnh quỹ
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
24
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi
Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản
tiền tệ của mình bằng cách bán tài sản tài chính đang có trong danh mục hoặc phát
hành thêm công cụ tài chính mới (hoặc kết hợp cả hai). Những thay đổi trong dòng
tiền liên quan đến việc mua bán tài sản tài chính này có khi sẽ làm nguy hại đến tổng
tài sản tài chính, giá trị đạt được thực tế khác với giá trị kỳ vọng: rủi ro thanh khoản
quỹ. Đây là một dạng rủi ro có quan hệ mật thiết với rủi ro thanh khoản thị trường và
được các nhà đầu tư rất quan tâm.
Vậy đến đây, chúng ta có thể nhìn thấy sự mở rộng khái niệm thanh khoản diễn
ra đến mức độ nào? Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống tài chính đã hỗ trợ cho
việc chứng khoán hóa những tài sản tài chính không được giao dịch chính thức, chẳng
hạn như những khoản vay ngân hàng, điều đó đã dẫn đến sự kỳ vọng của những cá
nhân và tổ chức tham gia trên thị trường rằng họ có thể trang trải nhu cầu thanh khoản
của mình bằng cách tạo nên những tài sản tài chính mới, hoặc sắp xếp những tài sản tài
chính họ đang nắm giữ. Khả năng chuyển giao tài sản được cân nhắc như là tương
đương với khả năng bán tài sản, chuyển nó thành tiền, một cách nhanh chóng tại mức
chi phí giao dịch thấp và một mức ảnh hưởng không đáng kể lên giá cả của tài sản đó.
Trong quan điểm của những người tham gia trên thị trường, thanh khoản không
còn giới hạn trong cơ sở tiền tệ và những khoản tiền gửi ngay lập tức của ngân hàng,
mà còn bao gồm thị trường tài chính trong tổng số. Do đó định nghĩa theo Tirole
(2008) “một tài sản cung cấp tính thanh khoản cho thế giới nếu nó có thể được sử dụng
như là một tấm đệm nhằm đáp ứng các nhu cầu” giờ đây đang được biểu hiện bởi một
tập hợp tín dụng/tiền tệ rộng hơn và theo một vài tác giả (Adrian và Shin, 2007), tính
thanh khoản thực sự gồm tất cả tài sản trong bảng cân đối của các trung gian tài chính.
2.2.2.
Các yếu tố cấu thành nên thanh khoản doanh nghiệp
Dựa trên một số nghiên cứu và các tài liệu có liên quan có thể rút ra kết luận
rằng các yếu tố cấu thành nên thanh khoản của doanh nghiệp bao gồm tài sản ngắn hạn
(TSNH) và tài sản dài hạn (TSDH).
Tài sản ngắn hạn
1. Tiền
GVHD: Đặng Bửu Kiếm
25
SVTH: Lê Nguyễn Long Nhi