MUC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................1
Chương 1. C ơ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI CHÍNH
TRỊ CỦA N.MACHIAVELLI........................................................................ 8
1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội, chính trị và tư tưởng của sự hình thành tư tưởng
về con người chính trị của N.Machiavelli...................................................... 8
1.1.1. Cơ sở thực tiễn ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng con người
chính trị của N.Machiavelli......................................................................... 8
1.1.2. Cơ sở lý luận ảnh hưởng đến tư tưởng về con người chính trị của
N.Machiavelli............................................................................................ 17
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của N.Machiavelli.......................................... 25
1.2.1. Cuộc đời N.Machiavelli..................................................................26
1.2.2. Sự nghiệp của N.Machiavelli...................................................... 29
1.3. Tác phẩm “Quân vương”....................................................................... 33
1.3.1. Giới thiệu tác phẩm......................................................................... 33
1.3.2. Bố cục tác phẩm ........................................................................... 35
Chương 2. NỘI DUNG TU TƯỞNG CON NGƯỜI CHÍNH TRỊ TRONG
TÁC PHẨM QUÂN VƯƠNG....................................................................... 39
2.1. Tư tưởng về thủ lĩnh chính trị.............................................................. 39
2.2. Tư tưởng về quan lại và quân s ư ......................................................... 58
2.3. Tư tưởng về tu sĩ....................................................................................60
2.4. Tư tưởng về nhân d ân ........................................................................... 62
r
2.5. Giá trị và hạn chê của tư tưởng con người chính trị của N.Machiavelli.....69
2.5.1. Giá trị về tư tưởng con người chính trị của N.Machiavelli trong
chính tri học............................................................................................... 69
2.5.2. Hạn chế trong tư tưởng con người chính trị của N.Machiavelli đối
với lịch sử chính trị....................................................................................72
KÉT LUẬN..................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 78
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính trị là loại lĩnh vực đặc biệt của các xã hội có giai cấp, có quan hệ
đến lợi ích của hàng triệu thành viên trong cộng đồng xã hội. Chính trị là khái
niệm có nội hàm và phạm vi rất rộng, nó hiện diện, bao trùm hầu như trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, sự vận hành của đời sống chính
trị đều được thực hiện qua hoạt động của nhân tố con người với tư cách là chủ
thể của chính trị. Nói cách khác một nền chính trị thể nào, phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có yểu tố con người. Chính vi lẽ đó con người chính trị đã trở
thành chủ đề xuyên xuất trong lịch sử tu tưởng chính trị, một mặt vi mục tiêu
nhận thức, mặt khác và quan trọng hơn là hướng đến giải bài toán hình thành
mẫu con người chính trị tương thích, “con người chính trị” là bộ phận quan
trọng trong đời sống chính trị, là nhân tố cấu thành nên hệ thống chính tri. Khi
xã hội có giai cấp là có chính trị, mọi hoạt động của con người đều có quan hệ
đến chính trị và đều bi chi phối bởi chính trị.
Trong lịch sử cũng như hiện đại, con người chính trị đã được các nhà tư
tưởng, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu khá sâu sắc ở từng góc độ, khia
cạnh khác nhau. Ngay từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại, các nhà tư tưởng, chính
trị đã có những quan điểm về con người chính tri. Arixtốt cho rằng, con người
là động vật chính trị. Nhưng thực chất đó là quan niệm về những con người
làm việc trong bộ máy cai trị của Nhà nước, là những người ưu tú trong xã
hội, những người thông thái.
Thời trung cổ ở Phương Tây, các nhà tư tưởng chính trị đã kế tục và
tiến hóa, phát triển tư tưởng chính trị của các quan điểm trước đó. Con người
chính tri theo
s. Ôguyt xtanh và To mat Đacanh là con người cầm quyền, họ
có bổn phận là phục vụ nhân dân, chỉ huy theo pháp luật đạo đức, lấy công
bằng làm gốc, lấy thiện làm ngọn. Con người chính trị được phân làm ba cấp:
1
Một người chỉ huy đứng đâu nhà nước, các đoàn pháp quan trung gian tham
gia vào công việc hành chính và tất cả công dân tham gia vào chủ quyền như
là những người bầu cử.
Tác phẩm quân vương là dấu mốc quan trọng của sự phát triển lý luận
chính trị học, trong đó có lý luận về con người chính trị, bởi nó đặt nền tảng
gần gũi nhất cho chính trị học hiện đại. Ông đã đưa ra quan niệm về con
người chính trị của mình trong mối quan hệ Quân vương - thủ lĩnh chính trị;
quan lai, quân sư; giới tu sĩ và quần chúng nhân dân. Nổi bật rõ nét nhất là
thông qua tác phẩm Quân vương, một tác phẩm bất hủ đến nay vẫn còn
nguyên giá trị. Và giá trị ở chỗ “Người ta sẽ luôn đọc Quân vương chừng nào
con người vẫn chưa thôi trò chơi nguy hiểm nhưng hấp dẫn có cái tên là chính
trị” [Tr. 29, Quân vương]. Những điều Machiavelli viết trong tác phẩm này có
thể làm say mê bất kỳ ai, từ những bậc quân vương, những chính khách, những
nhà hành pháp cho tới những người dân bình thường nhất vi Quân vương
không chỉ là một cuốn sách về các biện pháp chính trị, ngoại giao mà còn là
một cuốn sách về con người.
N.Machiavelli (1469 - 1527) là một nhà chính trị thực tiễn, nhà tư
tưởng vĩ đại của Italia thế kỷ XV- XVI. Đó là con người có trí tuệ uyên bác,
kinh nghiệm hoạt động chính trị phong phú và trên tất cả là nồi khát khao
cháy bỏng cho sự nghiệp thong nhất Italia. Và trên những thôi thúc đó tác
phẩm Quân vương đã ra đời. Ngay từ khi ra đời tác phẩm đã thu hút sự quan
tâm chú ý của nhiều độc giả, nhiều nhà nghiên cứu, nhiều chính khách trong
các thời đại lịch sử.
Nói đến tác phẩm Quân vương là thấy được sự hiện diện nối bật hình
tượng Quân vương - Vua, lãnh chúa, mà ngày nay chúng ta gọi là thủ lĩnh chính
trị, cùng với các mối quan hệ với quan lại, quân sư, giới tu sĩ và tầng lóp nhân
dân, được gọi chung là con người chính tri trong tác phẩm khá rõ nét.
2
Quân vương được đánh giá là một tác phẩm kinh điển của chính trị học
hiện đại và với ý nghĩa đó tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt trong di sản tư tưởng
chính tri nhân loại.
Tác phẩm Quân vương của Machiavelli đã trình bày một cách toàn diện
và sâu sắc những quan niệm về vấn đề Quân vương nói riêng và về con người
chính trị nói chung. Nó góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ quân vương - quan
lại, giới tu sĩ và tầng lớp nhân dân. Đồng thời cũng đưa ra những giải pháp
chính trị, tư duy chính trị và những phẩm chất chính trị cần có của con người
chính trị nói chung hay bậc quân vương nói riêng.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, và hàng loạt các vấn đề quốc tế nảy
sinh đặt chính trị học và nhiều ngành khoa học khác đứng trước nhu cầu nhận
thức giải quyết mới. Chúng ta cần phải có sự nhận thức đúng đắn, mới mẻ
hơn về vi trí, vai trò của con người chính trị trong xã hội, trong các mối quan
hệ của đời sống. Đặc biệt là vi trí, vai trò của nhân dân lao động trong tiến
trình phát triển, hội nhập. Và di đôi với nó là vai trò, phẩm chất, năng lực của
người đứng đầu - các thủ lĩnh chính trị, các nhà lãnh đạo hiện nay trong mối
quan hệ với quốc gia, dân tộc và quốc tế.
Ở Việt Nam, thì đây có thể nói là một vấn đề rất cần được quan tâm sâu
sắc. Tư tưởng về con người chính trị và mối quan hệ, ảnh hưởng của nó đối
với việc nhận thức về tư duy chính trị, về bản chất của con người chính
trị... có tác động trực tiếp đến sự ủng hộ của nhân dân tham gia vào đời sống
chính trị và đặc biệt là người đứng đầu - cán bộ lãnh đạo chính trị.
Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của con người chính trị đối với
sự nghiệp cách mạng hiện nay thông qua sự hiểu biết, nhận xét, đánh giá từ tư
tưởng con người chính trị của N.Machiavelli và sức ảnh hưởng, giá trị cao cả
của tác phẩm Quân vương, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Con người chính trị
3
trong tác phẩm Quân vương của N.Machiavellì” làm đề tài luận văn Thạc sỹ
chính tri học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu tu tưởng của Machiavelli với tu cách là một phần của triết
học bao gồm các tác phẩm và các bài nghiên cứu như:
- “Lịch sử triết học và các luận đề” của Nxb. Lao Động (2004) nghiên
cứu tư tưởng triết học chính trị của Machiavelli, đặc biệt là triết li cầm quyền
của người cai trị, sự tách rời của chính trị với đạo đức.
- “Triết li chính trị của Machiavelli trong tác phẩm Quân vương và ý
nghĩa của nó” của Hồ Đình Trinh (2007), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Tác giả đã tập trung nghiên cứu, li giải bối cảnh lịch sử của Italia với
tư cách là cơ sở tiền đề cho sự hình thành triết li chính trị của ông, đồng thời
tác giả cũng chỉ ra ý nghĩa li luận và thực tiễn của những triết li chính trị
Machiavelli.
- “Triết li quốc trị Phương Tây” của Dương Lợi Thành (2009), Nxb. Hà
Nội. Tác giả đã trình bày về con người Machiavelli và các thủ đoạn chính tri,
bàn về tư tưởng “Ông Hoàng” của Machiavelli, về cách ổn dinh của lãnh tụ và
các mưu lược chính trị sảo trá, một trong những vấn đề mang lại tiếng xấu
cho Machiavelli.
- “Quan niệm về con người của Machiavelli trong tác phẩm “Quân
vương” của Vũ Linh (2012). Tác giả đã phân tích điều kiện tiền đề ra đời tư
tưởng nhân học của Machiavelli trong tác phẩm. Đồng thời làm rõ nội dung
cơ bản trong tư tưởng nhân học của Ông.
Tác phẩm Quân vương của Machiavelli như đã nói ở trên, từ lâu đã và
vẫn đang thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều chính khách
trên thế giới. V1 vậy số công trình nghiên cứu về tác phẩm này ở các nước là
4
không it. Tuy nhiên những công trình bằng tiếng Việt hoặc do các nhà nghiên
cứu Việt Nam thực hiện là không nhiều lắm. Những mô tả tình hình nghiên cứu
trong luận văn này chủ yếu đề cập đến phần tài liệu tiếng Việt.
- “Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới” (do các học giả Liên
Machiavelli
tưởng chính trị phi tôn giáo tiêu biêu cho các học thuyêt chính trị ở Tây Au
vào thời kỳ chế độ phong kiến tan dã. Trong đó, các học giả Liên Bang Nga
đã trình bày tư tưởng của Machiavelli về nguồn gốc và phân loại nhà nước,
về nhiệm vụ của nhà cầm quyền như: lập ra nhà nước, đạo luật và về quân đội
thường trực.
- “Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại” của Dr. Mortimer J.
Adlerx, Nxb. Hà Nội.Tác phẩm là một tập họp những câu hỏi và câu trả lời
trải dài trên nhiều lĩnh vực từ đạo đức, chính trị, xã hội.. .Trong đó hỏi đáp về
Machiavelli và tư tưởng của ông thuộc lĩnh vực chính trị.
Con người chính trị là một vấn đề mới và nhạy cảm nên còn it những
nghiên cứu mang tầm lý luận. Những nghiên cứu về con người chính trị như:
chính
44
Martin Lipset, Nxb. Lao động. Tác giả chủ yếu tập trung đánh giá những hoạt
động chính tri hiện thực của con người trong nền chính trị cụ thể.
- “Tập bài giảng chính trị học” của Viện Khoa học chính trị - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trình bày về chuyên đề con người chính trị
và quyết sách chính trị. Trong chuyên đề này, khái niệm “con người chính trị”
đã được xây dựng dựa trên nền tảng tư duy triết học.
- “Chính tri học đại cương” Khoa Chính tri học, Học viện Báo chí và
•
•
•
%
C /
%
J
m
•
tuyên truyền: Trình bày về con người chính trị và khái niệm, phẩm chất, vai
5
trò của thủ lĩnh chính trị nói chung và người lãnh đạo chính trị của giai cấp
công nhân nói riêng.
- “Tập bài giảng Quyền lực chính trị và cầm quyền” Khoa Chính trị
học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nghiên cứu về con người chính trị nói
chung, thủ lĩnh chính trị nói riêng.
Qua những tài liệu nói trên, có thế thấy được phần nghiên cứu về con
người chính trị trong tác phẩm Quân vương chưa được đề cập đến. Vi vậy mà
tư tưởng về con người chính trị trong tác phẩm này sẽ mang ý nghĩa và giá trị
vô cùng to lớn đối với “Quân vương” nói riêng cũng như khoa học chính trị,
tư duy chính trị nói chung.
3. Mục tiêu và nhiệm vu nghiên cứu của đề tài
•
•
•
O
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, phân tích nội dung tư tưởng về
con người chính trị trong tác phẩm quân vương, tác giả luận văn đưa ra những
nhận xét, đánh giá và những đóng góp, hạn che nhất định.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành được mục tiêu nghiên cứu đề tài đã đề ra cần thực hiện
tốt các nhiệm vu sau:
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành tư tưởng con
người chính trị của Machiavelli.
- Trình bày nội dung tư tưởng của Machiavelli về con người chính trị
thông qua tác phẩm “Quân vương” gồm có: thủ lĩnh chính trị; quan lại, quân
sư; tu sĩ và quần chúng nhân dân.
- Đưa ra những nhận xét đánh giá về những đóng góp và hạn chế của
quan điểm trên đối với sự hình thành học thuyết con người chính trị trong xã
hội Phương Tây và tư duy chính trị.
6
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tu tưởng về con người chính trị
của Machiavelli.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trọng tâm của luận văn là khảo cứu tu tưởng về con người chính tri thủ lĩnh chính tri; quan lại; quân su; giới tu sĩ và quần chúng nhân dân trong
tác phẩm quân vương của Machiavelli.
5. Cơ sở lý luận và phuong pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện đề tài, luận văn chủ yếu dựa trên nền tảng lý luận chính trị
học Mácxít, trong đó quan trọng nhất là lý luận tu tưởng về con người chính
trị. Đồng thời kế thừa những kết quả nghiên cứu có liên quan đến chủ đề của
luận văn từ các tác giả di trước.
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu: sử dụng tổng họp các phương pháp như:
logic- lịch sử; so sánh; phân tích tổng họp tài liệu; nghiên cứu văn bản....
6. Ý nghĩa của Luận văn
Từ việc nghiên cứu tu tưởng về con người chính trị của Machiavelli,
luận văn cố gắng chỉ ra những giá trị có thể kể thừa trong xây dựng lý luận
con người chính trị hiện nay.
7. Ket cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
C ơ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
CON NGƯỜI CHÍNH TRỊ CỦA N.MACHIAVELLI
1.1. Co’ sở kinh tê - xã hội, chính trị và tư tưởng của sự hinh thành
tư tưởng về con người chính trị của N.Machiavelli
1.1.1. Cơ sở thực tien ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng con
người chính trị của N.Machiavelli
Thành phố Florence
8
Cộng hoá Italia hiện nay năm ở miên nam Châu Au, trên bán đảo
Bancăng, dãy Anpơ là biên giới tự nhiên giữa các nước Pháp, Áo, Nam Tu cũ,
Italia là quốc gia nằm trên bờ biển đảo thuộc biển Địa Trung Hải, có diện tích
302.200 km2, dân số 50 triệu trong đó 90% là nguoi Italia, còn lại là một số
tộc nguời khác. Italia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú: Than dá,
thủy ngân, kẽm, calicacbonat, dá cẩm thạch, barit, a mi ăng, dá bọt, khoáng
chữa bệnh, khoáng chất fen spat, lưu huỳnh, khí gas tự nhiên, dầu thô, cá và
đất trồng.
Khí hậu tại Italia khá da dạng và có thể khác biệt khá nhiều so với hình
mẫu khí hậu Địa Trung Hải và "vùng đất mặt trời", tuy thuộc từng địa điểm.
Các vùng nội địa phía bắc Ý có khí hậu lục địa, trong khi những vùng ven
biển Liguria và bán đảo phía nam Firenze có khí hậu Địa Trung Hải. Khí hậu
các vùng ven biển của bán đảo có thể rất khác biệt so với vùng nội địa, đặc
biệt vào những tháng mùa đông. Những vùng có độ cao lớn nhiệt độ lạnh, ẩm
và thường có tuyết. Tại các vùng ven biển, nơi tập trung hầu het các thành
phố lớn, có kiểu khí hậu đặc trưng Địa Trung Hải với mùa đông ôn hoá và
mùa hè thường nóng và khô. Thời gian và mức độ khô của mùa hè tăng dần
về phía nam.
Dân tộc: Khu vực phía Bắc cư dân có nguồn gốc từ Đức, Pháp,
Slovene-Italia, phía Nam là Albani-Italia, Hy Lạp-Italia, 83% người dân
Italia theo đạo thiên chúa giáo. Ngôn ngữ chính là tiếng Italia. Cư dân đô
thị chiếm 67,1%, cư dân nông thôn chiếm 32,9%. Thủ đô Roma có khoảng
2,8 triệu người.
Cơ cấu hành chính của Italia gồm 15 vùng và 5 khu tự trị: 15 vùng
bao gồm: Abruzzo, Basilicata, Calabria, Campania, Emilia-Romagna,
Latium, Liguria, Lombardia, Marche, Molise, Piedmont, Apulia, Tuscany,
Umbria, và Veneto.
9
5 khu tự trị bao gôm: Friuli-Venezia Giulia, Sardinia, Sicilia, TrentinoSouth Tyrol và Aosta Valley. Thủ đô: Roma (Rome)
Các thành phố chính: Milan, Naples, Palermo, Bologna, Florence,
Venice. Ngày nay Italia là thành viên khối cộng đồng chung Châu Âu.
Những thành tựu và sự phát triển của Italia dựa trên một nền lịch sử
phát triển huy hoàng. Đó là nền văn minh HyLap - La mã cội nguồn của toàn
bộ nền văn minh Châu Âu sau này, là thời đại Phục hưng dài 2 thế kỷ. Phục
hưng là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử triết học. Phục hưng ở Châu Âu,
trước hết ở Italia, là giai đoạn diễn ra từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16. Vào thời kỳ
này, Italia đạt được sự phát triển xã hội và văn hóa to lớn, trở thành tmng tâm
văn hóa châu Âu.
Từ Phục hưng xuất phát từ cái từ Resaissance của Pháp dùng để mô tả một
hiện tượng xảy ra tại Italy. Resaissance dịch theo sát nghĩa là ‘tái sinh” . Cái từ
này nhấn mạnh đến sự phục hưng của tư duy con người và sự hồi sinh của niềm
say mê thế giới cổ điển. Nhưng Phục hưng là một thời đại chứ không phải là một
sự kiện. Phải nói rằng không hề có một thời điểm đích thực nào qua đó thời
Trung cổ di đến kết thúc và xã hội trong giai đoạn cuối thời Trung cổ đã tỏ ra có
sáng tạo trong nghệ thuật, khá phát triển và da dạng về mặt kinh tế. Tuy vậy,
trong giai đoạn này, nhịp độ thay đổi đã gia tốc và có thể nói Phục hưng là một
thời đại của những chuyển tiếp nhanh chóng. Trải dài qua hai thế kỷ, từ 1350
đến 1400 với đặc trưng là sự giảm sút dân số, sự khai mở tác phẩm cổ điển, và
trải nghiệm nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Giai đoạn thứ hai, từ 1400 đến
1500 với đặc trưng là sự hình thành một loạt những giá trị văn hóa cùng những
thành tựu về văn học và nghệ thuật, định hình phong cách Phục hưng. Các quốc
gia, đô thị rộng lớn của Italy phát triển những chính quyền cố kết và ổn định, và
chiến tranh giữa các quốc gia, đô thị này dần dà kết thúc. Giai đoạn sau cùng, từ
1500 đến 1550 được đánh dấu bằng những cuộc xâm lược từ Pháp và Tây Ban
10
Nha, làm biến đổi đời sống chính trị Italy. Từ đó những ý tưởng và kỹ thuật của
các nhà văn và họa sỹ Italy tỏa ra khắp lục địa Châu âu. Những ý tưởng của thời
Phục hưng cùng nhung thành tựu của nó lan rộng khắp Tây Âu và đặc biệt ghi
lại những dấu ấn quan trọng tại Hà Lan.
Từ năm 1350 đến 1550 được Marsilio Ficino (1433 -1499) thầy thuốc
và triết gia của thành phố Florence, người đã dịch những tác phẩm của Plato
và là nhà thiên văn học, đã mô tả thời đại Phục hưng như sau: “Như thời
hoàng kim, của các thế kỷ này đã trùng hưng đề thắp sáng những ngành nghệ
thuật tự do vốn bi tắt ngấm: Ngữ pháp, thi ca, tu từ học, hội hoa, điêu khắc,
kiến trúc và âm nhạc”. Thời đại Phục hưng được bắt đầu và phát triển lên đến
đỉnh cao chính là ở Italia. Từ đó, những ý tưởng của thời Phục hưng cùng
những thành tựu của nó đã lan rộng khắp Tây Âu.
Không như các vùng khác ở Châu Âu, bán đảo Italia là nơi có mức độ
phát triển đô thị rất cao. Vào cuối thời kỳ trung cổ, có đến một phần tư dân số
Italia sinh sống trong các thành phố trong khi ở những nơi khác của Châu Âu,
tỷ lệ này là một phần mười. Có thể nói tại Châu Âu, Italia là nơi có nhiều
thành phố nhất và nhiều cư dân sống trong các thành phố lớn nhất.
Theo thống kê năm 1500, Italia có tới 70 thành phố lớn, trong đó nổi
lên đó là các thành phố Naples, Veniser, Florence, MiLan và Romma là
những thành phố hàng đầu trên 100 ngàn dân đặc trưng đô thị và cũng là
những trung tâm kinh tế, thương mại không chỉ của Italia mà còn của cả vùng
Địa Trung Hải. Nhưng các thành phố Italia có đặc điểm đáng chú ý về kinh
tế: bên cạnh thủ công nghiệp phát triển còn có những vùng lớn dành cho sản
xuất nông nghiệp là vườn tược và những cánh đồng ngũ COC.
về kinh tế : Các đô thị một mặt khi đóng vai trò là những trung tâm
kinh tế, là đầu mối giao thương đã tạo lên bước phát triển đột phá cho nước
Italia, thì cũng xuất hiện những mặt trái của quá trình phát triển. Chẳng hạn ở
ll
Italia thường xuât hiện các dịch bệnh như dịch hạch... Dịch bệnh không chỉ
tác động đến sự suy giảm dân số mà còn là nguyên nhân gây lên những bất ổn
xã hội. Tuy nhiên, nguyên nhân chính, quan trọng nhất tạo lên sự bất ổn là
chính sự phân hoá giàu nghèo, là hệ quả tất yếu của sự phát triển kinh tế tu
bản. Sự tập trung của cải vào tay một nhóm “các gia đình” là đặc điểm đáng
chú ý của sự phát triển kinh tế - xã hội Italia thời bấy giờ. Đặc điểm này sẽ chi
phối nhất định đến quá trình chính tri.
Chẳng hạn, tại Florence, quê hưong của Machiavelli, 90% của cải
thành phố năm trong tay 10% “các gia đình” giàu có. Tổng số tiền của hon
một trăm gia đình giàu nhất Florence lớn hơn tổng sổ của cải của 87% dân số.
Trong khi đó những người dân sống trong cảnh chen chúc trong những khu
chật hẹp. Là một nhóm xã hội, người nghèo chiếm phân nửa dân số. Hầu hết
tồn tại nhờ lòng từ tâm bố thí.
về xã h ộ i: Vào thế kỷ XV - XVI, Italia là một xã hội phân chia giai cấp,
giai tầng, đẳng cấp rất sâu sắc. Những người giàu có thì sống trong cảnh xa hoa,
còn người nghèo thì sống trong cảnh nghèo khổ. Tuy phải thường xuyên làm
lụng cực nhọc, nhưng người dân thời tmng cổ có li do tin rằng cuộc sống của họ
tốt đẹp hơn cuộc sống của cha ông họ và cuộc sống của con cái họ hẳn sẽ tốt đẹp
hơn. Trên thực tế đời sống của nhân dân giai đoạn này đươc cải thiện nhiều.
Trong xã hội, người dân có quyền tham gia các nhóm xã hội tuy theo
lựa chọn của họ và có những điều kiện nhất định để hoàn thiện và phát triển
bản thân, đây là một điểm rất tiến bộ ttong xã hội đương thời. Những tầng lóp
dân cu giống nhau thường có những tương đồng về lợi ích và thậm trí là
những sở thích và sự lựa chọn. Ở nhiều thành phố lớn, những người giau có
thường chọn khu cu trú của họ tách biệt với người nghèo, nhưng ở Florence
lại khác: người giau và người nghèo lại sống cận kề nhau, cùng tham gia đơn
vi hành chính nhỏ bé của họ và cùng sinh hoạt tại nhà thờ địa phương. Đây
12
cũng là một trong những đặc điêm riêng sẽ tạo lên sự khác biệt của Florence
với các thành phố khác.
về xan hoá nghệ thuật: Giai đoạn này xuất hiện nhiều tên tuổi nổi
tiếng với những tài năng vượt trội, những bậc thầy về văn hoá nghệ thuật của
nhân loại như: lĩnh vực kiến trúc có Brunelleschi (1377-1466) Donatello
(1386 -1466) Masaccio (1401-1428), hội hoa: Piero della Francesca (khoảng
1420 -1492), Sandro Botticelli (1445-1510), Leonardo de Vinci (1452-1519)
với những bức tranh nổi tiếng như: buổi tiệc 1y và bức hoa chân dung nàng
Gioconda hay còn được gọi là Moralisa. Một trong những đỉnh cao của những
thành tựu nghệ thuật của thời Phục hưng là những sáng tạo của Michelangelo
Buonarroti (1475-1564) với tác phẩm điêu khắc nổi tiếng Pietà, tượng David,
những bức tranh ở nguyện đường Sixtine, đền thờ thánh Pherô. Các nhà nhân
văn thì nghiên cứu và dậy con người những kĩ năng của các ngành triết học,
tu từ học, nghệ thuật diễn đạt, các học giả triết gia thì tìm tòi những tác phẩm
của người xưa nhằm phát hiện những quy tắc để xây dựng một đời sống tốt
đẹp hơn. Nghiên cứu về thế giới cổ điển cũng được đẩy mạnh. Ngành ngôn
ngữ học phát triển với tên tuổi lớn như Lorenzo Valia.
về chính trị : Trên địa hình giống chiếc ủng có ba mặt là biển Địa
Trung Hải, Italia về không gian chính trị gồm nhiều quốc gia đô thi khác nhau
về hình dạng kích cỡ. Một số là cảng biển rộng lớn, một số là làng nhỏ nằm
trong nội địa, số khác là những vệt dài vắt ngang những hòn đảo bé ti, do sự
sụp đổ của đế chế La Mã Thiêng Thánh và sự chia rẽ trong chính quyền giáo
hoàng nên Italia không có một chính quyền trung ương và điều đó khiến cho
các phường hội và hội đoàn trước đây tự biến thành những xã hội tự quản.
Vào đầu thế kỷ thứ XV các quốc gia - đô thị Italy là những trung tâm
quyền lực, văn hóa và sự giàu có của thể giới Thiên Chúa giáo. Sự tự trị đó
các quốc gia - đô thị tồn tại dựa trên một số điều kiện. Thứ nhất, về mặt địa
13
lý, Italy có một vi thê thuận lợi cho việc trao đôi các tài nguyên và hàng hóa
giữa Đông và Tây. Cho đến thế kỷ XV, và mặc cho những nỗ lực tien hành
Thập Tự Chinh của các giáo hoàng thời Trung cổ, cả Đông và Tây đều củng
cố lẫn nhau. Một cung đường mậu dịch lớn đã được phát triển bao gồm Đế
chế Byzamce, các quốc gia vùng duyên hải Bắc Phi và các quốc gia Tây Âu
thuộc vùng Địa Trung Hải. Bán đảo Italy nổi trội trong cái cung đường mậu
dịch đó. Đặc biệt là Genoa và Venice là cường quốc trên biển qua mậu dịch
về giá trị và khoáng sản. Thứ hai, ngay bên ngoài Bán đảo Italy, ở mặt Bắc là
những lãnh thổ rộng lớn và đông dân của Đế chế Thần thánh La Mã. Đó là
vùng không ngưng có nhu cầu về hàng hóa, đặc biệt là về quần áo, vải vóc,
kim loại, và được cung ứng bằng những đoàn người ngựa trở hàng từ Italy
ngang qua núi Alps. Milan chuyên sản xuất các mặt hàng kim loại. Florence
là thủ đô tài chính và trung tâm sản xuất các mặt hàng xa xỉ. Cuối cùng những
quốc gia - đô thị và những vùng phụ cận của chúng là những vùng tự cung tự
cấp về mặt nông nghiệp.
Chính vi sự hoàn thiện của các quốc gia, đô thị nên người ta có khuynh
hướng cho rằng chúng là những tiểu quốc. Ngay cả cái từ quốc gia đô thị
cũng nói lên đặc tính của chúng. Mồi quốc gia đô thị đều tự trị phù họp theo
luật lệ và phong tục tập quán của nó. Đồng thời xác định chính nó qua sự cách
biệt với vùng rộng lớn hon hoặc với những bộ tộc đã có thời nổi trội. Thực
vậy, những cuộc chiến giữa các quốc gia đô thị đã nói lên sự tự xác định về
mặt địa phương của chúng.
Tuy có hàng chục quốc gia đô thị, nhưng vào đầu thế kỷ XV, chỉ có 5
quốc gia đô thị nổi trội lên thống trị nền chính trị của bán đảo Italia. Ở phía
Nam là vương quốc Naples, quốc gia đô thị duy nhất được lãnh đạo bởi một
nền quân chủ cha truyền con nối. Đời sống chính trị của vương quốc này chìm
trong những cuộc xung đột giành quyền kế vi và chỉ đến khi một người Tây
14
Ban Nha là Alfonso xứ Aragon (1442 - 1458) năm ngai vàng vào năm 1443
thì hoá bình mới được độc lập lại. Bao quanh Naples là những quốc gia thuộc
chính quyền giáo hoàng với thủ đô là Romma và những vùng lãnh thổ trải xa
vi phía bắc chạy dọc theo hai bên dãy núi Apennine, xuống tận trung tâm bán
đảo. Trong thế kỷ XIV- XV, những lãnh thổ khác dưới quyền làm chủ trên
danh nghĩa giáo hoàng đều phần lớn độc lập và gồm những quốc gia đô thị
thịnh vượng như Bologna, Ferrara va Ưrbino. Ngay tại Romma, chính quyền
giáo hoàng vốn đã suy yếu cũng phải đấu tranh với các dòng họ quý tộc có thể
làm chủ thành phố.
Ba quốc gia, đô thị nồi trội còn lại là những quốc gia đô thị nằm kề
nhau ở miền bắc. Florence trung tâm văn hoá Phục hung, là thành phố giàu có
nhất Châu Âu trước khi bệnh dịch hạch cùng sự suy thoái kinh tế tàn phá kinh
tế vào thế kỷ XIV. Thành phố Florence nằm trong nội địa với con sông Arno
là thuy lộ duy nhất chảy ra biển, ngang qua Pisa. Trên danh nghĩa Florence là
một cộng hoá, nhưng trong thế kỷ XV, thành phố này nằm dưới quyền cai trị
của một dòng họ đứng đầu lĩnh vực ngân hàng là dòng họ Medici. Florence thành phố “dệt vải thành vàng”. “ Không chỉ tại Italy mà khắp nơi trên thế
giới có thành phố nào có những dinh thự đáng để kiêu hãnh hơn, thành phố
nào được điểm xuyến bằng những thánh đường đẹp hơn thế. Có những thành
phố nào có những công trình kiến trúc xinh đẹp hơn, những quảng trường
giàu sang hơn, nhung phố xá đông đúc hơn, những công dân vĩ đại hơn và
những cánh đồng phì nhiêu hơn”. Sự thịnh vượng của Florence được xây
dựng trên hai nền móng là “ tiền và len” . Vào đầu thế kỷ 13, các chủ ngân
hàng Florence là nhung người giàu có và thế lực nhất thế giới. Phía bắc
Florence là công quốc Milan, thành phố đứng đầu trong vùng Lombardy.
Thành phố này nằm trong nội địa bi chắn nối ra biển bởi Genoa. Nhưng đời
sống kinh tế của Milan hướng về phương bắc, hướng về các thành phố của
15
Đức và Thụy Sỹ ở bên kia núi Alps và mối bận tâm hàng đầu của Milan là
ngăn chặn sự xâm lược của nước ngoài. Là thành phố nặng trĩu chiến tranh
hou mọi thành phố khác của Italia, trong gần hai thế kỷ Milan nằm dưới chế
độ chuyên chính của dòng họ Viscontin.
Cường quốc sau cùng của 5 cường quốc là Venice, Nằm ở đầu biển
Adriatic, Venice có vi trí li tưởng và trở thành cường quốc trên biển hàng đầu
của thời đại. Cộng hoá Venice được lanh đạo bởi một nhóm ưu tú cha truyền
con nối, đứng đầu là thống lãnh cộng hòa được bầu lên và là quan viên hàng
đầu của Venice cùng với một số những hội đồng nhỏ được bầu chọn.
Vào cuối thế kỷ XIV- XV, bán đảo Italia có một lich sử đầy biến động.
Khắp nơi các chính quyền của những quốc gia đô thị de doa bởi những cuộc
xâm lược từ bên ngoài, bởi những kình chống nội bộ hoặc những cuộc nổi
dậy của nhân dân. Tuy nhiên vào thế kỷ XV, giữa sự hỗn loạn chính tri có hai
khuynh hướng rõ nét: Khuynh hướng thứ nhất là củng cố sự vững mạnh của
chính quyền trung ương bên trong quốc gia đô thi, nhiều hành động được thực
hiện nhằm đạt được sự ổn định chính tri quốc nội. Sự trở về Romma của các
•
•
•
•
•
•
1
•
•
giáo hoàng sau khi kết thúc nạn li giáo giúp giáo hoàng khôi phục quyền lãnh
đạo các lãnh thổ thuộc quyền và bắt đầu làm chủ Romma cùng các lãnh thổ vệ
tinh trong một thời gian dài.
Năm 1454, các quốc gia đô thị chấp thuận hoá ước Lodi, thiết lập sự
cân quyền lực mới giữa hai liên minh, một bên là Florence và Milan và bên
kia là Veniser và Naples. Ở đó các quốc gia nói trên và chính quyền Romma
cam ket chính không xâm lược lẫn nhau, tương quan lực được thiết lập bởi năm
nước trên, tại gần 40 năm. Nhưng hoá bình Lodi không mang lại hoá bình thực
sự cho Italia, nó chỉ ngăn cản những cuộc chiến tranh tương tàn, dai dẳng giữa
đô thị trong một thời gian nhất định. Nhưng điều đó không ngăn cản được xu
hướng mở rộng lãnh thổ sẽ là ngòi nổ mới cho những bất ổn ở Italia.
16
Vào cuối thế kỷ XV, giữa các quốc gia đô thị lại gia tăng xu huớng
lườm thù địch. Nước nào cũng mong nước khác lâm chiến để sau đó hưởng
lợi. Có thể nói khia cạnh bất thường nhất của chủ nghĩa đế quốc của các quốc
gia - đô thị là nó được giới hạn bên trong bán đảo Italy. Mỗi cường quốc lớn
đều ấp ủ giấc mơ giành lại vinh quang của Romma ngày trước. Sự phát triển
của đế chế Ottoman đã trở thành một sự thách đố, sự đe doa ở Phương Đông
với Italia. Sự trỗi lên của Ottoman là một trong những sự việc hấp dẫn nhất
của lịch sử thế giới.
Nhưng chính người Italia chứ không phải quân của Ottoman đã nhấn
chìm bán đảo này trong chiến tranh để nó chẳng bao giờ gượng dậy nổi.
Chiến tranh Italia (1494 -1529) bắt đầu khi Naples, Florence và các quốc gia
thuộc quyền giáo hoàng họp lại để chống chế Milan. Thoạt đầu liên minh này
xem chừng chỉ là một chút lệch lạc trong cán cân quyền lực. Nhưng thay vi
liên minh với Venice, Milan đã kêu gọi sự trợ giúp của Pháp, với sự hau
thuẫn của Milan, quân pháp quét sạch mọi đề kháng. Vieniser và giáo hoàng
kêu gọi sự trợ giúp của vua Ferdinand xứ Aragon và Romma. Italia trở thành
chiến trường của các nước Châu Âu trong cuộc chiến quyền tranh giành
quyền chi phối Italia và đó là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự suy tàn, tan
dã của đất nước đã từng là trung tâm của Châu Âu.
Trên đây là đặc điểm chính về kinh tế xã hội và chính trị Italia vào thời
kỳ Phục hưng. Những đặc điểm đã ảnh hưởng rất lớn đến nội dung tác phẩm
“Quân vương” của N.Machiavelli.
1.1.2.
Cơ sở lý luận ảnh hưởng đến tư tưởng về con người chính trị
của N.Machiavelli
Italia là cái nôi văn hoá của Châu Âu. Tại đây đã xuất hiện các đỉnh cao
như thời ki La Mã, thời đại Phục hưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng lớn lao
của văn hoá Hy Lạp. Nhiều nhà tư tưởng, văn hoá đã ghi danh mình ở đó và
17
làm nên một nền văn hoá Italia đậm nét, ảnh hưởng lan toa đến các nền văn
hóa khác.
Có thể khẳng định, văn hóa Hy Lạp, La Mã cổ đại đã có tác động mạnh
mẽ đến văn hóa Phục hưng. Với tư cách là con đẻ của thời đại Phục hưng,
N.Machiavelli tất yếu chịu ảnh hưởng sâu sắc nền văn hóa phuong Tây cổ
đại. Machiavelli vừa là “ sản phẩm” vừa là đại diện tiêu biểu của thời kỳ
Phục hưng. Từ thế kỷ XIII trở di, nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật, sự phát triển
của phương tiện giao thông, sự trao đổi về sách cũ, sách mới bên cạnh nền
học thuật chính thức, bên cạnh kinh viện học, người ta đã thấy nảy nở một
nguồn tu tưởng lành mạnh, bạo dạn. Kho tàng tu tưởng Hy Lạp, khoa học Á
Rập kích thích tinh thần học hỏi với người xưa, với ngoại quốc. Đi đôi với
những cuộc thám hiểm, những đạo quân viễn chinh, với sự phát triển công
nghệ và thương mại, là những cuộc phát kiến về văn hóa, về khoa học, về
phong tục của xã hội Đông Âu và Tiểu Á. Cảnh vật xa lạ trình bày trong các
bài bút ký của các nhà du lịch gây nên những thắc mắc, những tâm trạng mới.
Nước Italia có thể tự hào là có những vườn hoa, những vườn bách thú đầu
tiên ở châu Âu Trung Co. Vạn vật học và vật lý học bước vào giai đoạn thực
nghiệm. Dưới ảnh hưởng của văn hóa cổ điển và của các phát minh mới về
kỹ nghệ, học thuật đã có một cơ sở mới, để ấn bước trên đường nhận xét tâm
giới, vật giới, vũ trụ, xã hội bằng những phương pháp khoa học.
Quả thật, đã có những lễ hội tưng bừng, những sinh hoạt học thuật sôi
nổi của những đầu óc sáng láng nhất của thời đại: tái phát hiện, đọc lại những
tác phẩm của nền văn hoá Hy - La cổ đại và suy tư triết học từ các nguồn cội
ấy. Số lượng này không nhiều, nhưng quả thật là có. Và Florence, đô thị
huyền thoại của nước Italia, là nơi tập trung tiêu biểu nhất của nền văn hoá
mới; chính nơi đây đã hình thành lần đầu tiên cung cách quản lý chưa từng có
trước đó: hoạt động ngân hàng, hệ thống kế toán, sáng kiến bảo trợ và sưu tập
18
nghệ thuật... Nhưng dù sao, họ chỉ là một thiêu sô ưu tú, đã sông, kinh doanh,
nghiên cứu và sáng tạo.
Việc chế tạo máy in của Gutenberg (1440) đã giúp cho nhiều tác phẩm
trước dành riêng cho một số người nay được phổ biến rộng rãi. Nhiều tài
liệu cổ được dịch từ nguyên bản: các triết gia cổ, các giáo phụ, Kinh thánh
và sách đạo đức. Hầu hết các sách đầu tiên được in là sách tôn giáo. Khát
vọng hiểu biết và hành động bùng lên trong mọi lãnh vực, biểu hiện qua kiến
thức bách khoa của những nhà nhân bản và thành tích của những nhà chinh
phục, thám hiểm.
Đó chính là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đời sống
tinh thần của Italia cũng như giai đoạn Phục hưng. Ngay từ thời còn trẻ,
N.Machiavelli đã ham mê và đọc nhiều tác phẩm của các nhà sử học Hy Lạp
và La Mã đặc biệt là sử thi của Lucritius Catus. Và chính nó trở thành nguồn
tu tưởng, tu liệu để N.Machiavelli sử dụng trong các tác phẩm của mình. Đặc
biệt trong tác phẩm Quân vương, N.Machiavelli đã trích các câu chuyện, sự
kiện, tu tưởng trong các tác phẩm sử học Hy Lạp - La Mã để luận bàn về
phương thức trị nước của bậc quân vương. Hãy nghe lời tự bạch của
N.Machiavelli trong một hồi ký: “Khi trời tối, tôi quay về chồ ở. Tôi vào
trong thư viện và, ngay từ ngưỡng cửa, tôi trút bỏ bộ quần áo mặc hàng ngày
lấm bê bết bùn đất, để mặc bộ y phục triều đình... Ăn mặc lố lăng một cách
đáng tôn kính như vậy, tôi bước vào sân co đại của cố nhân: họ nhã nhặn đón
tiếp tôi tại đó, và tôi lại được ăn thoa thích cái thức ăn ở mức cao nhất là của
tôi và tôi sinh ra cho nó; ở đó không có sự xấu hổ gi để nói chuyện với họ, hỏi
họ về những động cơ của những hành động của họ. Và họ trả lời tôi căn cứ
vào cổ học của họ” [trích theo: 2, tr. 499].
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này N.Machiavelli được thừa hưởng
về văn hoá lịch sử Hy Lạp và La Mã, nên trong việc hình thành tư tưởng
19
chính trị của mình, Machiavelli cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng luận thuyêt của
các triết gia trước đó mà điển hình là Xixêrôn, Salust, Livy, Xênôphôn, Cesar
Bongia...Macco Tunh Xixêrôn (106 - 43 TCN) là nhà tư tưởng trong giới
quý tộc chủ nô, trong học thuyết chính trị của Xixêrôn, tính chất triết chung
hoá hợp các quan điểm của Platon, Arixtot và các nhà khắc kỷ, xuyên suốt
dòng tư tưởng của ông là ý muốn bảo vệ quyền lợi của tầng lóp quý tộc đại
điền chủ và quan chức. Nhưng Xixêrôn gắn liền vấn đề nhà nước, nguồn gốc
nhà nước với sự giao tiếp vốn có của con người với khuynh hướng liên minh
liên kết tạo ra nhà nước của họ theo đó khẳng định nhà nước có nguồn gốc xã
hội chứ không có nguồn gốc thần thánh như những nhà tư tưởng đương thời.
Chịu ảnh hưởng của tư tưởng này N.Machiavelli đưa ra tư tưởng về
một nhà nước một chính quyền nhà nước thể tục mạnh mẽ có khả năng thủ
tiêu chủ nghĩa phân lập phong kiến và đàn áp sự chống đối của các quân
vương. Quan điểm về nguồn goc nhà nước của N.Machiavelli cũng khác quan
điểm thần học, theo ông nhà nước do con người sáng tạo chứ không phải do
chúa. Nhà nước xuất hiện từ nhu cầu của con người và vi lợi ích chung. Ông
coi thiên chúa giáo La Mã là nguyên nhân cơ bản ngăn cản việc thống nhất
Italia từ đó xuất hiện những chỉ trích gay gắt của ông trước việc Giáo Hội
thâm nhập vào công việc của chính quyền thế tục. Điều này cũng giống quan
điểm định nghĩa của Xixêrôn của nhà nước như công việc của công dân theo
đó cả Xixêrôn và N.Machiavelli đều đề cao con người coi trách nhiệm của
người công dân “lý tưởng” của La Mã là phải tích cực tham gia vào đời sống
chính trị và coi đây là biểu hiện cao nhất của đạo đức con người.
Xixêrôn chú trọng nhiều đến việc phân loại các hình thức nhà nước dân
chủ, quý tộc và quân chủ. Ông coi hình thức “hỗn họp” là hình thức nhà nước
hoàn hảo nhất và chế độ dân chủ là một trong những hình thức thể chế nhà
nước xấu xa nhất, ông nói rằng không có gi ghê tởm hơn sự độc đoán của
20
đám đông, không có gi nguy hại hơn đám đông ngộ nhận mình là nhân dân.
N.Machiavelli cũng chia ra thành các chế độ quân chủ, quý tộc và nhân dân,
mà sự biến dạng méo mó của chúng là nền bạo chính, tập đoàn thống trị và
chính quyền của đám đông. Nhưng khi xem xét các vấn đề về sự ưu việt
tương đối của các hình thức nhà nước nhà tư tưởng nghiêng hẳn về hình thức
nhà nước cộng hoá: “đó là lý tưởng chính trị đối với ông” [trích theo : tr. 157
- lịch sử học thuyết chính trị trên thế giới]. Mặt khác N.Machiavelli cũng
đánh giá vi trí và vai trò rất cao của nhân dân, theo ông đôi khi nhân dân chọn
người tốt hơn người cai trị. Nên có thể nói đây là sự kế thừa nhưng tiến bộ
của N.Machiavelli với tư tưởng của Xixêrôn.
Khi phân chia các loại chiến tranh thành chiến tranh chính nghĩa và phi
nghĩa, Xixêrôn coi chiến tranh chính nghĩa là một thứ công cụ bào chữa cho
chính sách xâm lược và cuớp bóc của La Mã còn N.Machiavelli coi chiến
tranh là cần thiết cho sự thống nhất của Italia. Hai quan điểm trên không hoàn
toàn trung khớp nhau nhưng nhiều người đã biện luận và lý giải chúng như
một, nên mới dẫn đến những quan điểm sai lầm, hiểu lầm khi đánh giá nhìn
nhận về N.Machiavelli và tư tưởng chính trị của ông. Nhưng chúng có điểm
giống nhau rằng cả hai ông đã cho rằng chiến tranh là phương tiện sử dụng
khi cần thiết. Tuy nhiên, khi so sánh ta thất tư tưởng chiến tranh của Xixêrôn
có phần cực đoan hơn tư tưởng của N.Machiavelli.
Neu như Epiquya (341 - 270 TCN) nhà triết học duy vật và vô thần,
xem xét xã hội qua lăng kính đạo đức, đề cao giá trị đạo đức thì Machiavelli
lại đề cao cái kết quả mục tiêu hướng tới. Nhưng N.Machiavelli chịu ảnh
hưởng tử Epiquya tinh thần đề cao pháp luật. Sự vi phạm pháp luật sẽ phải trả
giá cho những người trừng phạt thực hiện. Những người theo Epiquya kêu gọi
tuân thủ pháp luật.
21
Xênôphôn (427 - 355 TCN), đặc điểm nổi bật trong tư tưởng chính
trị của ông là quan niệm về thủ lĩnh chính trị, ông khẳng định thủ lĩnh
chính trị - người đứng đầu nhà nước là người phải biết chỉ huy, đó không
chỉ là người mang vương trượng, không chỉ là người biết chỉ huy giỏi kỹ
thuật, giỏi thuyết phục, biết làm say mê người nghe trong diễn thuyết.
Không dừng ở đó Xênôphôn còn chỉ ra không it những phẩm chất sâu sắc
và phổ biến không chỉ cần có ở những thủ lĩnh chính trị đương thời mà
còn ở mọi thời đại như biết vi lợi ích chung, tận tâm phục vụ quần chúng
và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Thủ lĩnh chính trị là người biết hợp lại và
nhân lên sức mạnh của mọi người, do đó phải là người biết những động
lực của các hoạt động của con người và biết tác động lên dân chúng.
Xênôphôn cho rằng sự thiên tài của thủ lĩnh chính trị không phải tự nhiên
mà có, nó sinh ra từ sự kiên nhẫn lâu dài, từ khả năng chịu đựng về thể
chất, với ý chí sống và rèn luyện theo phong cách thanh liêm biết kiềm
chế, thích lao động.
Chịu ảnh hưởng của tư tưởng trên, tư tưởng N.Machiavelli về quân
vương là người nắm quyền lực cá nhân, người cầm quyền phải có một quyền
lực cá nhân mạnh. Theo ông để đạt được mục đích chính trị người cầm quyền
quyết không được dừng lại trước thủ đoạn lừa bịp, sức mạnh tàn bạo, sự phản
bội. Tất cả những biện pháp đó trong lĩnh vực chính tri đều tốt. “Ông ta phải
giống như con Sư tử để làm cho bầy Sói khiếp sợ và như con Cáo để khỏi sa
vào bẫy” [Tr. 176, Trích theo Quân vương]. N.Machiavelli cũng đưa ra quan
niệm của ông về con người chính trị - thủ lĩnh chính tri cùng những phẩm chất
cần có của thủ lĩnh chính trị. Thông qua tác phẩm “Quân vương”, quan niệm
về con người chính tri của ông được thể hiện một cách rõ nét.
Tác phẩm “Quân vương
5?
cứu
9
r
\
r
quan vương lý tưởng, cùng những pham chat cân thiêt cho một nhà cai trị
22
giỏi. Những điêu này được mt ra từ các nhận xét vê con người một nhân vật
nổi tiếng trong lịch sử bấy giờ là Cesare Bongia. Trong các gia đình vương
giả của thời Phục hưng Italia it có dòng họ nào có quyền lực hem gia đình
Bongia với hai người đã làm đến chức Giáo Hoàng, một người là nhà lãnh
đạo quân đội nổi danh và một người khác là nhà bảo trợ văn chương và nghệ
thuật. Thế nhưng gia đình Bongia này còn được người đời nhớ đến với các
hành động tàn ác và các cách lừa dối của họ.
Vốn dòng dõi quý tộc và tổ tiên cư ngụ gần Valencia, Tây Ban Nha,
người đầu tiên của gia đình này nắm giữ chức vụ quan trọng là Alfonso
Bongia (1378 - 1458) ông này được bầu làm giáo hoàng của La Mã năm 1455
có danh hiệu là Calixtus III, giáo hoàng Calixtus đã đưa người cháu Rodrigo
(1431 - 1503) tới La Mã rồi không lâu Rodrigo được phong chức tổng giám
mục bới người chú. Là một con người khôn khéo và tham vọng, Rodrigo đã
trở thành một vi hồng y khi mới 25 tuổi. Năm 1492, Rodrigo Bongia được
bầu làm Giáo Hoàng mang danh hiệu Alexander VI, liền sau đó ông đã dùng
chức vụ và quyền uy để củng cố tài sản địa vi cho mỗi người con của mình:
Cesare (1476 - 1507) được phong làm tồng giám mục Valencia và sau đó trở
thành hồng y. Con trai thứ hai là Giovanni lãnh chức hầu tước Gandia cai
quản quân đội giáo hoàng. Nhưng Cesare đã từ chức Hồng Y để lãnh đạo
quân đội khi Giovanni bi giết năm 1497.
Cesare Bongia được đồng minh người Pháp giúp đỡ, chiếm được vùng
Romagna của nước Ý đồng thời tấn công các thành phố và thì trấn của nước
Ý nào không chấp nhận quyền tối thượng của Giáo Hoàng và chính nhờ công
lao của Cesare từ các vùng đất rời rạc, vương quốc của Giáo Hoàng đã được
thống nhất. Năm 1503, giáo hoàng Alexander VI bi giết trong hoàn cảnh bi
mật thì kẻ thù của gia đình Bongia đã họp nhất chống lại Cesare, bi thua trận
23