VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------
NGUYỄN THỊ HIÊN
Chuyên đề:
“Tiếp cận thông tin việc làm của sinh viên Công an nhân dân hiện nay”
Thuộc đề tài luận án:
ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 62313001
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đặng Nguyên Anh
Hà Nội, 6/2015
MỤC LỤC
1.MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
1.1Tính cấp thiết của đề tài...........................................................................2
1.2 Câu hỏi, mục tiêu và khái niệm chính cho nghiên cứu...........................3
1.3 Giả thuyết nghiên cứu, nguồn số liệu và khung phân tích......................5
- Nguồn dữ liệu.................................................................................................5
2. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH.............................................................................7
2.1 Kênh tiếp cận thông tin việc làm của sinh viên công an nhân dân(CAND)7
2.1.1Kênh thông tin việc làm............................................................................7
2.1.2Khác biệt nhóm trong tiếp cận kênh thông tin việc làm............................9
2.2.Khó khăn và chiến lược tìm việc theo ý muốn của sinh viên khi ra trường
....................................................................................................................18
2.2.1 Khó khăn xin việc làm theo ý muốn..................................................18
2.2.2Chiến lược tìm việc làm của sinh viên CAND...................................24
3. KẾT LUẬN...............................................................................................32
Khuyến nghị................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................35
1
1. MỞ ĐẦU
1.1Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm sau khi ra trường là một dấu hỏi đối với mỗi sinh viên hiện
nay. Đây là một vấn đề không chỉ thu hút quan tâm riêng của bản thân sinh
viên mà nó còn là sự quan tâm của gia đình và toàn xã hội, nhất là trong bối
cảnh nước ta hiện nay chưa có sự thống nhất, khớp nối giữa hoạt động đào tạo
và tuyển dụng việc làm cho sinh viên sau khi ra trường.
Sinh viên công an nhân dân (viết tắt là CAND) là một nhóm xã hội đặc
thù trong quá trình đào tạo và sắp xếp việc làm sau khi tốt nghiệp. Trước khi
vào trường, sinh viên đã có thể hình dung nghề nghiệp của mình khi ra
trường, theo quy định sinh viên học ngành nào sẽ được sắp xếp công tác theo
ngành đó, thậm chí theo quy trình các thí sinh tham gia dự tuyển ở địa
phương nào thì sau khi ra trường sẽ trở lại địa phương đó công tác. Nghề
nghiệp việc làm của sinh viên công an nhân dân sẽ do ngành phân công, chính
vì vậy họ phải luôn ý thức sẵn sàng nhận nhiệm vụ đi bất cứ đâu, thực hiện
bất cứ trách nhiệm nào mà tổ chức, cơ quan điều động giao phó, v.v... Sắp xếp
việc làm cho người học đã phần nào tạo nên tâm lý an tâm, ít lo lắng đến nghề
nghiệp, nơi làm việc cho mỗi sinh viên công an nhân dân ngay từ khi đang
ngồi trên ghế giảng đường.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, những giá trị thực dụng, chạy theo
quyền lợi vật chất và kinh tế đang hòa quyện thẩm thấu vào mọi mặt quan hệ
của đời sống xã hội nhất là trong giới trẻ, bao gồm cả sinh viên, học viên
CAND. Những giá trị này ảnh hưởng không nhỏ đến định hướng nghề nghiệp
và tiếp cận việc làm của nhóm sinh viên CAND ngay từ khi còn học trong nhà
trường. Không ít sinh viên quá coi trọng nơi làm việc theo ý muốn bằng mọi
cách/ kênh quan hệ tiếp cận việc làm theo ý muốn của cá nhân, gia đình với
2
mong muốn có cơ hội được làm việc ở thành phố lớn hoặc gần nhà, đơn vị có
cơ hội thu nhập cao, nâng cao trình độ, dễ thăng tiến, môi trường làm việc an
toàn, ít rủi ro, v.v…
Nhìn từ góc độ quản lý của ngành Công an, vấn đề này có ảnh hướng
rất lớn đến chất lượng đào tạo và hiệu quả hoạt động của lực lượng/ngành
Công an trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng với quốc tế. Đây chính là
lý do nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Tiếp cận thông tin về việc làm của
sinh viên công an nhân dân” là một trong số chuyên đề của chương trình đào
tạo nghiên cứu sinh nhằm góp phần làm rõ một số khía cạnh liên quan đến
định hướng nghề nghiệp của sinh viên CAND hiện nay.
1.2 Câu hỏi, mục tiêu và khái niệm chính cho nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu:
+ Tìm hiểu các kênh thông tin về việc làm mà các nhóm sinh viên công
an nhân dân đang quan tâm, đồng thời nhận diện khó khăn và chiến lược xin
việc của các nhóm sinh viên công an nhân dân.
+ Nhận diện các yếu tố chi phối kênh tiếp cận thông tin về việc làm và
chiến lược chuẩn bị cho việc làm của các nhóm sinh viên công an nhân dân.
+ Đề xuất một số khuyến nghị khoa học nhằm giúp Học viện An ninh
nhân dân (viết tắt là HVAN) và Bộ Công an giới thiệu và định hướng kênh
thông tin việc làm để sinh viên có định hướng việc làm đúng với mong đợi
của ngành khi ra trường.
- Câu hỏi nghiên cứu:
Để làm rõ kênh tiếp cận thông tin về việc làm sau khi ra trường của
sinh viên tại Học viện An ninh Nhân dân hiện nay, chuyên đề này sẽ trả lời ba
câu hỏi nghiên cứu sau:
3
+ Sinh viên công an nhân dân đang quan tâm đến kênh nào để cung cấp
thông tin về việc làm cho bản thân họ?
+ Khó khăn xin việc theo ý muốn và các kế hoạch/chiến lược xin việc
làm của sinh viên hiện nay là những khó khăn gì?
+ Yếu tố nào chi phối việc tiếp cận các kênh thông tin về việc làm và
chiến lược xin việc làm của các nhóm sinh viên công an nhân dân hiện nay?
- Khái niệm chính cho nghiên cứu:
+ Kênh thông tin việc làm: Là kênh thông tin mà sinh viên tiếp cận để
tìm kiếm thông tin về nơi làm việc sau khi ra trường. Kênh thông tin này bao
gồm 2 loại kênh. Đó là kênh chính thức và không chính thức.
Kênh chính thức: như kênh thông tin từ phía thầy cô giáo, nhà trường,
ngành công an.
Kênh phi chính thức: kênh thông tin từ người thân trong gia đình, họ
hàng, bạn bè, đồng hương, v.v...
Khó khăn trong tiếp cận thông tin việc làm được đề cập như không có
quan hệ quen biết, không biết cơ quan nào tuyển dụng, gia đình không có điều
kiện kinh tế, trình độ chuyên môn không đáp ứng, v.v…
+ Chiến lược tìm kiếm việc làm: Chiến lược tìm kiếm việc làm của sinh
viên được quan tâm tìm hiểu là tập trung học tập, nhờ người thân trong gia
đình giúp đỡ, chuẩn bị tài chính để cho xin việc, v.v…
+ Sinh viên CAND: Là nhóm sinh viên trực thuộc lực lượng vũ trang,
được đào tạo trong các học viện, trường đại học, cao đẳng….CAND. Đó là
nhóm sinh viên có những đặc thù về quy trình đào tạo, kiến thức kỹ năng sau
khi ra trường.
4
1.3 Giả thuyết nghiên cứu, nguồn số liệu và khung phân tích
- Giả thuyết nghiên cứu
+ Sinh viên công an nhân dân có nhiều kênh tiếp cận thông tin về việc
làm, trong đó, kênh tiếp cận không chính thức là kênh đang được nhiều sinh
viên quan tâm nhất.
+ Yếu tố cá nhân và đặc điểm gia đình chi phối việc tiếp cận kênh
thông tin về việc làm của các nhóm sinh viên CAND hiện nay, trong đó nhóm
sinh viên 3 năm đầu ít quan tâm đến kênh thông tin về việc làm so với nhóm
sinh viên 2 năm cuối, sinh viên nữ ít quan tâm kênh thông tin việc làm so với
sinh viên nam.
+ Những sinh viên thuộc gia đình có mức sống khá giả, sống ở thành
thị, nghề nghiệp của cha mẹ là cán bộ ít quan tâm đến kênh thông tin việc làm
so với sinh viên gia đình mức sống trung bình, nghèo, sống ở nông thôn, nghề
của cha mẹ là nông dân.
- Nguồn dữ liệu
Các dữ liệu cho phân tích chuyên đề này chủ yếu dựa vào nguồn tài
liệu thứ cấp và số liệu khảo sát định lượng, định tính được tiến hành tại Học
viện An ninh từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2014.
Dữ liệu thứ cấp bao gồm: các công trình nghiên cứu đã công bố, các bài
báo, báo cáo khoa học đã công bố trong các hội thảo, hội nghị khoa học của
Học viện An ninh Nhân dân và ngành Công an.
Dung lượng mẫu 626 sinh viên tham gia trả lời phỏng vấn bảng hỏi.
Các tiêu chí phản ánh cơ cấu mẫu theo các chỉ báo/ biến số cá nhân được
quan tâm trong quá trình chọn mẫu nghiên cứu.
5
Kết quả khảo sát định tính: với mẫu phỏng vấn sâu cá nhân 45 trường
hợp, thành phần gồm sinh viên từ năm thứ nhất đến năm cuối, giáo viên, và
cán bộ một số phòng ban như phòng Đào tạo, phòng Quản lý sinh viên của
học viện ANND1.
- Biến số phân tích
Để nhận diện được tiếp cận thông tin về việc làm của các nhóm sinh
viên cũng như lý giải khác biệt trong việc tiếp cận thông tin về việc làm của
các nhóm sinh viên CAND, chuyên đề này dựa vào các nhóm biến số sau:
Biến số độc lập gồm: 1) Đặc điểm cá nhân: năm học, giới tính; 2) Hoàn
cảnh gia đình: nơi ở gia đình, mức sống gia đình, nghề nghiệp cha mẹ.
Biến số phụ thuộc: kênh tiếp cận thông tin việc làm, khó khăn xin việc
và chuẩn bị chiến lược khi ra trường của sinh viên công an nhân dân.
Ngoài ra, các biến số trung gian như quy trình tuyển sinh, đào tạo, sắp
xếp việc làm của nhà trường, thiết chế của ngành, bối cảnh xã hội hiện nay
cũng được quan tâm xem xét nhằm làm rõ tác động đến vấn đề tiếp cận việc
làm của các nhóm sinh viên CAND hiện nay.
1
Cơ cấu mẫu và quy trình khảo sát của cuộc nghiên cứu này được trình bày chi tiết
trong đề cương nghiên cứu của Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Hiên được lưu tại Khoa Xã
hội học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
6
2. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
2.1 Kênh tiếp cận thông tin việc làm của sinh viên công an nhân
dân(CAND)
2.1.1 Kênh thông tin việc làm
Thông tin về việc làm sau khi ra trường là vấn đề quan trọng thu hút
mối quan tâm của mỗi sinh viên ngay từ khi con ngồi trên giảng đường đại
học. Nghiên cứu của Phạm Tất Thắng (2009) về “Định hướng giá trị của sinh
viên” được khảo sát tại 11 trường đại học thuộc trường khối dân sự ở Hà Nội
cho thấy sinh viên tiếp cận nhiều kênh thông tin về việc làm sau khi ra trường
như là thông tin từ các mục tuyển dụng việc làm của các tờ báo, cho đến kênh
bạn bè, người thân trong gia đình, v.v... Điều đáng quan tâm là kết quả cuộc
nghiên cứu này cho thấy kênh thông tin việc làm từ phía gia đình, người thân
họ hàng có ảnh hưởng quan trọng đối với quá trình xin việc của mỗi sinh
viên.
Câu hỏi nghiên cứu đặt ra là trong bối cảnh hiện nay sinh viên công an
nhân dân có quan tâm đến thông tin về việc làm sau khi ra trường như thế
nào?
Trả lời câu hỏi “Bạn biết thông tin về viêc làm qua nguồn thông tin
nào”? Các phương án trả lời được nêu ra như:
1) Nhà trường thông báo
2) Ngành thông báo
3) Người trong gia đình và họ hàng
4) Bạn bè, đồng hương và người quen.
Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên trong mẫu phỏng vấn tiếp cận việc
làm rất đa dạng. Điều đáng quan tâm là kênh thông tin của nhà trường thông
7
báo và qua người trong gia đình, họ hàng thu hút sự quan tâm của sinh viên
và có tỷ lệ cao tương đương nhau (Xem thêm biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Tỷ lệ tiếp cận thông tin việc làm qua các kênh
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài tại Học viện An ninh Nhân dân năm 2014
Các thông tin phỏng vấn sâu sinh viên cũng cho kết quả tương đối
thống nhất với khảo sát định lượng.
Sự quan tâm của sinh viên về vấn đề thông tin việc làm thể hiện khá
đồng đều ở cả 2 nhóm sinh viên: nhóm 3 đầu và nhóm sinh viên 2 năm cuối.
Kênh thông tin mà sinh viên tham khảo là khá đa dạng. Từ thông tin của
người thân trong gia đình đến thông tin từ bạn bè, người quen.
Hộp 1: Ý kiến của sinh viên về kênh tiếp cận thông tin việc làm
- Từ khi chọn thi vào trường này, bản thân em đã được biết là sau khi ra
trường được sắp xếp công việc về đâu đó, mình không phải bận tâm về vấn
đề xin việc như học các trường khác. Chính vì vậy em và gia đình đã quyết
định chọn Học viên an ninh. Nhưng vào học em mới hiểu thêm là nếu mình
muốn có việc làm như ý cần phải liên hệ trước. Hai năm nữa em mới ra
trường, nhưng bây giờ em cũng đã hỏi một số người thân gia đình về công
việc sau khi tốt nghiệp. (Nam, sinh viên năm thứ 3, chuyên ngành Trinh sát chống
8
gián điệp Nam Định).
- Chỉ còn vài tháng nữa là chúng em ra trường. Em đã được nghe các anh
chỉ đồng hương ở khóa trên nói nếu không chủ động tìm hiểu thông tin việc
làm thì đến phút chót mới được biết mình được nhà trường/ngành phân về
đâu công tác. Nếu xảy ra điều đó thì không thuận lắm vì có thể sẽ phải điều
đi xa hoặc chỗ làm không tốt. Theo lời khuyên của các anh chị em đã chủ
động bảo bố mẹ đến nhờ chú cùng họ hàng làm ở Công an thành phố Hà Nội
xem chỗ nào có chỉ tiêu thì em xin về (Nam, sinh viên năm thứ năm, chuyên ngành
Điều tra tội phạm, Hà Nội).
Ngay cả những thông tin từ người đồng hương từ các anh chị khóa trên
cũng là thông tin rất được sinh viên CAND quan tâm, đôi khi họ còn coi đó là
nguồn thông tin rất quan trọng.
Hộp 2. Kênh thông tin việc làm từ người quen, đồng hương trong
Học viện ANND
Về công việc khi ra trường em chỉ biết hỏi một anh chị là đồng hương học
khóa trên
đã tin
ra phỏng
trường,vấn
cácsâu
anhtiếp
chịtục
khuyên
trường
về cho
quê,thấy
gần những
nhà, em
Thông
cung em
câpra
bằng
chứng
không
biếtkhác
hỏi nhau
ai khác
vi bố
mẹtiếp
em cận
không
có quan
(Nam,
năm
thứ 3,
xu
hướng
trong
cách
thông
tin vềhệviệc
làmsinh
củaviên
sinh
viên
mứcrasống
gia đình
trung
bình,
nghềchứng
bố làm từ
nông
dân).nghiên cứu này chỉ ra rằng tiếp
khi
trường.
Như
vậy,
bằng
cuộc
cận thông tin việc làm qua người trong gia đình, họ hàng là kênh được nhiều
sinh viên coi trọng, trong khi đó kênh thông báo của ngành ít được sinh viên
chú ý. Lý do vì sao sinh viên Học viện ANND lại theo xu hướng này, điều
này sẽ được lý giải sâu hơn ở phần sau.
2.1.2 Khác biệt nhóm trong tiếp cận kênh thông tin việc làm
Các kết quả ở trên vừa cho thấy các xu hướng quan tâm đến kênh tiếp
cận thông tin việc làm của sinh viên. Câu hỏi tiếp tục đặt ra là có sự khác
9
nhau như thế nào giữa các nhóm sinh viên theo các chỉ báo đặc điểm cá nhân
và hoàn cảnh gia đình của sinh viên?
Năm học và kênh tiếp cận thông tin việc làm
Kết quả khảo sát cho thấy trong 4 kênh tiếp cận thông tin việc làm, chỉ
có kênh tiếp cận từ bạn bè có tỷ lệ tương đương nhau giữa hai nhóm sinh
viên, các kênh tiếp cận thông tin còn lại như: nhà trường, ngành thông báo,
người trong gia đình cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm sinh viên ba
năm đầu và hai năm cuối. Chẳng hạn, ở hình thức kênh tiếp cận việc làm qua
nhà trường thông báo, trong khi có đến 33,2% số sinh viên hai năm cuối chọn
kênh này thì tỷ lệ này ở sinh viên ba năm học đầu là 29,7%. Tương tự, ở hình
thức kênh tiếp cận ngành thông báo và qua người trong gia đình, họ hàng
cũng thể hiện sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm sinh viên (Xem bảng 1).
Bảng 1: Năm học và kênh tiếp cận thông tin việc làm (Đơn vị %)
TT
Sinh viên năm học
Ba nămđầu Hai nămcuối
Kênh tiếp cận thông tin việc làm
1
Nhà trường thông báo
2
Bạn bè, đồng hương, người
quen
Chung
29.7
33.2
16.0
16.5
15.2
22.4
3
Ngành thông báo
20.3
25.4
30.5
4
Người trong gia đình, họ hàng
33.5
26.2
16.0
370
256
626
N
* Ghi chú: kết quả kiểm định X2 (3) = 5.18; P = 0.159
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài tại Học viện An ninh Nhân dân năm 2014
Giới và kênh tiếp cận thông tin việc làm
10
Giới tính sinh viên và kênh tiếp cận thông tin việc làm cũng là chỉ báo
được quan tâm trong nghiên cứu này. Theo số liệu thống kê của Học viện An
ninh, năm học 2013-2014, sinh viên nữ chiếm tỷ lệ 15% tổng số sinh viên
của học viện. Trong mẫu nghiên cứu, số sinh viên nữ cũng chỉ chiếm khoảng
1/5 tổng mẫu khảo sát của cuộc nghiên cứu này. Xử lý kết quả khảo sát cho
thấy có sự khác biệt đáng kể giữa sinh viên nam và nữ trong tiếp cận các
thông tin việc làm. Trong khi sinh viên nam có xu hướng chú trọng tiếp cận
thông tin việc làm qua kênh nhà trường và ngành thì sinh viên nữ lại quan tâm
nhiều hơn đến kênh người thân gia đình (Xem bảng 2).
Bảng 2: Giới tính và kênh tiếp cận thông tin việc làm (Đơn vị %)
TT
Kênh tiếp cận thông tin việc
Giới tính
làm
Nam
Nữ
Chung
1
Nhà trường thông báo
30.2
27.6
31.2
2
Bạn bè, đồng hương, người quen
16.3
14.3
16.0
3
Ngành thông báo
30.9
21.4
22.4
4
Người trong gia đình, họ hàng
22.6
36.7
30.5
514
112
626
N
* Ghi chú: kết quả kiểm định X2 (3) = 1.37; P = 0.71
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài tại Học viện An ninh Nhân dân năm 2014
Khác biệt giới trong tiếp cận thông tin việc làm cũng được phản ánh rất rõ
trong các cuộc phỏng vấn sâu nam, nữ sinh viên đang theo học tại Học viện
An ninh nhân dân
Hộp 3. Giới tính và nguyện vọng khi ra trường của sinh viên CAND
11
-
Hai năm nữa mới ra trường nhưng em đã chủ động tìm hiểu thông tin về
việc làm qua rất nhiều nguồn khác nhau. Đặc biệt là từ các anh chị khóa
trên chuẩn bị ra trường. Em thấy nguồn thông tin từ phía Học viện và
Ngành thông báo là những nguồn thông tin vô cùng quan trọng đối với
chúng em. Muốn xin được việc cũng phải dựa trên nguồn thông tin này là
chính (Nam sinh viên năm thứ 2, chuyên ngành Trinh sát chống phản động).
-
Chỉ còn vài tháng nữa là chúng em ra trường, em rất lo lắng không biết
chính sách phân công điều động của Bộ Công An và Học viện ANND
năm nay sẽ như thế nào. Em và gia đình từ lâu đã nhờ người nhà làm ở
CA tỉnh xin việc giúp em về CA tỉnh mà không biết có được không, còn
những kênh thông tin khác như trường và Ngành thông báo thông thường
chỉ em dành cho các bạn nam, còn họ rất ít lấy nữ (nữ sinh viên năm thứ
năm, chuyên ngành Trinh sát chống phản động, Thanh Hóa
Nơi ở gia đình và kênh tiếp cận thông tin về việc làm
Nơi ở gia đình cũng được xem là biến số quan trọng chi phối kênh tiếp
cận thông tin việc làm sau khi ra trường của các nhóm sinh viên công an nhân
dân hiện nay. Kết quả khảo sát cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa hai
nhóm sinh viên nông thôn và đô thị. Cụ thể là trong khi nhóm sinh viên có
nguồn gốc nơi ở nông thôn có xu hướng quan tâm đến kênh thông tin việc
làm từ nhà trường và bạn bè, đồng hương (32,3% và 17,4%) thì sinh viên gia
đình sống ở đô thị lại hướng đến các kênh thông tin từ người trong gia đình
(33,5%).
Biểu đồ 2: Nơi ở gia đình và kênh tiếp cận thông tin việc làm (Đơn vị%)
12
Các thông tin phỏng vấn sâu về nơi ở của gia đình với kênh tiếp cận
thông tin việc làm cũng cho kết quả là nơi cư trú và nghề nghiệp của bố mẹ rõ
ràng có ảnh hưởng không nhỏ đối với định hướng việc làm của sinh viên khi
ra trường (Xem hộp 4).
Hộp 4. Nghề nghiệp của bố mẹ sinh viên và thông tin việc làm của sinh viên CAND
Khi vào học ở đây cho đến khi tốt nghiệp ra trường em chỉ biết chờ đợi
thông tin từ phía nhà trường hoặc ngành thông báo về làm việc ở đâu,
ngoài ra em không biết hỏi ai khác vì em và gia đình chẳng quen biết
nhiều (Nam, sinh viên năm thứ 4, mức sống gia đình trung bình, nghề bố làm nông
dân, Hải Dương).
Đối với sinh viên năm cuối áp lực xin việc sau khi ra trường ngày càng
rõ. Đặc biệt khi điều kiện, hoàn cảnh gia đình không khá giả thì đây là yếu tố
ảnhGia
hưởng
khábốrõmẹ
đếncũng
chiếnchẳng
lược xin
việc
củaaisinh
viênngành,
CANDra trường việc
đình,
quen
biết
trong
Hộpphân
5. Mức
sống
gia đối
đình
thông
sinh nhà
viên
về làm
ở đâu
vớivàemkênh
chỉ có
nhờ tin
vào việc
thônglàm
báocủa
từ phía
CAND
trường. Thực tế bản thân em đã được biết là học ở đây sau khi ra trường
được sắp xếp công việc về đâu đó, mình không phải bận tâm về vấn đề
13
xin việc như học các trường khác (Nam, sinh viên năm thứ 5, bố mẹ làm nông
dân, Nam Định).
Mức sống gia đình và kênh tiếp cận thông tin việc làm
Mức sống gia đình là một trong những biến số quan trọng được quan
tâm trong nghiên cứu này. Xử lý kết quả khảo sát tiếp tục cho thấy có sự khác
biệt rõ rệt theo mức sống gia đình trong việc tiếp cận thông tin việc làm. Sinh
viên thuộc gia đình có mức sống nghèo có xu hướng tiếp cận thông tin việc
làm qua kênh nhà trường thông báo và bạn bè, trong khi sinh viên thuộc gia
đình có mức sống khá giả tiếp cận thông tin việc làm qua người trong gia
đình, họ hàng với tỷ lệ cao hơn. Cụ thể, ở hình thức tiếp cận thông tin qua bạn
bè, trong khi có đến 29% sinh viên thuộc gia đình mức sống nghèo tiếp cận
thông tin qua việc làm qua bạn bè thì tỷ lệ này ở nhóm sinh việc gia đình mức
sống khá giả là 15,2%. Ngược lại, ở hình thức tiếp cận thông tin việc làm qua
kênh người trong gia đình, họ hàng, nhóm sinh viên gia đình mức sống khá
giả là 32,6%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm sinh viên thuộc mức sống gia đình
nghèo là 22,6% (Xem bảng 3).
14
Bảng 3: Mức sống gia đình và kênh tiếp cận thông tin việc làm (Đơn vị %)
TT
Kênh tiếp cận thông tin
việc làm
1
Nhà trường thông báo
2
Bạn bè, đồng hương,
người quen
3
Ngành thông báo
4
Người trong gia đình, họ
hàng
N
Mức sống gia đình
Khá
Trung
Nghèo
Chung
giả
bình
26.1
31.6
38.7
31.2
15.2
15.3
29.0
16.0
26.1
22.5
9.7
22.4
32.6
30.6
22.6
30.5
92
503
31
626
* Ghi chú: kết quả kiểm định X2 (6) = 8.41; P = 0.20
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài tại Học viện An ninh Nhân dân năm 2014
Nghề nghiệp cha mẹ và kênh tiếp cận thông tin việc làm
Trong nghiên cứu này, nghề nghiệp của cha mẹ với việc tiếp cận thông
tin việc làm của các nhóm sinh viên. Kết quả khảo sát cho thấy có sự khác
biệt rõ rệt giữa các nhóm nghề nghiệp của cha mẹ với kênh tiếp cận thông tin
việc làm của sinh viên. Bảng 4 cho thấy nhóm sinh viên có cha mẹ làm nghề
nông nghiệp có xu hướng tiếp cận thông tin việc làm qua kênh nhà trường và
ngành cao hơn hai nhóm sinh viên có cha mẹ làm nghề kinh doanh và cán bộ
công chức. Ngược lại, ở hình thức tiếp cận thông tin việc làm qua người trong
gia đình, họ hàng thì kết quả cho thấy nhóm sinh viên có cha mẹ làm nghề cán
bộ lại cao hơn so với nhóm sinh viên có cha mẹ nghề nghiệp nông dân (Xem
bảng 4).
Bảng 4: Nghề chính của cha mẹ và kênh tiếp cận thông tin việc làm (đơn vị %)
15
TT
1
Nghề chính của mẹ
Kênh tiếp cận
thông tin việc làm
Nhà trường thông
báo
Nghề chính của bố
Nông
Kinh
Cán
Nông
Kinh
Cán
dân
doanh
bộ
dân
doanh
bộ
47.2
21.0
31.8
50.8
14.8
34.4
2
Bạn bè, đồng hương
33.0
26.0
41.0
38.7
21.5
39.8
3
Ngành thông báo
41.0
19.4
39.6
34.8
22.0
43.2
4
Người
45.0
17.3
37.7
39.9
18.5
41.6
268
127
230
249
110
233
trong
đình, họ hàng
N
gia
* Ghi chú: kết quả kiểm định nghề của mẹ:
X2 (6) = 8.14; P = 0.228. Nghề của bố X2 (6) = 10.09; P = 0.121
(Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài tại Học viện An ninh Nhân dân năm 2014)
Các phân tích trên đã cho thấy các biến số cá nhân và hoàn cảnh gia
đình có ảnh hưởng đến các kênh tiếp cận thông tin việc làm của các nhóm
sinh viên. Các số liệu khảo sát định tính cũng phản ánh kết quả tương tự
(Hộp 5)
Cụ thể trong mẫu phỏng vấn sâu đa số trường hợp các sinh viên có bố
mẹ làm nghề cán bộ nhà nước, đặc biệt là người trong ngành Công an thì các
sinh viên này khá bình tĩnh trước các thông tin về việc làm sau khi tốt nghiệp
Hộp 6: Nghề nghiệp của bố mẹ sinh viên và sự chi phối kênh tiếp cận
thông tin việc làm của sinh viên
Bố mẹ em cũng là người trong ngành nên em chọn học ngành này là
theo định hướngchọn nghề của bố mẹ . Thực tế hiện nay học em chỉ biết học
cho thật tốt và chấp hành nghiêm túc nội quy, điều lệnh nội vụ của nhà
trường chứ bản thân em cũng không phải
16 quan tâm đến việc làm ở đâu. Điều
đó bố mẹ sẽ lo liệu cho em khi ra trường (Nữ, sinh viên năm thứ hai, thành thị, Tỉnh
Hòa Bình).
Những sinh viên có bố mẹ làm nghề nông nghiệp cũng tin tưởng rằng
ra trường sẽ được phân công việc phù hợp với chuyên môn được đào tạo. Họ
không quan tâm nhiều đến những kênh thông tin khác.
Hộp 7. Nghề nghiệp của bố mẹ sinh viên là nông dân và ở khu vực nông
thôn và sự ảnh hưởng đến kênh thông tin tiếp cận việc làm của sinh viên
- Em cũng được biết ngành công an, quân đội học không phải đóng góp, ra
trường còn được phân công công việc. Em học trường này hy vọng nhà
trường sẽ phân công công việc phù hợp. Bản thân em và gia đình cũng không
quen biết nhiều vì bố mẹ em ở nông thôn, nên chủ yếu em sẽ căn cứ vào chính
sách tiếp nhận sỹ quan của Ngành sau khi ra trường. (Nam, sinh viên năm thứ tư,
nông thôn, Quảng Ninh).
Như vậy, các thông tin phỏng vấn sâu tiếp tục cho thấy đặc điểm cá
nhân và hoàn cảnh gia đình, nhất là nơi ở gia đình, nghề nghiệp của cha mẹ,
mức sống gia đình có liên quan đến việc tiếp cận thông tin về việc làm của
các nhóm sinh viên học viện An ninh hiện nay.
Về kênh tiếp cận thông tin việc làm, sinh viên năm cuối quan tâm đến
kênh thông tin việc làm nhiều hơn so với nhóm sinh viên năm đầu. Kênh tiếp
cận thông tin việc làm của sinh viên nam chủ yếu là nhà trường và ngành,
trong khi sinh viên nữ lại quan tâm đến kênh người trong gia đình, họ hàng.
Nhóm sinh viên có gia đình ở đô thị và nhóm sinh viên cha mẹ làm cán bộ,
nhóm sinh viên gia đình mức sống khá giả có xu hướng tiếp cận thông tin
việc làm chủ yếu qua kênh người trong gia đình, họ hàng trong khi sinh viên
17
có gia đình ở nông thôn, bố mẹ làm nghề nông dân, sinh viên mức sống nghèo
có xu hướng tiếp cận việc làm thông qua trường và ngành.
2.2.
Khó khăn và chiến lược tìm việc theo ý muốn của sinh viên khi ra
trường
Các dẫn chứng và phân tích ở phần trên đã cho thấy việc tiếp cận các
thông tin về việc làm và một số khác biệt trong việc tiếp cận kênh thông tin
việc làm của các nhóm sinh viên CAND, trong phần này chuyên đề tiếp tục
làm rõ suy nghĩ về khó khăn và chiến lược tìm việc làm theo ý muốn khi ra
trường của các nhóm sinh viên công an nhân dân hiện nay.
2.2.1 Khó khăn xin việc làm theo ý muốn
Như đã nêu ở phần mở đầu, sinh viên theo học Học viện An ninh nhân
dân có đặc thù so với các trường khối dân sự về sự sắp xếp, phân công việc
làm sau khi tốt nghiệp ra trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay không ít
sinh viên có suy nghĩ và mong muốn tìm được nơi làm việc gần nhà, hoặc
môi trường làm việc có thu nhập cao, thăng tiến địa vị xã hội. Thực tế này dẫn
đến xu hướng không ít sinh viên lo lắng về việc làm đúng ngành nghề, môi
trường làm việc gần nhà, đúng theo ý muốn của bản thân và gia đình. Vậy câu
hỏi đặt ra là sinh viên Học viện ANND có suy nghĩ thế nào về khó khăn xin
việc làm theo ý muốn khi ra trường?
Trả lời câu hỏi “Theo bạn, khó khăn lớn nhất trong xin việc làm theo ý
muốn đối với bạn là như thế nào”? Kết quả khảo sát cho thấy trong tổng số
626 sinh viên trong mẫu phỏng vấn có đến 51,4% cho biết không có quan hệ
quen biết, không biết cơ quan nào cần, trong khi trả lời phương án chưa nghĩ
đến là 28,9%, không có tiền là 11,5% và trình độ chưa đáp ứng là 8,1% (Xem
thêm biểu đồ 3).
18
Biểu đồ 3: Ý kiến về khó khăn xin việc làm theo ý muốn của sinh viên
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài tại Học viện An ninh Nhân dân năm 2014
Các dẫn chứng và phân tich trên cho thấy suy nghĩ và quan điểm khác nhau
về khó khăn đối với vấn đề xin việc làm theo ý muốn của sinh viên CAND
hiện nay. Vậy có sự khác biệt thế nào giữa các nhóm sinh viên theo các nhóm
chỉ báo cá nhân và hoàn cảnh gia đình?
Về năm học và khó khăn xin việc làm theo ý muốn, kết quả khảo sát
cho thấy có sự chênh lệch giữa sinh viên các năm học và hình thức khó khăn
khi xin việc làm theo ý muốn. Tuy nhiên, mức độ chênh lệch này giữa các
nhóm sinh viên là không đáng kể, chẳng hạn, ở phương án trả lời khó khăn
khi xin việc làm theo ý muốn là không có quan hệ sinh viên hai năm cuối là
54,3% trong khi tỷ lệ này ở nhóm sinh viên ba năm đầu là 49,5%. Các
phương án như gia đình không có tiền, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng,
19
chưa nghĩ đến cũng có sự chênh lệch thấp tương tự. Điều này phản ánh suy
nghĩ của các nhóm sinh viên tương đối thống nhất (Xem bảng 4).
Bảng 5: Năm học và khó khăn xin việc theo ý muốn (Đơn vị %)
TT
Khó khăn xin việc làm
theo ý muốn
Sinh viên năm học
Ba năm đầu
Hai năm cuối
Chung
1
Không có quan hệ XH
49.5
54.3
51.4
2
Không có tiền
11.1
12.1
11.5
3
Trình độ chuyên môn chưa
8.6
7.4
8.1
Chưa nghĩ đến
30.8
26.2
28.9
N
370
256
626
đáp ứng
4
* Ghi chú: kết quả kiểm định:
X2 (3) = 2.22; P = 0.525
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài tại Học viện An ninh Nhân dân năm 2014
Kết quả xử lý tương quan giới tính và các hình thức khó khăn xin việc
làm theo ý muốn cũng cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm sinh viên
nam và nữ trong vấn đề khó khăn xin việc làm theo ý muốn. Chẳng hạn, ở
hình thức lý do khó khăn không có quan hệ, có đến 49,1% ý kiến sinh viên nữ
cho rằng khó khăn xin việc không có quan hệ xã hội, trong khi tỷ lệ này ở
nhóm sinh viên nam là 51,9%. Tương tự, ở lý do chưa nghĩ đến nam giới là
30,7%, nữ là 20,5%. Tuy nhiên, ở hai lý do không có tiền, trình độ chuyên
môn chưa đáp ứng thì tỷ lệ trả lời ở nhóm sinh viên nữ cao hơn đáng kể (gia
đình không có tiền: nam 10,3%, nữ 17%; trình độ chuyên môn chưa đáp ứng:
nam 7%, nữ 13,4%).
Biểu đồ 3: Nơi ở gia đình và khó khăn xin việc làm theo ý muốn
20
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài tại Học viện An ninh Nhân dân năm 2014
Mức sống gia đình và khó khăn xin việc làm theo ý muốn
Mức sống gia đình cũng được xem là chỉ báo có ảnh hưởng nhiều đến
khó khăn xin việc làm theo ý muốn của sinh viên. Xử lý kết quả khảo sát cho
thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm sinh viên trong mẫu khảo sát. Trong
khi sinh viên thuộc nhóm gia đình có mức sống trung bình, và nghèo trả lời lo
ngại về không có quan hệ, không có tiền thì nhóm sinh viên thuộc gia đình có
mức sống giàu lại lo lắng trình độ chuyên môn chưa đáp ứng.
21
Bảng 6: Mức sống gia đình và khó khăn xin việc theo ý muốn (Đơn vị %)
TT
Khó khăn xin việc làm
theo ý muốn
Mức sống gia đình
Khá giả
Trung
Chung
Nghèo
bình
1
Không có quan hệ xã hội
48.9
51.7
54.8
51.4
2
Không có tiền để xin việc
8.7
11.9
12.9
11.5
3
Trình độ chuyên môn chưa đáp
9.8
8.0
6.5
8.1
32.6
28.4
25.8
28.9
92
503
31
626
ứng
4
Chưa nghĩ đến
N
* Ghi chú: kết quả kiểm định:
X2 (6) = 1.96; P = 0.923
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài tại Học viện An ninh Nhân dân năm 2014
Có thể nói, vấn đề xin việc làm theo ý muốn là một chủ đề nhạy cảm,
rất khó khai thác thông tin từ người trả lời. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã cố
gắng khai thác các thông tin này từ bảng hỏi khảo sát định lượng. Kết quả
định lượng đã cho thấy tương đối rõ nét suy nghĩ về khó khăn trong xin việc
làm theo ý muốn của các nhóm sinh viên công an nhân dân hiện nay. Trong
các cuộc phỏng vấn sâu sinh viên, người nghiên cứu đã thảo luận kỹ hơn với
các sinh viên trong mẫu phỏng vấn sâu về vấn đề này. Dưới đây là một số dẫn
chứng liên quan về những suy nghĩ khó khăn khi xin việc làm theo ý muốn
của các nhóm sinh viên CAND hiện nay.
Khó khăn này thể hiện rõ ngay ở nhóm sinh viên mới học những năm
đầu tiên tại trường (nhóm sinh viên 2 năm đầu). Đặc biệt là những sinh viên
có gia đình thuộc mức sống nghèo và trung bình, bố mẹ và bản thân các sinh
viên không có các mối quan hệ xã hội giúp họ có thể xin được việc làm như
mong muốn. Kết quả phỏng vấn sâu thể hiện rõ tâm trạng lo lắng khi ra
trường. Mặc dù còn khá xa thời điểm ra trường. Đối với những sinh viên năm
cuối thì sự lo lắng này càng thể hiện rõ hơn (xem hộp 7).
22
Hộp 8: Khó khăn xin việc theo ý muốn của sinh viên
- Mới là sinh viên bước vào năm thứ hai nhưng bản thân em rất lo lắng về
khâu xin việc khi ra trường. Em rất mong muốn được làm đúng ngành đã
học và được làm gần nhà để không phải xa gia đình, nhưng không biết điều
này có trở thành hiện thực không vì gia đình em không có quan hệ xã hội và
hơn nữa cũng không có điều kiện kinh tế như các bạn khác (Nam, sinh viên
năm thứ hai, mức sống gia đình trung bình, Hải Dương).
- So với các bạn thì hoàn cảnh của em khó khăn hơn rất nhiều. Bản thân em
cũng có suy nghĩ và mong muốn được làm việc ở môi trường đúng chuyên
môn, có điều kiện phát triển, gần nhà nhưng khó được như ý muốn mình,
điều đó phụ thuộc vào nhà trường và ngành phân công (Nam, sinh viên năm thứ
năm, nông thôn, mức sống gia đình trung bình).
Ngược lại đối với những sinh viên có gia đình thuộc mức sống khá giả,
giàu có thì vấn đề việc làm cũng chưa phải là mối quan tâm lớn nhất (xem
hộp 8).
Hộp 9. Mức sống gia đình khá giả của sinh viên và sự ảnh hưởng đến
kênh thông tin việc làm
Thực tế đối với em chỉ tập trung học thôi không phải quan tâm đến việc làm ở
đâu. Điều đó bố mẹ sẽ lo liệu cho em khi ra trường bởi vì gia đình em cũng có
điều kiện kinh tế, em không phải bận tâm nhiều về vấn đề này ạ. (Nữ, sinh viên
Như vậy, thông tin định lượng và định tính đã cho thấy rất rõ một số
năm thứ hai, thành thị, mức sống gia đình khá giả, Hòa Bình).
khía cạnh liên quan đến suy nghĩ khó khăn khi xin việc làm theo ý muốn của
các nhóm sinh viên hiện nay. Điều đáng quan tâm là cả hai nguồn thông tin
này đã phản ánh kết quả tương đối thống nhất về khó khăn đang đặt ra đối với
mỗi nhóm sinh viên CAND. Trong khi nhóm sinh viên thuộc khối các trường
dân sự chưa đặt ra thành mối quan tâm duy nhất và quan trọng nhất. Điều này
sẽ phần nào chi phối sự quan tâm đến học tập cũng như chiến lược xin việc
23
làm của các nhóm sinh viên CAND hiện nay. Thực tế này sẽ được làm rõ
trong các dẫn chứng và phân tích ở phần dưới đây.
2.2.2 Chiến lược tìm việc làm của sinh viên CAND
Dẫn chứng và phân tích ở hai phần trên đã cho thấy kênh tiếp cận cũng
như suy nghĩ về khó khăn xin việc làm theo ý muốn của sinh viên. Trong
phần này chuyên đề tiếp tục tìm hiểu chiến lược tìm việc làm của sinh viên
sau khi ra trường. Có thể nói, chiến lược tìm việc làm là một nội dung tương
đối rộng, bao hàm nhiều khía cạch khác nhau phản ánh kế hoạch chuẩn bị của
mỗi sinh viên cho công việc của họ trong tương lai. Đây cũng được xem là
một vấn đề nhạy cảm, khó khai thác, nhất là đối với nhóm sinh viên CAND những người học ngành học này sẽ được ngành sắp xếp việc làm, theo tinh
thần mỗi sinh viên sau khi nhận tấm bằng tốt nghiệp sẵn sang đi bất cứ nơi
đâu, làm bất cứ việc gì mà ngành và tổ chức phân công. Tuy nhiên, thực tế
hiện nay không phải diễn ra đúng như vậy, do đó chúng tôi đã thiết kế câu hỏi
nhằm khai thác thông tin liên quan đến khía cạnh này của mỗi sinh viên.
Như đã nêu ở phần mở đầu, câu hỏi sẽ được làm rõ là trong bối cảnh
hiện nay các nhóm sinh viên có những kế hoạch và chiến lược gì cho công
việc tương lai khi ra trường?
Tìm hiểu chiến lược việc làm của sinh viên công an nhân dân, trong
nghiên cứu này chúng tôi quan tâm đến các khía cạnh sinh viên đang chuẩn bị
những hành trang gì cho nghề nghiệp tương lai như tập trung học tập, nhờ quan
hệ quen biết thân quen, hay tìm kiếm thông tin liên quan đến xin việc, v.v...
Kết quả khảo sát cho thấy phần lớn (76%) sinh viên trong mẫu nghiên
cứu cho biết chiến lược tập trung vào học tập tốt để chuẩn bị cho hành trang
khi ra trường. Điều đáng quan tâm là có một số lượng đáng kể (12%) sinh
viên trả lời nhờ người trong gia đình, họ hàng, (7,5%) trả lời nhờ bạn bè và
chỉ có (4,5%) sinh viên trả lời không có chiến lược gì (Xem biểu đồ 4).
24