Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

luận văn: Hành động hỏi trực tiếp trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân của Khái Hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.77 KB, 89 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự chỉ bảo,
động viên giúp đỡ của các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp và gia đình.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phạm Hùng Việt,
người thầy đã trực tiếp tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có
thể học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo của trường Đại học Hải Phòng,
Viện ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, phòng Quản lý
khoa học và Đào tạo sau đại học Trường Đại học Hải Phòng.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến gia đình, người thân,
bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận
văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hải Phòng, tháng 12 năm 2014
Tác giả

Lương Thanh Huyền

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công
trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lương Thanh Huyền

ii



MỤC LỤC

iii


CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
1. HĐNN

: Hành động ngôn ngữ

2. HĐNNTT

: Hành động ngôn ngữ trực tiếp

3. HĐNNGT

: Hành động ngôn ngữ gián tiếp

4. HĐƠL

: Hành động ở lời

5. HĐƠLGT

: Hành động ở lời gián tiếp

6. NDMĐ

: Nội dung mệnh đề


7. CHB

: Chuẩn bị

8. TL

: Tâm lí

9. CB

: Căn bản

10. HQƠL

: Hiệu quả ở lời

11. FTA

: (Face Threatening Acts) Hành vi đe dọa thể diện

12. FFA

: (Face Flattering Acts) Hành vi tôn vinh thể diện

13. CN

: Chủ ngữ

14. VN


: Vị ngữ

15. VD

: Ví dụ

16. Sp1

: (Speaker1) Người thực hiện hành động hỏi

17. Sp2

: (Speaker2) Người tiếp nhận hành động hỏi

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ngữ dụng học là một chuyên ngành của ngôn ngữ học, nghiên cứu quan hệ
giữa ngôn ngữ với người sử dụng. Một trong những nội dung cơ bản của ngữ dụng
học chính là lý thuyết về hành động ngôn ngữ. Vì vậy, các hành động ngôn ngữ
trong giao tiếp đã trở thành vấn đề nghiên cứu được nhiều người chú ý. Trong số đó
hành động hỏi được sử dụng một cách khá phổ biến theo nhiều cách khác nhau nên
thu hút được sự chú ý của nhiều người.
Thông qua giao tiếp bằng ngôn ngữ ta thấy hỏi là kiểu hành động ngôn ngữ
có tính chất phổ quát trong đời sống của con người, gợi mở nhiều hướng nghiên cứu
thú vị. Bởi bao hàm trong nó là tính phức tạp và đa diện. Hỏi không chỉ đơn thuần
để hướng đến “điều chưa biết” “cái không rõ” mà thông qua hành động hỏi còn thể

hiện cả những nét văn hóa, phong tục tập quán, tâm sinh lí … Những cách hỏi và trả
lời khác nhau sẽ để lại những dấu ấn văn hóa khác nhau. Kiểu hành động ngôn ngữ
này không chỉ có mặt trong đời sống giao tiếp hàng ngày mà còn xuất hiện dày đặc,
phong phú, đa dạng trên sách báo, trong các tác phẩm văn học. Vì thế, tìm hiểu
hành động từ cứ liệu các tác phẩm văn chương sẽ giúp chúng ta có dịp hiểu thêm về
vai trò, về tác dụng của loại hành động ngôn ngữ này trong các tác phẩm văn học
1.2. Khái Hưng là một trong những cây bút xuất sắc của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Ông là một tác gia thành công ở nhiều thể loại kịch, truyện ngắn, truyện dài, tiểu
thuyết. Những tác phẩm của ông thường đề cao tình yêu tự do, chống lại lễ giáo phong
kiến, ít nhiều mang tính cải cách xã hội. Vì vậy tác phẩm của ông được rất nhiều độc
giả đón nhận. Do đó đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về các tác phẩm của
Khái Hưng. Tuy nhiên, các đề tài này mới chỉ chủ yếu dừng lại ở khai thác khía cạnh
nội dung văn học. Việc vận dụng lý thuyết ngữ dụng học vào nghiên cứu tiểu thuyết
“Nửa chừng xuân” của Khái Hưng vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn vấn đề: “Hành động hỏi trong
tiểu thuyết Nửa chừng xuân của Khái Hưng” Làm đối tượng nghiên cứu, nhằm giúp
người đọc cảm nhận được những nét tinh tế, đặc sắc trong cách sử dụng nghệ thuật

1


ngôn từ của tác giả, đồng thời góp thêm một tiếng nói khẳng định giá trị nghệ thuật
của tác giả Khái Hưng.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Trong lịch sử ngôn ngữ học, có thể nói chưa từng có một chuyên ngành ngôn
ngữ học nào lại có một sức hấp dẫn và lôi cuốn được rất nhiều nhà ngôn ngữ học
như ngữ dụng học. Trên thế giới, ngữ dụng học xuất hiện ngay từ nửa đầu thế kỉ
XX với hàng loạt tên tuổi các nhà nghiên cứu như: J.L. Austin, J.R. Searle, J.J.Katz,
Ballmer, Bernestuhl, G.Yule…Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu được xem là những
người có công mở đường cho ngành ngữ dụng học nước nhà như Đỗ Hữu Châu

(1993, 2001), Nguyễn Đức Dân (1998), Nguyễn Thiện Giáp (2000), ..
Năm 1993, trong cuốn “Đại cương ngôn ngữ học” viết chung với Bùi Minh
Toán, Đỗ Hữu Châu đã có một chương về ngữ dụng học. Lần đầu tiên tác giả đã
đưa ra một cái nhìn toàn cảnh với những tri thức khái quát có tác dụng định hướng
cho chuyên ngành này. Trong các nội dung được trình bày, phần viết về hành vi
ngôn ngữ đã nêu lên những khái niệm rất cơ bản về các hành vi ngôn ngữ, về biểu
thức ngữ vi và động từ ngữ vi, về cấu trúc của hành vi ở lời và điều kiện sử dụng
hành vi ở lời, phân loại các hành vi ngôn ngữ. Tác giả cũng đã chú trọng trình bày
những vấn đề hiện nay của các hành vi ở lời và nêu lên những điểm rất cơ bản về
hành vi ở lời gián tiếp (phái sinh).
Năm 1998, cuốn “Ngữ dụng học”, tập một của tác giả Nguyễn Đức Dân với
những cơ sở lí thuyết khá căn bản về dụng học cũng đề cập đến vấn đề hành động
ngôn ngữ. Năm 2000, tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Dụng học Việt ngữ”
đã lý giải một số một số vấn đề thuộc ngữ dụng học áp dụng vào tiếng Việt.
Năm 2001, tác giả Đỗ Hữu Châu đã cho tái bản có sửa chữa và bổ sung phần
Ngữ dụng học trong cuốn “Đại cương ngôn ngữ học” viết chung với Bùi Minh
Toán (1993) thành giáo trình “Đại cương ngôn ngữ học”, tập hai, phần Ngữ dụng
học. Trong đó, các vấn đề thuộc chuyên ngành ngữ dụng học được trình bày một
cách hệ thống và chi tiết. Ở giáo trình này, ngoài việc trình bày những quan niệm
khác nhau của các nhà ngữ dụng học trên thế giới, tác giả còn đưa ra những quan
niệm và kiến giải của riêng mình về các vấn đề ngữ dụng học.

2


2.2. Câu hỏi là một trong bốn kiểu câu phân theo mục đích nói năng: Câu tường
thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán và câu cầu khiến. Việc phân chia như trên được
đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp học
Từ cuối những năm 80 trở lại đây, ở Việt Nam vấn đề hành vi ngôn ngữ đã
thu hút được nhiều sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ học. Các công trình nghiên

cứu về hành vi ngôn ngữ nói chung và hành động hỏi nói riêng đã được đưa vào
giảng dạy trong các trường học.
Đến nay, đã có nhiều công trình khoa học chọn hành động hỏi làm đối tượng
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số công trình như:
Hoàng Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Việt – câu, Nxb Đại học và trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thìn, Câu nghi vấn tiếng Việt, một số kiểu câu nghi vấn không
dùng để hỏi, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, Hà Nội.
Nguyễn Thị Lương, Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu thị
các hành vi ngôn ngữ, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, Hà Nội.
Lê Đông, Ngữ nghĩa – Ngữ dụng câu hỏi chính danh, Luận án PTS khoa
học, Ngữ văn, Hà Nội.
Lê Anh Xuân, Câu trả lời gián tiếp có nghĩa hàm ẩn cho câu hỏi chính danh,
Luận án TS Ngữ văn, Hà Nội.
Trịnh Minh Thành, Câu hỏi trong truyện kiều của Nguyễn Du và việc sử
dụng câu hỏi để biểu thị mục đích nói, Luận văn thạc sĩ.
Lê Thị Thu Hoài đã bảo vệ luận án “Ngữ nghĩa, ngữ dụng của câu hỏi tu từ
trong Tiếng Việt” Luận án TS Ngữ văn, Hà Nội.
Đàm Thị Vân Anh, Hành động hỏi trong thơ Xuân Quỳnh, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Hải Phòng.
Hoàng Thị Tưới, Đặc điểm ngôn ngữ giới tính trong phát ngôn hỏi và hồi
đáp hỏi qua tác phẩm của Nam Cao, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Hải Phòng.
Nguyễn Thị Hồng Toan, Hành động hỏi trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Hải Phòng.

3


Nguyễn Thị Huyền, Hành động hỏi và hồi đáp hỏi trong truyện ngắn Kim
Lân, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Hải Phòng.

Nguyễn Thị Hằng, Hành vi hỏi và hồi đáp hỏi trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Hải Phòng.
Hồ Thị Phương Trang, Hành động hỏi trong thơ Tố Hữu, Luận văn thạc sĩ,
Đại học Sư phạm Thái Nguyên., 2012.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên đây còn phải kể đến một số bài viết như:
Câu trả lời và câu đáp của câu hỏi, Lê Đông, Ngôn ngữ (số phụ), 1985.
Thử tìm hiểu phát ngôn hỏi và phát ngôn trả lời trong sự tương tác lẫn nhau
giữa chúng trên bình diện giao tiếp, Nguyễn Chí Hòa, Ngôn ngữ số 1, 1993.
Vai trò của thông tin tiền giả định trong cấu trúc ngữ nghĩa – ngữ dụng của
câu hỏi, Lê Đông, Ngôn ngữ số 2, 1994.
Một vài đặc điểm chung của câu nghi vấn (qua ngôn liệu một số ngôn ngữ),
Nguyễn Đăng Sửu, kỉ yếu hội thảo Ngữ học trẻ, 1998.
Một số tiểu từ tình thái đứng cuối câu dùng để hỏi, Nguyễn Thị Tuyết Mai,
những vấn đề ngôn ngữ học, Kỉ yếu hội nghị khoa học 2001, Viện ngôn ngữ học.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về câu hỏi, về hành động hỏi nói
chung cũng như đi vào một số lĩnh vực cụ thể, xem xét hành động hỏi thể hiện trong
một thể loại văn học, ở một tác giả, v.v. Các công trình nghiên cứu này thực sự là
cơ sở lý thuyết và thực tiễn vô cùng quan trọng và cần thiết đối với chúng tôi trong
quá trình triển khai đề tài.
3 . Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm rõ hành động hỏi trong tiểu thuyết “Nửa chừng xuân” của Khái Hưng,
để từ đó thấy được các tác dụng của loại hành động này trong việc thể hiện nội dung
tiểu thuyết cũng như thể hiện phong cách của tác giả.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đề ra, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ:
- Trình bày các vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu hành động hỏi trong tiểu thuyết “Nửa chừng xuân” của Khái Hưng

4



- Phân tích để thấy được cách sử dụng hành động hỏi trong tiểu thuyết : “Nửa
chừng xuân” của Khái Hưng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của đề tài này là: Hành động hỏi trong tiểu thuyết “Nửa chừng
xuân” của Khái Hưng ở hai dạng: hành động hỏi trực tiếp (hành động hỏi thực hiện
đúng mục đích hỏi) và hành động hỏi thực hiện các mục đích khác.). Riêng dạng
hành động hỏi gián tiếp (Hành động hỏi được thực hiện thông qua hành động ngôn
ngữ khác), do tính chất chất phức tạp của việc xác định cũng như do việc ít xuất
hiện trong giao tiếp nên chúng tôi tạm thời không đưa vào phạm vi nghiên cứu của
luận văn này.
Phạm vi tư liệu nghiên cứu: Các ngữ liệu khảo sát và trình bày trong luận
văn được thu thập trong tiểu thuyết: “Nửa chừng xuân”NXB tổng hợp Đồng Nai,
xuất bản năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê phân loại: Được vận dụng trong quá trình thu thập
ngữ liệu để thống kê và phân loại các hành động hỏi trong tiểu thuyết Khái Hưng
- Phương pháp phân tích diễn ngôn: Được sử dụng để phân tích các diễn
ngôn có chứa hành động hỏi trong tiểu thuyết Khái Hưng
- Phương pháp miêu tả: Được sử dụng để phân tích, miêu tả cách sử dụng
các hành động hỏi trong tiểu thuyết Khái Hưng .
- Phương pháp so sánh: Để làm rõ sự giống và khác nhau giữa các kiểu câu
biểu thị trực tiếp hành động hỏi với các kiểu câu gián tiếp biểu thị hành động hỏi
trong tiểu thuyết Khái Hưng .
6. Đóng góp của luận văn
- Về lí luận: Làm rõ thêm vai trò của hành động hỏi ở thể loại truyện ngắn.
- Về thực tiễn: Làm rõ thêm những đóng góp của nhà văn Khái Hưng ở bình
diện ngôn ngữ học thể hiện qua tiểu thuyết của tác giả.

Luận văn là tư liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh, những người có nhu
cầu tìm hiểu về Khái Hưng và ngôn ngữ tiểu thuyết của ông.

5


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài
Chương 2: Hành động hỏi trực tiếp trong tiểu thuyết “Nửa chừng xuân” của
Khái Hưng
Chương 3: Hành động hỏi dùng để thực hiện các mục đích khác trong tác
phẩm “Nửa chừng xuân” của Khái Hưng

6


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Lí thuyết về hành động ngôn ngữ
1.1.1 Khái niệm hành động ngôn ngữ
Năm 1955, với 12 chuyên đề được trình bày tại trường Đại học tổng hợp
Havard (Mỹ), Austin đã trở thành nhà ngôn ngữ học nổi tiếng thế giới. Ông đã phát
hiện ra những vấn đề hết sức bản chất của ngôn ngữ. Theo ông, nói năng trước hết
là một dạng hoạt động của con người như các hoạt động vật lí khác. Khi chúng ta
nói năng là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện thực hiện một loại hành động
đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ .
Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên và phổ biến của ngôn ngữ, nó
cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác mà đơn vị tối thiểu của
ngữ pháp hội thoại chính là các hành vi ngôn ngữ. Điều đó đã được Austin phát

hiện ra vào những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là người nghiên cứu và đặt nền móng
cho lí thuyết hành vi ngôn ngữ. Sau đó lí thuyết này đã được nhà ngôn ngữ J.R.
Searle phát triển hoàn chỉnh
Trên cơ sở lí thuyết mà Austin xây dựng các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã
nghiên cứu và đưa ra khái niệm như sau về hành động ngôn ngữ (còn gọi là hành vi
ngôn ngữ):
Theo giáo sư Đỗ Hữu Châu: “Hành động ngôn ngữ được thực hiện khi người
nói (hoặc người viết) Sp1 nói ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người
đọc) Sp2 trong ngữ cảnh C”. [Đại cương ngôn ngữ tập 2 . Tr 88]
Giáo sư Nguyễn Đức Dân lại cho rằng: “Khi thực hiện một phát ngôn trong
một tình huống giao tiếp cụ thể, qua cung cách phát ngôn và cấu trúc của nó, người
nói đã thực hiện những hành vi ngôn ngữ nhất định và người nghe cảm nhận được
điều này. Xảy ra hiện tượng đó vì các hành vi ngôn ngữ mang tính chất xã hội,
được ước chế bởi xã hội”. [Logic và Tiếng Việt, Tr 220]
Trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, hành vi ngôn ngữ được
các nhà nghiên cứu định nghĩa như sau: ‘ Một đoạn lời nói có tính mục đích nhất

7


định được thực hiện trong những điều kiện nhất định, được tách biệt bằng các
phương tiện tiết tấu - ngữ điệu và hoàn chỉnh, thống nhất về mặt cấu âm - âm học
mà người nói và người nghe đều có liên hệ với một ý nghĩa như nhau trong hoàn
cảnh giao tiếp nào đó” [40, Tr 107]
Như vậy hành động ngôn ngữ, một lần nữa được khẳng định là gắn liền với
hành động nói năng của con người và nó cũng là một hành động mang tính chất xã hội.
Trong mọi cuộc giao tiếp, một phát ngôn (diễn ngôn) thường được tạo ra do ba
loại hành động (hành vi). Theo Austin đó là:
1.1.1.1. Hành động tạo lời (locutioncary act): Là hành động sử dụng các yếu tố ngôn
ngữ như: ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu để tạo phát ngôn về hình thức và

nôị dung. Nhờ hành vi tạo lời, chúng ta hình thành nên các biểu thức có nghĩa.
1.1.1.2 Hành động mượn lời (perlocutionary act) là những hành động “mượn
phương tiện ngôn ngữ, nói cho đúng là mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả
ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc ở chính người nói”. hành vi mượn
lời thực hiện một phát ngôn là hành vi nhằm gây ra những biến đổi trong nhận thức,
trong tâm lí, trong hành động vật lí có thể quan sát được gây ra một tác động nào
đấy đối với ngữ cảnh.
Ví dụ 1: Khi nghe thông báo “Kí túc xá sẽ cắt điện hôm nay để sửa đường
điện”. Phát ngôn này sẽ gây ra những phản ứng khác nhau như: một số người sẽ tỏ
ra lo lắng nếu mất điện sẽ không có ánh sáng để học, một số người lười học thì sẽ tỏ
ra vui vì đó là lí do chính đáng để đi chơi mà không phải ngại vói bạn bè, một số
người sẽ lo lắng vì việc mất điện sẽ dẫn đến việc mất nước và như vậy sẽ không có
nước để sinh hoạt ... Đó chính là hiệu quả mượn lời ở phát ngôn trong ví dụ.
Như vậy có thể nói hiệu quả mượn lời là những hiệu quả ngoài ngôn ngữ
(ngoài diễn ngôn), phân tán , không có tính quy ước và khó tìm ra cơ chế.
1.1.1.3 Hành động ở lời (inlocutionary act): Là những hành vi người nói được thực
hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có
nghĩa là chúng gây ra một phản ứng tương ứng với chúng ở người nhận. Nói cách
khác đây là hành động mà đích của nó nằm ngay trong việc tạo nên phát ngôn được
nói ra (hay viết ra). Chính cái đích này phân biệt được các hành vi ở lời với nhau.

8


Ví dụ 2 :

Sp1: Chiều nay , cậu có bận gì không?
Sp2: Có.

Hiệu quả của hành động ở lời hỏi trên được thể hiện ở phát ngôn trả lời của

SP2: “Có”.
Cũng có những hành động ở lời có hiệu quả là một hành động mượn lời vật
lý, chẳng hạn:
Ví dụ 3:

Sp1: Con ăn cơm đi kẻo nguội.
Sp2: Vâng ạ! (và cơm vào miệng)

Hiệu quả ở lời của hành động ở lời mời là việc Sp2 thực hiện hành động
mượn lời vật lí tức Sp2 đưa cơm vào miệng. Tuy nhiên ngay cả những trường hợp
mà hiệu quả của hành động ở lời là một hành động mượn lời như ở VD3 thì hành
động mượn lời hiệu quả đó vẫn có hành động ở lời đi kèm (Vâng ạ!)
Ngoài ra, O. Ducrot cho rằng: Hành vi ở lời khác hành vi tạo lời và hành vi
mượn lời ở chỗ là chúng có thể thay đổi tư cách pháp nhân của người tham gia hội
thoại. Người nói và người nghe buộc đặt vào nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình
trạng của họ trước khi thực hiện hành vi ở lời đó.
Vậy hành vi mượn lời và hành vi ở lời đã đem lại cho phát ngôn những hiệu
lực nhất định. Nhưng ngữ dụng học chỉ quan tâm đến hiệu lực ở lời của ngôn ngữ
mà thôi. Điều đó cũng có nghĩa là nắm được ngôn ngữ không phải chỉ dừng lại ở
việc biết phát âm, dùng từ, đặt câu mà phải biết sử dụng ngôn ngữ đó theo đúng
những quy định ở lời mà phát ngôn đó đòi hỏi. Tuy nhiên thực tế sử dụng thì các
hành vi tạo lời, ở lời, mượn lời được kết hợp đồng thời và thống nhất khi tạo ra một
diễn ngôn.
Ở phạm vi đề tài của luận văn này chúng tôi chỉ xem xét, tìm hiểu, nghiên cứu
hành động hỏi trong tiểu thuyết “Nửa chừng xuân” của Khái Hưng ở góc độ hành
động ở lời.
1.1.2. Điều kiện sử dụng các hành động ở lời
Hành vi ở lời là một hành động xã hội. Đây là loại hành vi không được thực
hiện một cách tùy tiện mà phải tuân thủ một số điều kiện nhất định.


9


GS. Đỗ Hữu Châu định nghĩa: “Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời là những
điều kiện mà một hành vi ở lời phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ
cảnh của sự phát ngôn ra nó” [7, Tr 111 ]
Austin gọi đó là những điều kiện may mắn, nếu chúng được đảm bảo thì hành
động mới thành công, đạt hiệu quả.
Searle lại gọi đó là những điều kiện sử dụng hay điều kiện thỏa mãn. Theo
ông, có 4 loại điều kiện sử dụng hành động ở lời sau:
- Điều kiện nội dung mệnh đề: Là điều kiện liên quan tới cấu trúc, quan hệ ngữ
nghĩa của nội dung mệnh đề. Điều kiện này chỉ ra bản chất của hành động ở lời.
- Điều kiện chuẩn bị: Là điều kiện liên quan tới những hiểu biết của người thực
hiện hành động về lợi ích, trách nhiệm, năng lực vật chất, tinh thần cũng như quyền
lực của người nói đối với người nghe và đối với hành động ở lời mà mình đưa ra.
- Điều kiện tâm lí: Đây là điều kiện chỉ ra trạng thái tâm lí của người thực hiện
hành động ở lời thích hợp với hành động ở lời mà mình đưa ra. Điều kiện tâm lí còn
có nghĩa là người nói thực sự chân thành mong đợi hiệu quả ở lời của hành động ở
lời mà mình thực hiện.
- Điều kiện căn bản: Theo điều kiện này thì người thực hiện hành động ở lời
(hoặc người nghe) bị ràng buộc ngay vào kiểu trách nhiệm mà hành động ở lời đó
tạo ra khi phát ngôn.
Ví dụ 4 : Thưa ông, thế còn cô Lục và cô Thanh nay ở đâu? [Tr 34: Đối thoại
Mai- Lộc ]
+ Điều kiện NDMĐ: Đây là hành động hỏi của Mai với Lộc.
+ Điều kiện CB: Mai sau khi nhận ra Lộc là người quen của mình cô đã hỏi
thêm về các em của Lộc giờ thế nào .
+ Điều kiện TL: Mai muốn Lộc cung cấp thêm thông tin về các em của Lộc.
+ Điều kiện CB: Mai thực hiện hành động hỏi mong muốn Lộc cung cấp thông
tin để cô được biết. Và Lộc đã cung cấp thông tin cho cô: “Em Lục lấy chồng đã

vừa có cháu, em Thanh thì hãy còn ở nhà mẹ tôi ...”
Trên cơ sở đó có thể thấy rằng: Đây là hành động hỏi trực tiếp vì nó được sử
dụng đúng với mục đích, đúng với điều kiện chân thành của nó.

10


Như vậy trong luận văn này, dấu hiệu giúp chúng tôi nhận diện và phân biệt
các hành động hỏi TT – GT chính là nhờ vào điều kiện sử dụng các hành động ở
lời.
1.1.3. Các loại hành động ngôn ngữ
Việc phân loại hành động ngôn ngữ căn cứ vào phản ứng qua lại của những
người tham gia giao tiếp. Đây chính là cơ sở để nhận ra hành động ở lời. Có nhiều
cách phân chia khác nhau giữa các nhà ngôn ngữ về hành động ngôn ngữ.
1.1.3.1. Phân loại hành động ngôn ngữ của Austin
Austin chia các loại hành động ngôn ngữ thành năm phạm trù lớn sau:
- Phán xử: Đây là những hành động đưa ra những lời phán xét về một sự
kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển nhiên hoặc dựa vào lí lẽ vững
chắc như: xử trắng án, xem là, tính toán, miêu tả...
- Hành xử: Đây là những hành động đưa ra những quyết định thuận lợi hay
chống lại một chuỗi hành động nào đó: ra lệnh, chỉ huy, biện hộ cho, khẩn cầu, đặt
hàng, giới thiệu, van xin, và các hành vi ngôn ngữ như bổ nhiệm, đặt tên, tuyên bố
khai mạc, bế mạc, tuyên ngôn.
- Cam kết: Những hành động này ràng buộc người nói vào một chuỗi những
hành động nhất định: hứa hẹn, bày tỏ lòng mong muốn, giao ước, bảo đảm, thề
nguyền, thông qua các quy ước, tham gia một phe nhóm.
- Trình bày: Những hành động này được dùng để trình bày các quan niệm,
dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như: khẳng định, phủ định, trả lời, phản
bác, nhượng bộ, dẫn thí dụ, chuyển dạng lời...
- Ứng xử: Đây là những hành động phản ứng với cách xử sự của người khác,

đối với các sự kiện có liên quan, chúng cũng là cách biểu hiện thái độ đối với hành
động hay số phận của người khác: xin lỗi, cám ơn, khen ngợi, chào mừng, phê
phán, chia buồn, ban phước, thách thức... [13, Tr 121]
Nhưng chính Austin sau này cũng cho rằng bảng phân loại của mình là chưa
hoàn thiện. Searle là người đầu tiên chỉ ra những hạn chế trong bảng phân loại của
Austin là chỉ phân loại các động từ ngữ vi. Và do Austin không định ra các tiêu chí
phân loại nên kết quả phân loại có khi chồng chéo (mà trong thực tế thì các động từ
ngữ vi không phải bao giờ cũng tương ứng một – một với các hành động ngôn ngữ.

11


Chẳng hạn hai động từ hứa và hứa hẹn trong tiếng Việt chỉ biểu thị một hành động
hứa)
1.1.3.2. Phân loại hành động ngôn ngữ của J.Searle
J.Searle đã đưa ra 12 điểm được dùng làm tiêu chí phân loại, trong đó có 4 tiêu
chí cơ bản nhất (tiêu chí đích ở lời; tiêu chí hướng khớp ghép; tiêu chí trạng thái tâm
lí và tiêu chí nội dung mệnh đề) để phân loại 5 phạm trù hành động ở lời, đó là:
- Tái hiện: Hành động này trước đó được Searle gọi tên là xác tín. Đích ở lời
là miêu tả lại một sự tình đang được nói đến. Hướng khớp ghép là lời – hiện thực,
trạng thái tâm lí là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh đề là một mệnh
đề. Mệnh đề này có thể đánh giá theo tiêu chuẩn đúng – sai lôgic. Hành động tái
hiện/xác tín gồm các động từ: kể, thông báo, giải trình, giới thiệu...
- Điều khiển: Đích ở lời là đặt người nghe vào trách nhiệm thực hiện một
hành động tương lai; hướng khớp ghép là hiện thực – lời, trạng thái tâm lí là sự
mong muốn của người nói; nội dung mệnh đề là hành động tương lai của người
nghe. Hành động điều khiển gồm các động từ: ra lệnh, yêu cầu, hỏi, cho phép, dặn
dò, mời mọc ...
- Cam kết (hứa hẹn, tặng, biếu) : Đích ở lời là trách nhiệm phải thực hiện
hành động tương lai mà Sp1 bị ràng buộc; hướng khớp – ghép hiện thực – lời; trạng

thái tâm lí là ý định của Sp1 và nội dung mệnh đề là hành động tương lai của Sp1.
- Biểu cảm: Đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm lí phù hợp với hành động ở lời
(vui thích/khó chịu, mong muốn/rẫy bỏ ...). Trạng thái tâm lí thay đổi tùy theo từng
loại hành động, nội dung mệnh đề là một hành động hay một tính chất nào đó của
Sp1 hay của Sp2. Hành động biểu cảm gồm các động từ: vui thích, khó chịu, mong
muốn, xin lỗi, chúc, chào, khen, ước ...
- Tuyên bố: Đích ở lời là nhằm làm cho có tác dụng nội dung của hành động
hướng khớp ghép vừa là lời – hiện thực, vừa là hiện thực – lời; nội dung mệnh đề là
một mệnh đề. Hành động tuyên bố gồm các động từ: tuyên bố, buộc tội, bác bỏ, từ
chối ...[13, Tr 126]
Sau Searle, một số nhà nghiên cứu cũng nêu ra những hướng phân loại khác
như cách phân loại của D.Wunderlich, của D.Recanati, K.Bach, M.M. Hanish. Tuy

12


nhiên, “các tiêu chí phân loại của 4 tác giả sau Searle đều trùng, hoặc trùng bộ
phận hoặc trùng toàn bộ rơi vào tiêu chí của Searle” [13, Tr 133]. Vì vậy, có thể
khẳng định rằng giá trị phát hiện 12 tiêu chí phân loại của Searle là rất lớn và cho
đến nay vẫn được xem là kinh điển.
1.1.4. Hành động ở lời trực tiếp – gián tiếp
Căn cứ vào hành động ngôn ngữ, người ta chia ra hai loại hành động ở lời:
Hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp.
1.1.4.1. Hành động ở lời trực tiếp
George Yule đưa ra quan niệm: “Chừng nào có mối liên hệ trực tiếp giữa
một cấu trúc và một chức năng, thì ta có một hành động nói trực tiếp” [41, Tr 110]
Đồng ý với quan niệm của Yule, GS. Nguyễn Thiện Giáp đưa ra nhận xét:
“Hành động ngôn ngữ trực tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện ở những phát
ngôn có quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng” [12, Tr 390]
Theo giáo sư Đỗ Hữu Châu: “Những hành vi ngôn ngữ được sử dụng đúng

với mục đích, đúng các điều kiện chân thành của chúng là những hành vi ở lời trực
tiếp”[Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 ]
Ví dụ 4 :

Sp1: Bác sinh được mấy cháu?
Sp2: Tôi có tất cả 2 cháu bác ạ!

Trong phát ngôn trên Sp1 đã thực hiện hành vi ở lời hỏi, được đánh dấu bằng
phương tiện hình thức là dùng đại từ nghi vấn “mấy” để hỏi về số lượng (số ít, đếm
được, dưới 10). Xét về các điều kiện sử dụng hành vi ở lời cho thấy phát ngôn
không vi phạm điều kiện nào. Với đích là ở lời hỏi, phát ngôn đã mang tới hiệu lực
của hành vi ở lời hỏi bằng sự phản ứng của Sp2 trả lời và cung cấp cho Sp1 thông
tin về số lượng mà Sp1 muốn biết. Như vậy phát ngôn chúng tôi vừa phân tích trên
đây đã thực hiện hành vi ở lời hỏi trực tiếp.
Ví dụ 5 :

Gặp đây anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không?

Trong bài ca dao trên, Sp1 đã thực hiện hành vi ở lời hỏi, được đánh dấu về
hình thức là cặp phụ từ nghi vấn có... hay không để hỏi Sp2 về việc có “lấy anh
không”. Tuy nhiên khi xét các điều kiện sử dụng hành vi ở lời thì cho thấy phát

13


ngôn không thỏa mãn đầy đủ bốn điều kiện. Sp1 không biết rõ câu trả lời nhưng
Sp1 thực hiện hành vi hỏi không hoàn toàn nhằm mục đích để Sp2 cung cấp cho
mình thông tin chưa rõ, Sp1 cũng không cố gắng nhận thông tin đó từ Sp2. Như vậy
phát ngôn đã vi phạm điều kiện 3 và 4 trong các điều kiện sử dụng hành vi ở lời mà

Searle đưa ra. Từ đó cho thấy phát ngôn trên thực hiện hành vi hỏi nhưng không
phải chỉ có hành vi ở lời trực tiếp mà ẩn đằng sau hành vi trực tiếp ấy là hành vi
ngôn ngữ gián tiếp khác được thực hiện.
1.1.4.2. Hành động ở lời gián tiếp
a. Khái niệm
Có một nguyên lí đặc biệt của ngôn ngữ đó là nguyên lí: “Trong nói năng
chúng ta truyền báo nhiều hơn là điều chúng ta nói ra”. Trong thực tế giao tiếp, một
phát ngôn thường không phải chỉ có một đích ở lời mà theo Labor và Fansel “Đại
bộ phận các phát ngôn được xem như là thực hiện đồng thời một số hành vi...”
(dẫn theo Đỗ Hữu Châu). Hiện tượng người giao tiếp sử dụng trên bề mặt hành
động ở lời này nhưng lại nhằm hiệu quả của một hành động ở lời khác gọi là “hiện
tượng sử dụng hành động ngôn ngữ theo lối gián tiếp”
Hành động ở lời gián tiếp được Austin khởi xướng và Searle kế tục. Theo
Searle “... một hành vi ở lời được thực hiện gián tiếp thông qua sự thực hiện một
hành vi ở lời khác sẽ được gọi là một hành vi gián tiếp”
Goerge Yule cho rằng: “Chừng nào có một mối liên hệ gián tiếp giữa một
cấu trúc và một chức năng, thì ta có một hành động nói gián tiếp”
[41, Tr 110]
Giáo sư Nguyễn Thiện Giáp nhận định: “Hành động ngôn từ gián tiếp là
hành động ngôn từ được thực hiện ở những phát ngôn có quan hệ gián tiếp giữa
một chức năng và một cấu trúc” [12, Tr 390 ]
Giáo sư Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Một hành vi tại lời này nhằm đến một
hiệu lực tại lời là một hành vi khác, thì hành vi này được gọi là hành vi gián tiếp”
[11, Tr 53 ]

14


Giáo sư Đỗ Hữu Châu trình bày quan niệm của mình về hành động ở lời gián
tiếp như sau: “Một hành vi ngôn ngữ được gọi là gián tiếp khi dạng thức ngôn ngữ

của một hành vi tại lời không phản ánh điều trực tiếp muốn nói” [4, Tr 146]
Nói tóm lại tuy mỗi nhà nghiên cứu đã đưa ra những lập luận riêng về hành
vi ngôn ngữ gián tiếp nhưng hầu hết đều thống nhất ở quan điểm cho rằng: Một
hành vi trong đó người nói thực hiện một hành vi ở lời này nhưng lại nhằm cho
người nghe suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác.
Ví dụ 6 : “Mấy giờ rồi mà con chưa đứng lên nấu cơm?”
Bề ngoài đây là câu hỏi nhưng thực chất lại là hành vi trách móc của người
mẹ đối với con về việc con mải chơi mà nấu cơm muộn.
b. Điều kiện sử dụng các hành động ở lời gián tiếp
Việc nhận ra một hành vi ngôn ngữ gián tiếp không phải là quá khó khăn.
Hành vi gián tiếp lệ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh, vào quan hệ ngữ nghĩa giữa các
thành phần của nội dung mệnh đề trang biểu thức ngữ vị trực tiếp với ngữ cảnh, vào ý
nghĩa trực tiếp của biểu thức ngữ vị trực tiếp. Ngoài ra trong thực tế, nó còn bị quy
định bởi lí thuyết lập luận, các phương châm hội thoại, phép lịch sự ... vì vậy để nhận
biết hành vi ngôn ngữ gián tiếp nhất thiết phải vận dụng đến những yếu tố trên.
Nhiều nhà ngôn ngữ học đã và đang nghiên cứu câu hỏi của Searle: “Làm thế
nào mà một người khi nói cái gì đó là muốn nói về điều đó và đồng thời muốn nói
thêm điều gì khác nữa? Và làm thế nào mà một người nghe có thể hiểu được hành vi
ngôn ngữ gián tiếp trong khi điều anh ta nghe được lại là cái khác?” [7, Tr 150]
Đỗ Hữu Châu đã đưa ra một số điều kiện tổng quát sau : .
- Hành động ngôn ngữ gián tiếp lệ thuộc rất mạnh vào ngữ cảnh:
Ví dụ 7: Thế ra là ông là anh Lộc của em đấy? [Tr 34]
Phát ngôn trên nảy sinh trong hoàn cảnh: Mai đi trên một chuyến tàu và gặp
một người đàn ông nói là có biết Mai. Sau khi nói chuyện với nhau, và được giới
thiệu thì Mai nhận ra Lộc người mà coi cô như em gái khi cô còn nhỏ. Và cô đã
nhận ra: Thế ra là ông là anh Lộc của em đấy?
Phát ngôn trên đã sử dụng tiểu từ tình thái “đấy” khiến cho nó có hình thức
của một câu hỏi. Song đích hướng tới của nó lại không phải là hỏi mà là nhằm mục

15



bày tỏ thái độ vui mừng. Vui mừng vì đã gặp lại người anh em của mình sau bao
năm xa cách.
Nếu không đặt vào ngữ cảnh, chúng ta sẽ không thể hiểu được nội dung, mục
đích của phát ngôn trên.
- Như chúng ta đã biết, HĐNN có một (hoặc một số) biểu thức ngữ vi đặc
trưng cho nó. Trong biểu thức ngữ vi, quan hệ giữa các thành phần (chủ từ - vị từ) tạo
nên nội dung mệnh đề về mặt ngữ nghĩa với các nhân tố của ngữ cảnh, đặc biệt là với
những người giao tiếp cũng đóng vai trò IFID cho biểu thức ngữ vi đó. Mối quan hệ
đó càng khăng khít bao nhiêu thì càng có khả năng thực hiện các HĐGT bấy nhiêu.
Giả định hai anh em ngồi chơi với nhau anh trêu em, em khóc và mách với mẹ, mẹ
hỏi : “Ai làm em khóc?” thay vì câu hỏi “Con không trêu em sao em lại khóc ?” thì
câu hỏi thứ nhất gần với câu hỏi thông thường hơn là câu hỏi thứ hai. Ở câu hỏi thứ
hai, người bị hỏi “Con” là ngữ nghĩa của thành phần mệnh đề (chủ từ) của câu hỏi
nên hiệu lực khẳng định, buộc tội gián tiếp của câu hỏi rõ hơn. Chính vì lí do này nên
nghiên cứu hành vi ở lời gián tiếp phải chú ý tới quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành
phần của nội dung mệnh đề trong biểu thức ngữ vi trực tiếp với ngữ cảnh.
- Chúng ta cũng đã biết rằng một phát ngôn trực tiếp có thể thể hiện một số
hành động gián tiếp. Nói như tác giả Nguyễn Thiện Giáp “cùng một phát ngôn có
thể tiềm tàng nhiều hành động ngoài lời”.
Ví dụ 8: Đấy ông coi những điều tôi thưa cùng ông hôm qua có sai chút nào đâu. Ở
làng mà dễ đã được yên thân? [Tr 82 ].
Căn cứ vào các phương tiện chỉ dẫn ở lời “gì”, ta có thể xác định phát ngôn
trên đây của Mai do hành động ở lời hỏi trực tiếp tạo ra.
Hành động ở lời trực tiếp này được dùng để thực hiện một số hành động
khác như: Khẳng định: Ở làng bị bọn cường hào hà hiếp còn khổ hơn bị lưu lạc ở
thành thị, khi đã bị thù thì còn khổ sở ấy ; Bộc lộ tức giận thay cho Mai vì bị bọn
cường hào hà hiếp ấy; Trách bọn cường hào mà tiêu biểu ở đây là ông Hàn Thanh
đã có những lời nói và hành động làm Mai phải lo sợ .


16


Tóm lại, muốn nhận biết hành động ở lời gián tiếp, trước hết phải nhận biết
phát ngôn nghe được, đọc được qua biểu thức ngữ vi cốt lõi cho nó, do hành động ở
lời trực tiếp nào tạo ra.
- Không nên nghĩ rằng, HĐNNGT là một hiện tượng riêng rẽ chỉ do
HĐNNTT tạo ra. Trong thực tế nó còn bị quy định bởi lí thuyết lập luận, bởi các
phương châm hội thoại, bởi phép lịch sự, bởi các quy tắc liên kết, bởi các quy tắc
hội thoại và cả bởi logic nữa.
HĐNNGT lệ thuộc rất mạnh vào ngữ cảnh, vào mối quan hệ ngữ nghĩa giữa
các thành phần của NDMĐ trong biểu thức ngữ vi trực tiếp với ngữ cảnh, bị quy
định bởi lí thuyết lập luận, bởi các phương châm hội thoại, bởi phép lịch sự, ... Do
vậy, muốn nhận biết các hành động ở lời gián tiếp, phải dựa vào nhiều yếu tố.
Bàn về cơ sở nhận diện các HĐNNGT, theo PGS.TS Nguyễn Thị Lương
trong cuốn “Câu tiếng Việt”, các HĐNNGT không tường minh ở câu chữ nhưng
người nghe vẫn có thể nhận diện nó nhờ vào các nhân tố như:
+ Dựa vào hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp là bối cảnh câu nói được phát ra. Hoàn cảnh giao tiếp có thể là:
- Những yếu tố ngoài ngôn ngữ như: cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, ngữ điệu ...
- Ngữ cảnh (văn cảnh): Trong văn bản viết, ngữ cảnh thường được thể hiện
ra ở trước hoặc sau câu đang xét.
Hoàn cảnh giao tiếp là nhân tố quan trọng giúp người nghe nhận biết các
hành động ở lời gián tiếp.
+ Dựa vào các thao tác suy ý
Suy ý là hành động của trí não nhằm vận dụng sự hiểu biết để xem xét, đánh
giá tính đúng sai, hợp lí – không hợp lí, khách quan – không khách quan của một
vấn đề nào đó.
Để nhận diện loại nghĩa không tường minh, người ta thường xuyên phải vận dụng

thao tác suy ý để phát hiện ra nghĩa hàm ngôn không được biểu thị ra bằng câu chữ.
Ví dụ : Chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố xin Lý trưởng nhận thực
bằng triện. Lý trưởng cười lối khinh bỉ:
Triện của ông có phải củ khoai? Dễ thường ông đóng dấu không cho mày
đấy chắc?

17


Bằng sự hiểu biết thực tế, bằng việc suy ý, chị Dậu cũng như mọi người nghe
sẽ nhận ra rằng: triện (con dấu) của Lý trưởng không thể so với củ khoai, một thứ
lương thực rẻ mạt, tầm thường của người nông dân. Từ đó suy ra hành động hỏi của
Lý trưởng chỉ là hình thức. Lý trưởng dùng hình thức câu để nhằm khẳng định
“triện tao” không tầm thường như củ khoai nên không xin bằng nước bọt được .
+ Dựa vào các ước định xã hội (lẽ thường – topos)
Mỗi dân tộc thường có những ước định, những điều được coi là lẽ thường, là
hiển nhiên, được cộng đồng chấp nhận, nên không cần bình luận, bàn cãi đúng sai.
Với người Việt hình thức chào – hỏi được coi là một ước định: chào bằng lời hỏi
thăm như: Bác đi làm về đấy à? Bác đi đâu đấy? ... Nghe những câu như vậy, người
Việt ai cũng hiểu đó là lời chào chứ không phải câu hỏi đích thực .
+ Dựa vào sự vi phạm các quy tắc điều khiển HĐNN
Như đã biết, hành động nói tường minh là hành động mà hiệu lực ở lời của
nó phải phù hợp với hình thức và nội dung của chữ biểu hiện nó. Để đảm bảo cho
sự phù hợp đó, hành động nói tường minh phải tuân thủ những quy tắc điều khiển
hành động ngôn ngữ mà Searle gọi là những điều kiện “thỏa mãn”. Chẳng hạn với
hành động hỏi, tối thiểu phải đạt được những điều kiện sau:
- Người hỏi thực sự không biết điều mình cần hỏi.
- Người hỏi thực sự muốn biết điều mình cần hỏi.
- Người được hỏi phải biết điều mà người nói muốn hỏi.
Nếu ngữ cảnh cho thấy một trong các điều kiện đó bị vi phạm thì câu hỏi đó

không nhằm thực hiện chức năng hỏi, nó được sử dụng vào mục đích nói khác và
hành động gián tiếp được biểu thị thông qua nó mới là hàm ngôn của câu hỏi.
+ Dựa vào sự vi phạm các quy tắc hội thoại.
Hội thoại đòi hỏi các nhân vật tham gia hoạt động giao tiếp phải tuân theo
một số quy tắc. Các quy tắc hội thoại hay được nhắc đến là:
- Nói cho có nội dung.
- Nói cho đầy đủ sự thật.
- Nói vào đề.
- Giữ thể diện cho người tiếp chuyện.

18


Các quy tắc đó được người tham gia hội thoại tuân thủ thì cuộc thoại mới
diễn tiến được. Nhưng nhiều khi, người nói lại cố tình vi phạm các quy tắc hội
thoại nhằm gián tiếp tạo nghĩa hàm ngôn cho câu.
Ví dụ 9 : À, mày giở văn minh ra nói với tao à? Tự do kết hôn à?Mày không bằng
lòng nhưng tao bằng lòng. Mày phải biết lấy vợ, gả chồng phải tìm chỗ môn đăng
hộ đối, chứ mày định bắt tao thông gia với bọn nhà quê à? Với bọn cùng đinh à?
Mày làm mất thể diện tao, mất danh giá tổ tiên, mày là một thằng con bất hiếu.
Nghe chưa? [Tr 91 ].
Câu hỏi trên đây xét ở phương diện hình thức câu chữ thì nó lại là một câu
hỏi (sử dụng tiểu từ tình thái “à”) nhưng người nghe, người đọc dễ dàng nhận ra nó
biểu thị những hành động khác.
Dựa vào ngữ cảnh: Lộc rất yêu Mai nhưng bà Án không đồng ý vì nhà Mai
không môn đăng hộ đối với nhà bà, và bà đang có ý muốn Lộc lấy người khác do bà
chọn môn đăng hộ đối hơn. Bà đã ra sức phản đối và Lộc đã thì nhất quyết bảo vệ
tình yêu của mình. Đến lúc này bà Án đã qua tức giận bà đã bộc lộ thái độ của
mình:À, mày giở văn minh ra nói với tao à? Tự do kết hôn à?Mày không bằng lòng
nhưng tao bằng lòng. Mày phải biết lấy vợ, gả chồng phải tìm chỗ môn đăng hộ

đối, chứ mày định bắt tao thông gia với bọn nhà quê à? Với bọn cùng đinh à? Mày
làm mất thể diện tao, mất danh giá tổ tiên , mày là một thằng con bất hiếu. Nghe
chưa?.
Vậy câu hỏi của bà Án nhằm khẳng định: Bà sẽ không đồng ý để Lộc lấy
Mai. Như thế sẽ mất thể diện cho tổ tiên nhà bà.
Trong câu hỏi của bà Án còn bộc lộ sự trách móc: Trách Lộc đã không nghe
lời bà mà còn dở văn minh ra để nói với bà.
Thực hiện hành động hỏi, bà Án muốn nhắc nhở, khuyên nhủ Lộc : Lấy vợ
phải tìm chỗ môn đăng hộ đối mà lấy.
Ngoài ra, bà Án còn bộc lộ thái độ bực bội, thất vọng của mình với Lộc. Là
người được ăn học đàng hoàng mà lại định kết hôn với chỗ không môn đăng hộ đối.
Trong câu hỏi còn bao hàm cả sự hờn giận.

19


Vậy qua phát ngôn của bà Án, có thể nhận thấy: câu hỏi của bà Án không
nhằm để hỏi mà để biểu thị liên tiếp ba hành động nói gián tiếp : trách móc , than
vãn và bộc lộ thái độ.
Ví dụ 10: Cô tưởng dễ dàng như thế được ư? Cô chỉ nghĩ đến trả nợ xong, còn bức
tranh bỏ dở của tôi, cô tính sao? [Tr 234 ]
Câu hỏi trên đây, xét ở phương diện hình thức câu chữ thì nó là một câu hỏi
(sử dụng tiểu từ tình thái “sao”) nhưng người nghe, người đọc dễ dàng nhận ra nó
biểu thị những hành động khác.
Dựa vào ngữ cảnh: Mai đi làm mẫu vẽ cho họa sĩ Bạch Hải. Nhưng bức tranh
vẽ chưa xong thì cô đã nghỉ làm mẫu. Bạch Hải có đến nhà cô hỏi thì cô nói rằng
không cần tiền nữa, cô đi làm mẫu cốt kiếm tiền đủ để trả nợ mà thôi. Đến lúc này thì
họa sĩ Bạch Hải đã không chịu được nữa và bộc lộ thái độ: “Cô tưởng dễ dàng như
thế được ư? Cô chỉ nghĩ đến trả nợ xong, còn bức tranh bỏ dở của tôi, cô tính sao?”
Như vậy qua phát ngôn của họa sĩ, có thể nhận thấy: Câu hỏi của họa sĩ

không nhằm để hỏi mà để biểu thị liên tiếp ba hành động nói gián tiếp: trách móc,
nhắc nhở và bộc lộ thái độ.
Từ ví dụ trên đây, chúng tôi nhận thấy: Để nhận diện các HĐNNGT có thể
dựa vào nhiều cơ sở khác nhau. Mỗi HĐNNGT có thể được nhận diện bởi một trong
những cơ sở nêu trên nhưng cũng có khi được nhận diện cùng lúc bởi nhiều yếu tố .
1.1.5. Biểu thức ngữ vi và dấu hiệu ngữ vi
1.1.5.1. Khái niệm biểu thức ngữ vi
Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn gây hiệu lực ở lời nhất định. Phát ngôn ngữ vi
mang một hiệu lực ở lời nào đó thì chúng có cấu trúc hình thức ấy, hay còn gọi là
cấu trúc đặc trưng. “Chúng ta gọi một kiểu cấu trúc đặc trưng ứng với một phát
ngôn ngữ vi là biểu thức ngữ vi” [36,Tr 76]. Tác giả Đỗ Hữu Châu cũng có một
cách định nghĩa tương tự: “Phát ngôn ngữ vi có một kết cấu lõi đặc trưng cho hành
vi ở lời tạo ra nó. Kết cấu lõi đó được gọi là biểu thức ngữ vi” [8,Tr 76]
Với quan niệm về biểu thức ngữ vi như trên, chúng tôi nhận thấy để biểu thị
biểu thức ngữ vi hỏi có các dạng sau:
a. Dùng đại từ nghi vấn

20


b. Dùng các cặp phụ từ lựa chọn theo khuôn hỏi kiểu: có ...không, có ...
chưa, có phải ...không, (có) phải không, đã ... chưa.
Những câu hỏi kiểu này thường chỉ xuất hiện ở vị trí phụ thuộc của cấu trúc
đối thoại, nhằm kiểm tra lại một ý kiến có trước còn tỏ ra chưa dứt khoát, chưa quả
quyết với một dụng ý nhằm buộc người đối thoại phải bày tỏ quan niệm một cách rõ
ràng, dứt khoát hoặc khi mà trước đó có một ý kiến, một sự chờ đợi rằng sự việc
không, chưa xảy ra, nhưng vào lúc nói lại thấy cần phải kiểm tra lại. Chẳng hạn:
- “Nó có nhìn theo không con?
- “Không!”
Các câu hỏi dùng các cặp phụ từ biểu thị sự lựa chọn giữa những mặt đối lập

thống nhất mang tính tương liên (khẳng định/phủ định).
c. Dùng quan hệ từ: hay/hoặc/hay là
Nhưng quan hệ từ này cũng thuộc dạng câu hỏi lựa chọn. Dạng thức này
không yêu cầu người đối thoại khẳng định hay phủ định nội dung thông tin trong
câu hỏi mà yêu cầu người đối thoại phải đưa ra phương án lựa chọn của bản thân
trong từng tình huống giao tiếp cụ thể.
d. Dùng ngữ điệu (gắn với ngữ cảnh và động từ)
e. Dùng một số từ tình thái kiểu như: à, ư, hử, hả (Vi ơi!... Ngủ à?), không
(Anh Hoàng ơi, thôi mất con chị ta rị con em đi, được không?)...
1.1.5.2. Biểu thức ngữ vi tường minh và biểu thức ngữ vi hàm ẩn
Biểu thức ngữ vi có thể có động từ ngữ vi hay không có động từ ngữ vi trên
bề mặt câu chữ. Nếu biểu thức ngữ vi có chứa động từ ngữ vi trên bề mặt câu chữ
thì đó là biểu thức ngữ vi tường minh.
Ví dụ:
- Tôi mong anh sẽ đến
- Mời cụ xơi nước.
- Tôi cấm anh không được nói xấu cô ấy.
- Anh hứa sẽ đến đúng hẹn.
- Tôi cam đoan mọi người sẽ đến.
- Tôi hỏi người ấy.

21


×