I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, báo chí và văn học Việt Nam hiện đại vốn cùng
ra đời trong một điều kiện văn hóa lịch sử, cùng sử dụng chữ Quốc ngữ làm
chất liệu, cùng chung đội ngũ những người cầm bút, cùng phục vụ một kiểu
công chúng xưa nay vốn rất trọng văn và ngàn đời chỉ quen tiếp nhận văn
chương nên giữa 2 loại hình này đã sớm xuất hiện môt mối giao thoa sâu
đậm. Mối quan hệ giữa chúng luôn luôn là mối quan hệ có tính chất song
phương,đa chiều. Dĩ nhiên không thể phủ nhận vai trò hết sức to lớn của báo
chí đối với sự phát triển của nền văn học hiện đại Việt Nam nhưng chắc chắn
ảnh hưởng từ văn học tới báo chí mới là chiều thuận. Bởi vì, văn học là một
trong những loai hình nghệ thuật ra đời sớm nhất của nhân loại và Việt Nam
cũng ko nằm ngoài qui luật đó. Tức là khi nền báo chí non trẻ đang ở thời kì
phôi thai trứng nước thì văn học đã có một bề dày lịch sử lâu dài và những
thành tựu lớn lao, nên như một lẽ tự nhiên, văn học – bộ môn khoa học cơ bản
và gần gũi nhất đã trở thành cội nguồn để báo chí kế thừa những tinh hoa và
kinh nghiệm, đã trở thành dòng sữa mẹ trong lành nuôi dưỡng báo chí trong
việc trưởng thành và phát triển. Văn học tác động đến báo chí bằng đặc trưng
ưu thế của một lĩnh vực hoạt động sáng tạo qua ngôn từ vốn có rất nhiều điểm
tương đồng với hoạt động báo chí.
Với đặc điểm tâm lí của người Việt Nam mà ở đây là bao gồm cả người
viết và người thưởng thức là các thông tin sự thật không những phải chân
thực mà phải có hình thức phản ánh đúng và hay. Những tác phẩm báo chí
biết khai thác thông tin thẩm mĩ khéo léo và hợp lí, phù hợp với đặc trưng thể
loại sẽ tạo được dư vị đặc biệt đối với người đọc. Mặt bằng dân trí càng cao
thì thị hiếu tiếp nhận báo chí có thể càng đa dạng. Trong sự đa dạng chung ấy
không thể không có sự đòi hỏi khắt khe về giá trị thụ hưởng cái đẹp trong
hỉnh thức sáng tạo tác phẩm. Không phải ngẫu nhiên khi tâm sự về thị hiếu
1
tiếp nhận của bạn đọc báo, Bác Hồ đã lưu ý các nhà báo: "… Ngày trước
người đọc báo chí muốn biết những việc thật. Còn bây giờ khác, sinh hoạt đã
cao hơn, người ta thấy hay, thấy lạ, thấy văn chương thì mới thích đọc" ( Về
văn hóa văn nghệ, NXB Sự thật). Vậy là trong sáng tạo tác phẩm báo chí
không chỉ có yêu cầu viết cho trúng, cho đúng mà còn phải viết cho hay. Rõ
ràng quy luật thụ hưởng cái đẹp nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ, giải trí
không phải là điều xa lạ đối với báo chí. Qua khảo sát thì có thể nhận thấy
rẳng hầu hết các loại hình báo chí ở Việt Nam hiện nay (báo in, truyền hình,
phát thanh, báo ảnh, báo mạng…) đều rất chú ý tới mội dung thông tin thẩm
mĩ. Điều quan trọng nhất cần nói đến ở đây chính là tự thân các tác phẩm báo
chí đã tìm đến văn chương để chắt chiu kiếm tìm từ đó những tiềm năng thẩm
mĩ đích thực nhằm tăng thêm hiệu quả tác động cho tác phẩm báo chí.
Trong thời đại ngày nay con người đang bị máy móc hoá nên đã hạn chế
sự tìm tòi những chất liệu văn học đẹp đẽ trong sáng tạo các tác phẩm báo chí.
Nhưng với thiên hướng tư duy hình tượng hoá, người Việt đã lưu lại dấu ấn
rất rõ nét trên nhiều thể loại báo chí khác nhau tạo nên tính đặc thù riêng biệt
của báo chí Việt Nam. Phóng sự Việt Nam xưa nay căn bản là hình thái
phóng sự thường xuyên có sự giao hoà với các phẩm chất văn học cần thiết. Ở
Việt Nam, số lượng những ý kiến xếp phóng sự vào vùng trung gian giữa văn
học và báo chí hiện nay vẫn chiếm tỉ lệ rất đáng kể. Không chỉ phóng sự mà ở
các thể loại báo chí có biên đọ giao thoa ít nhiều với văn học đều cho thấy sự
hài hoà giữa lí trí và tình cảm trong cấu trúc tác phẩm như vậy.Ở một đất
nước như nước ta vốn có bề dày lịch sử trọng văn, vẫn từng coi văn báo bất
phân và các nhà văn vẫn là lực lượng đáng kể tham gia viết báo thì ý thức
sáng tạo báo chí trong cơ chế sinh văn báo chắc chắn sẽ vẫn còn điều kiện
được phát huy mạnh mẽ.
Nhà báo am hiểu về văn chương sẽ có một bút lực cực tốt, một bút hồn
tuyệt vời. Am hiểu văn học, người làm báo ít nhất cũng sẽ dễ có được khả
2
năng chủ động trong các thao tác biểu đạt ngôn từ - chất liệu số một, đóng vai
trò then chốt trong quá trình sáng tạo của bất kì loại hình tác phẩm báo chí
nào. Các điển cố, điển tích trong lịch sử văn học dân tộc và nhân loại sẽ được
vận dụng một cách ý vị. Các phương ngôn, châm ngôn, thành ngữ, tục ngữ, ca
dao… sẽ được khai thác một cách tự nhiên, đắc địa. Đó là chưa kể tới hàng
loạt các quy trình tổ chức tác phẩm ở các thể loại văn học nằm ở vùng biên
duyên cận kề với báo chímà sự hiểu biết về chúng sẽ rất ích dụng cho việc
sáng tạo tác phẩm báo chí. Các cây bút phóng sự, tiểu phẩm… báo chí hiện
đại đã tạo được những âm vang cho tác phẩm của mình một phần nhờ vào ý
thức khai thác hợp lí các phẩm chất của văn học.Sự hiểu biết về văn học nghệ
thuật tựa như một duyên nghiệp hiển nhiên góp phầm làm giàu thêm năng lực
sáng tạo cho các nàh báo.Trên thực tế, văn học đã cung cấp cho báo chí một
đội ngũ rất đông các nhà báo tâm huyết và tài năng, đã mang đến cho báo chí
một khối lượng tác phẩm lớn, cùng một nguồn đề tài vô tận và hấp dẫn, một
kho báu ngôn từ giàu có cùng nhiều thể loại văn chương quí báu.
2.Mục đích nghiên cứu:
Khảo sát đội ngũ nhà báo Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm
1945, chúng ta dễ dàng nhận thấy 1 điều : Hầu như tất cả những nhà báo lúc
bấy giờ đều là nhà văn và trong mỗi nhà báo dường như đều có 1 nhà văn. Có
những tên tuổi lớn mà bây giờ thế hệ những nhà báo trẻ vẫn ko ngừng phải
học tập như : Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Hoài Thanh… Cho đến hôm
nay, báo chí vẫn ko ngừng tỏa ra một từ trường lớn thu hút ngày càng nhiều
những người từ địa hạt văn chương gia nhập vào làng báo: Trần Mạnh Hảo,
Trần Đăng Khoa, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Hòa Bình, Minh Chuyên… Rõ
ràng sự gặp gỡ của văn chương và báo chí đã tạo ra một nguồn năng lượng rất
lớn để có thể bùng nổ những tài năng nghệ sĩ. Điều đó cho thấy sự ảnh hưởng
ko nhỏ của văn chương đối với báo chí thông qua đội ngũ những người làm
3
báo.Văn học đã cung cấp cho báo chí một độingũ đông đảo những nhà báo
tâm huyết, tài năng.
Việc khai thác vận dụng những tri thức văn học đã mang lại cho đời
sống báo chí nhiều điều bổ ích, đặc biệt là một nguồn sinh lực mới dồi dào.
Trước hết, những ưu thế văn chương sẽ nâng cao bút lực cho mỗi người
làm báo và tăng thêm bút hồn cho mỗi bài báo.
Thứ hai, văn học và chất liệu văn học sẽ tạo nên sức hấp dẫn, tăng
cường hiệu quả thông tin để thu hút công chúng.
Thứ ba, khai thác, sử dụng tri thức văn học còn góp phần quan trọng vào
việc tăng cường tính dân tộc và tính quốc tế, làm cho báo chí Việt Nam phát
triển theo hương hiện đại mà vẫn ko đánh mất bản sắc dân tộc.
Rõ ràng việc khai thác , sử dụng những ưu thế của văn học đã có một ý
nghĩa thực sự lớn lao đối với đời sống báo chí. Vì vậy trong quá trình sáng
tác, người làm báo phải có ý thức khai thác và vận dụng những ưu thế của văn
học, tri thức văn học phải thường xuyên được sử dụng một cách linh hoạt
dưới nhiều hình thức phong phú sinh động để đạt được hiệu quả cao.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Ngày nay trong các loại hình báo chí thì báo truyền hình cũng là một
loại hình đang rất phát triển. Nghiên cứu việc sử dụng văn học trong các
chương trình truyền hình giúp ta làm rõ hơn tầm ảnh hưởng quan trọng của
văn học trong báo chí.
Bài viết sẽ khảo sát đối với các chương trình truyền hình được phát sóng
rộng rãi trong nước cũng như ngoài nước: chương trình thời sự, chương trình
văn nghệ: Chiếc nón kì diệu, Ai là triệu phú, Rung chuông vàng…(VTV3),
4
Đuổi hình bắt chữ,Vượt qua thử thách…(THHN), Rồng vàng, Trúc
xanh(TPHCM), các chương trình chuyên đề : Gặp nhau cuối tuần, Người xây
tổ ấm, Người đương thời, Những ước mơ xanh(VTV1)… và các chương trình
truyền hình của nước ngoài để khẳng định hiệu quả của việc sử dụng chất liệu
văn học trong làm báo.
Về bình diện khai thác bài viết qui vào một số bình diện sau để tiện
khảo sát: thành ngữ, tục ngữ, thơ văn, tác giả, tác phẩm, nhân vật, điển tích,
điển cố và ngôn ngữ giàu biểu cảm, những lối nói đã thành qui phạm, mẫu
mực trong gia tài văn học dân tộc và nhân loại… thường được sử dụng như
những thông điệp giàu sức gợi cảm để tăng cường 1iệu quả phản ánh và tác động
trong các tác phẩm báo chí.
4. Lịch sử vấn đề:
Vận dụng những ưu thế của văn trong sáng tác tác phẩm báo chí đang
còn là một hướng nghiên cứu mới mẻ,hầu hết các nghiên cứu về vấn đề này
đều chưa được trình bày một cách chuyên sâu,nhưng đã được triển khai
nghiên cứu ở quy mô nhỏ cấp cơ sở. Những kết quả bước đầu đã được công
Vận dụng những ưu thế của Văn học trong sáng tác tác phẩm báo chí đang
còn là một hướng nghiên cứu mới mẻ,hầu hết các bố trên một số cuốn sách và
các báo ở các tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên vấn đề này hứa hẹn nhiều
công trình nghiên cứu hơn trong thời gian sắp tới sau sự ra đời của cuốn
sách :Phát huy những ưu thế của Văn học trong sáng tạo tác phẩm Báo chí do
Phó giáo sư tiến sĩ Trần Thị Trâm chủ biên xuất bản năm 2008 bởi Nhà xuất
bản Văn hỏa-Thông tin-Hà Nội. Đây là nghiên cứu chuyen sâu đầu tiên về đề
tài này ở cấp độ cao, với mực độ giải quyết vần đề một cách sâu sắc và hệ
thống hơn.
Trên thế giới,nhất là ở Mỹ và các nước phương Tây,với quan niệm lấy
tính thời sự và nhiều thông tin làm trọng:"Thà đọc những bài báo nhiều thông
5
tin mà có cách viết bình thường còn hơn đọc những bài báo có câu chữ chau
chuốt,chọn lọc nhưng ít thông tin." (Frenck Renaud,một nhà báo kiêm giảng
viên báo chí người Pháp, phát biểu trong một dịp trao đổi nghề nghiệp với báo
giới Việt Nam). Điều này khiến cho mối quan hệ giữa văn và báo có phần
lỏng lẻo nhưng không thể phủ nhận sự hiện hữu của văn học,đặc biệt là văn
học focklore (văn học dân gian) đối với Báo chí. Trong bài viết của mình
người viết sẽ đưa ra một số ví dụ để chứng minh điều đó.
5.Phương pháp
Để tập hợp tư liệu đủ độ tin cậy, người viết sẽ sử dụng các phương
pháp khảo sát, thống kê và phân loại các tư liệu có liên quan đến việc vận
dụng tri thức văn học trong tác phẩm báo chí, đặc biệt là trong truyền hình. Vì
số lượng ấn phẩm báo chí rất lớn trong khi điều kiện và thời gian không cho
phép, nên người viết đã chú ý đến phương pháp chọn mẫu sao cho qua các tác
phẩm, tác giả tiêu biểu có thể thấy được toàn bộ các mặt của vấn đề sử dụng
văn học trong báo chí, từ đó sẽ phân tích, đánh giá và đi đến những kết luận có
căn cứ.
Dĩ nhiên, để có cái nhìn khách quan và sâu sắc về hiệu quả của việc vận
dụng tri thức văn học trên báo chí, người viết cũng sẽ sử dụng phương pháp
so sánh nhằm mục đích thực hiện tốt bài khảo sát của mình.
6. Kết cấu:
Bài viết gồm có 3 phần:
I. Những vấn đề chung
II. Nội dung
III. Kết luận
6
II. Nội dung:
1.Khảo sát:
Sử dụng thành ngữ, tục ngữ để đặt tên tác phẩm truyền hình hay một
chuyên mục: Tam sao thất bản ( VTV3, THVN), Đánh rắn động cỏ ( Làm
giàu không khó, 2/6/2006 VTV1 THVN ), Đồng Tháp nơi đất lành chim đậu
( VTV2, sáng thứ 7 ngày 27/6/2006). Một chương trình " Doanh nhân Việt
Nam " (VTV1), nói về cuộc đời thăng trầm và những cống hiến to lớn và quí
báu, những việc làm công phu của lương y - tiến sĩ khoa học Nguyễn Hữu
Khai, giám đốc tập đoàn y dược Bảo Long. Tuy là một chương trình kinh tế
nhưng lại mang một cái tên thật hay : sang trọng, ngắn gọn nhưng lại nêu bật
được bản chất vấn đề nhờ một câu thành ngữ cũng là tên một cuốn truyện của
Thanh Tịnh. Bên cạnh đó thì việc dùng điển tích, điển cố và ngôn ngữ văn
học giàu biểu cảm cũng làm cho chương trình thêm hàm súc, sang trọng và
giàu ngữ nghĩa : " Giấc mơ hoa " ( Tên chương trình âm nhạc, 29/10/2006.
VTV1 )
Thông thường mở đầu một lần chơi trên chương trình truyền hình,
không phải vô cớ mà người ta đều sử dụng cách điền từ vào câu thành ngữ
hay một câu tục ngữ:" Lòng vả cũng như làng sung" , " Lươn ngắn còn chê
trạch dài", " Múa rìu qua mắt thợ", " Giỏ nhà ai quai nhà nấy" ( Câu hỏi
chọn người chơi, Ai là triệu phú )… Hay như trong chương trình Rung
chuông vang thì ở câu hỏi 20 để rung được chuông thì thí sinh đã phải trả lời
một câu hỏi liên quan đến văn học về Truyện Kiều của Việt Nam.
Càng ngày báo chí càng có nhu cầu vay mượn những tác phẩm văn học
để chuyển thể thành các kịch bản truyền thanh, truyền hình, các phim truyền
hình nhiều tập. Càng ngày số lượng tác phẩm văn học được chuyển thể sang
tác phẩm báo chí càng nhiều và đã tạo ra được một sức cuốn hút lớn đối với
công chúng. Mỗi năm riêng báo hình cũng phải chuyển thể khoảng vài trăm
tác phẩm văn học. Những chương trình truyền hình trực tiếp phổ biến nội
7
dung văn học gồm có 2 dạng chính: các chương trình nghiên cứu, giảng dạy
văn học và các chương trình sử dụng tác phẩm văn học đã được chuyển thể.
Nếu không có văn học thì không thể có các chương trình này:
- Trang văn học nghệ thuật (THVN), thời lượng phát sóng là 35 phút,
một tuần 2 buổi vào 19 giờ 50 thứ 5 và 10 giờ 50 sáng thứ bảy.
- Diễn đàn văn nghệ (VTV1), thời lượng phát sóng 60 đến 90 phút một
tuần 2 buổi vào 13 giờ 30 thứ 2 và 20 giờ ngày thứ tư.
- Cửa sổ văn học (VTV1), thời lượng phát sóng 90 phút, phát sóng vào
20 giờ thứ 2 hàng tuần và phát lại vào 15 giờ ngày chủ nhật.
- Câu lạc bộ người yêu thơ ( VTV1), thời lương phát sóng 105 phút,
vào 5 giờ 15 phút sáng thứ 2 hàng tuần.
- Chương trình Bồi dưỡng kiến thức luyện thi tốt nghiệp và đại học
môn văn ( VTV2)
- Chương trình Dạy đại học từ xa môn văn (VTV2)
- Chương trình Em yêu văn học (VTV2)
- Chương trình Mỗi ngày một cuốn sách ( VTV1), thời lượng ngắn chỉ
khoảng 10 phút vào mỗi buổi sáng trên chương trình Chào buổi sáng.
- Chương trình Trúc xanh (THTPHCM), phát sóng vào 20 giờ thứ tư
hàng tuần.
- Chương trình Đuổi hình bắt chữ (THHN) phát sóng vào 20 giờ thứ
bảy hàng tuần.
Trong một chừng mực nào đó cũng có thể kể thêm các chương trình trò
chơi trên truyền hình, bởi vì ở đây nhà đài đã sử dụng rất nhiều tri thức văn
học dưới các hình thức rất sinh động, mà nhiều nhất là văn học dân gian. Nên
có thể nói: phi văn học bất thành trò chơi truyền hình.
Bên cạnh đó những chương trình truyền hình với qui mô lớn được tạo
nên bởi sự kết hợp tri thức văn học với các tri thức văn hoá khác. Đo slà
những chương trình chuyên đề thu hút được sự quan tâm của đông đảo người
8
xem như: " Gặp nhau cuối tuần", "Những ước mơ xanh", "Người đương
thời", "Người xây tổ ấm"…
" Gặp nhau cuối năm 2006" là một chương trình được công chúng
yêu thích. Dĩ nhiên có phần do chương trình là lời chào tạm biệt sau gần 7
năm tồn tại. Chương trình được dàn dựng công phu, với sự góp mặt của nhiều
danh hài từ Nam chí Bắc. Nhưng một phần quan trọng là do: trong bô khung
của chương trình có sự kết hợp khéo kéo giữa tri thức văn học ( cả văn học trong
nước và trên thế giới) với các tri thức văn hoá khác để tạo thành một chương trình
tạp kĩ thật sự vui nhộn.
Biểu tượng con tàu chở tếng cười đã đưa hành khách tới bến và dừng
lại, kết hợp với những lời dẫn thấm đẫm chất văn chương của Thảo Vân, cộng
thêm những giọt nước mắt đầy tâmhuyết của Minh Vượng… đã làm cho
người xem vô cùng xúc động. Nhờ thế mà những ấn tượng tót đẹp về chương
trình cứ âm vang mãi trong lòng khán giả.
Thậm chí từ một ý tưởng văn học có thể làm cơ sở giúp cho người làm
báo tiếp tục sáng tạo thành một tác phẩm báo chí, một chương trình lớn.
Chẳng hạn bài thơ " Người đi tìm hình của nước" của nhà tơ Chế Lan Viên
chính là cơ sở để các nhà báo tạo ra cả một chương trình cầu truyền hình
hoành tráng trên VTV1 ( tối 5/6/2006), để kỉ nệm 95 năm ngày bác Hồ ra đi
tìm đường cứu nước. Hay chỉ một câu thơ Tố Hữu trong bài " Sáng tháng
năm" : Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn cũng gợi ý tưởng để có một
chương trình có tên gọi " Du lịch về thủ đô gió ngàn" trên VTV1 ngày
19/8/2006.
Các trò chơi trên truyền hình: "Đuổi hình bắt chữ" (THHN), "Tam
sao thất bản" (VTV3), " Khám phá chữ Việt" (VTV9)… sử dụng rất nhiều
ca dao tục ngữ. Đặc biệt là Đuổi hình bắt chữ, người làm chương trình đã
triệt để sử dụng lối tư duy trực giác theo kiểu: trong mặt mà bắt hình dong, lối
trình bày sự vật nửa kín nửa hở của thể loại câu đố giân dan…luôn tạo nên sự
bất ngờ làm cho người chơi đoán chệch đi mà có được những tiếng cười vô
9
cùng sảng khoái cho người xem. Sự kết hợp thông minh giữa tri thức văn học
với tri thức hội hoạ dã tạo nên sự thành công cho một chương trình trò chơi
đầy hấp dẫn và ấn tượng.
Nhiều phim truyền hình cũng được ra đời dựa vào một ý tưởng văn
học. Những phim hài hay nhất trong những năm gần đây của chúng ta như "
Người thổi tù và hàng tổng", "Vợ chồng nhà Mộc"… đều nhờ dựa vào
những ý tưởng văn học, lối kết cấu và tư duy trực giác trong các truyện cười
dân gian.
Nhiều chương trình được tạo nên bởi sự kết hợp nhiều loại tri thức
nhiều yếu tố
văn học Đông Tây kim cổ kết hợp với những lĩnh vực khác.
Những câu hỏi về kiến thức văn học thương chiếm khoảng 20 đến 30%.....
Đặc biệt riêng chương trình Đuổi hình bắt chữ thì tỷ lệ câu hỏi văn học( đa
số là ca dao, tục ngữ, thành ngữ) chiếm tới trên 50%.Cá biệt như chương
trình ngày 5/6/2004, tỷ lệ văn học dân gian chiếm tới hơn 70%.
Sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong các chương trình truyền hình như
các ví dụ sau đã tạo nên sự biểu cảm hấp dẫn:
Sử dụng văn học
Chương trình
"Bắt tận tay day tận Sức sống mới
Hiệu quả sử dụng
MC Thanh Mai đã sử
trán"
dụng câu tục ngữ để chỉ
(VTV1)
một việc làm không thể
chối cãi của công ty
VEDAN khi học cố vùi
sâu hệ thống thải chưa
qua xử lí dưới dòng
10
sông
2h/đêm
làm
ô
nhiễm môi trường, gây
ngộ độc với người dân
xung quanh khu vực
sông Thị Vải. Câu tục
ngữ có hiệu quả giúp
khán giả có thể chắc
chắn đây là một sự thật
không
thể
chối
cãi,
không hề có sự bịa đặt,
đã được mắt thấy tai
nghe.
Câu tục ngữ được sử
" Ngủ ngày cày đêm"
Nhật kí O2
dụng khi MC có cuộc
(O2 TV)
trò chuyện với nhà báo,
hoạ sĩ Nguyễn Sơn Hà ở
báo bóng đá về công
việc thường ngày. Câu
tục ngữ có hiệu quả giúp
khán giả hiểu một cách
khái quát về công việc
của
nhà
báo
Sơn
Hà,công việc của anh là
làm việc vào buổi đêm.
Khi giới thiệu về gia
đình của người chơi,
" Ruộng sâu trâu nái Nào hãy mời tôi vào nhà MC đã hỏi người chơi
11
không bằng con gái đầu
(H1)
mới sinh con gì và nhận
lòng"
được câu trả lời là con
gái. Đây là một tình
huống thông minh của
MC khi biết sử dụng
một câu tục ngữ ca ngợi
việc sinh con gái đầu
lòng vì thời đại ngày
nay ai cũng muốn sinh
con trai.
MC Mai Quyên đã dùng
câu tục ngữ này để mở
" Trăm hay không bằng
Thế hệ tôi
đầu hoàn hảo về việc
(VTV6)
các trường đại học bắt
tay quen"
tay
với
nghiệp
các
để
doanh
mang
lại
phương pháp học hiệu
quả. Đúng là dù học
nhiều mà không được
thực hành thì cũng vô
nghĩa. Ở đây các sinh
viên trong các trường
đại học đó được thực
hành ở các doang nghiệp
mà trường đó cộng tác.
Để nói về vấn đề hoạch
định kinh tế hiện nay
12
Sức sống mới
" Nước đến chân mới
(VTV1)
nhảy"
của các gia đình, MC
Trung Dũng đã sử dụng
câu tục ngữ để nói về
hiện tượng nhiều gia
đình không biết hoạch
định kinh tế khiến cho
gia đình lúc có việc thì
không biết sẽ làm thế
nào. Chỉ bằng một câu
tục ngữ ngắn gọn đã có
thể chuyển tải được hết
ý nghĩa của MC muốn
chuyển tải đến khán giả.
MC đã sử dụng câu tục
ngữ một cách rất hợp lí
để nói về việc tăng giá
xăng dầu dù rất khó
khăn nhưng vì điều đó
đã tạo ra một điều lợi
Thời sự
"Cái khó ló cái khôn"
cho các tàu thuyền.
(VTV3)
Khi MC giới thiệu về
công việc tao mẫu các
kiểu tóc của nhà thiết
kế đã tạo cho người
xem một sự nhẹ nhàng
lôi
"Cái răng, cái tóc là gốc
cuốn
khi
xem
Tư vấn tiêu dùng
chương trình. Khán giả
( Style TV)
xem truyền hình sẽ bị
cuốn vào chương trình
con người"
13
theo một cách rất tự
nhiên.
2. Hiệu quả thẩm mĩ:
Việc sử dụng văn học trong các tri thức văn học trong sáng tạo tác
phẩm báo chí đã đem đến những hiệu quả thẩm mĩ:
- Tăng cường sức hấp dẫn, tăng cường hiệu quả thông tin để thu hút
độc giả. Nhiều chương trình của đài phát thanh, truyền hình, báo mạng…đã
thu hút được số lương đông đảo bạn đọc.
- Góp phầm nâng cao bút lực của nhà báo và bút hồn cho mỗi bài báo.
Khi một người ra nhập làng báo từ địa hạt văn chương, nhờ những linh giác
trời phú lại dược đào tạo chuyên sâu về một ngành khoa học xã hội cơ bản;
góc nhìn nhân văn cho phép nhà báo có cách tiếp cận cuộc sốngtrong chiều
sâu văn hoá, sẽ mang đến cho người làm báo những phẩm chất nghề nghiệp
quan trọng. Đó là năng khiếu quan sát, là khả năng phát hiện và thể hiện vấn
đề.
- Góp phần tăng cường tính dân tộc cho báo chí: văn học dân tộc (đặc
biệt là văn học dân gian mà nhất là thành ngữ, tục ngữ) chính là văn hoá bản
địa, là nơi lưu giữ những trầm tích văn hoá, những mã di truyền văn hoá mang
đậm bản sắc dân tộc. Vì vậy, việc khai thác, vân dụng tri thức văn học dân tộc
14
trong sáng tạo tác phẩm báo chíchính là một cách hữu hiệu để giới thiệu văn
hoá Việt Nam với bạn bè thế giới trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay.
Có thể nói rằng việc khai thác, vận dụng tối đa sức mạnh của văn
chương là một hướng quan trọng giúp ta có thể nâng cao hơn nữa chất lượng
và hiệu quả của mỗi chương trình truyền hình. Song, điều phải quan tâm là tri
thức văn học phải được sử dụng đúng chỗ, đúng lúc và đúng liều lượng mới
đạt được hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đó vẫn không tránh khỏi những hạn chế trong việc khai thác,
vận dụng tri thức văn học:
Gần đây trên những chương trình Vì người nghèo của đài Truyền hình,
hầu như chương trình nào cũng sử dụng những câu tục ngữ, thành ngữ, mà cả
khách mời và nhà đài đều nói đi nói lại : Bầu ơithương lấy bí cùng, Thương
người như thể thương thân, Lá lành đùm lá rách… Chương trình ngày thương
binh liệt sĩ 27/7 thì đồng loạt mọi báo đài đều theo khuôn mẫu: Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây, Uống nước nhớ nguồn…
Một số thì mắc lỗi khi sử dụng thi liệu: Giáo sư Nguyễn Khắc Phi đã
phát hiện ra một nhà văn khi xuất hiện trên báo hình đã nói:
Học nhi bất yêm
Hối nhân bất quyện.
Thực ra phải nói là : Học nhi bất yếm
Hối nhân bất quyện
- Sai nhiều nhất là từ tựa đề. Rất nhiều người làm báo( đặc biệt là
người dẫn các chương trình âm nhạc và thể thao) do thích dùng từ Hán Việt
cho sang nên đã nhầm tên tác phẩm là tựa đề mà khong hiểu tựa đề là tiểu dẫn
ở đầu sách, lời tựa là phần sau tên tác phẩm và ở trước cuốn sách.
- Tên chương trình vui chơi giải trí của VTV3, cả các chương trình của
các kênh truyền hình khác cũng thường xuyên xuất hiện những lỗi về dùng từ
Hán Việt này.
15
Nguyên nhân trước hết là do kiến thức Ngữ văn của người làm báo còn
nhiều bất cập. Hiện nay cũng không thiếu những người làm báo kiến thức văn
học chưa vững vàng nếu chưa muốn nói là còn yếu. Cũng có nhiều lí do chủ
quan và khách quan. Có không ít những nhà báo do hoàn cảnh cần đào tạo
gấp nên việc đào tạo không hệ thống.Hay không do đọc sách mới có hiện
tượng viết một cách chụp giật,chữ tác đánh chữ tộ, viết sai câu, sai lỗi chính
tả một cấch ngớ ngẩn. Một nguyên nhân khác nữa liên quan đến hiểu biết văn
chương của người làm báochính là những kiến thức văn chương họ nhận được
trong quá trình đào tạo còn qua sít và có lẽ chua đủ tinh, chưa hẳn là cái mới
và cái họ thực sự đang cần.
16
III. Kết luận:
Tuy còn một số hạn chế, nhưng xét bình diện ở mọi cấp độ, chúng ta
thấy: những đóng góp của văn học đối với báo chí thật sự to lớn và việc phát
huy những ưu thế của văn học trong sáng tạo tác phẩm báo chí đã, đang và sẽ
có một đóng góp quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của báo chí nói
chung mà còn có một ý nghĩa không nhỏ đối với sự nghiệp cầm bút của mỗi
người làm báo và đối với sức sống của mỗi bài báo.
17