Bài tập thuyết trình
Môn: Địa lý thủy văn
Lớp: Địa lý thủy văn
Đề Tài: Tìm hiểu về lưu vực sông Mã
MỤC LỤC
I.Giới thiệu chung về lưu vực sông Mã
1
1.1 Vị trí địa lý
Sông Mã là con sông lớn nhất của miền Trung, bắt nguồn từ dãy núi Bon
Kho, ở độ cao 2.178 m thuộc huyện Tuần Giáo tỉnh Lai Châu, chảy theo hướng
Tây Bắc – Đông Nam qua 5 tỉnh trong nước: Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình,
Nghệ An, Thanh Hóa và tỉnh Sầm Nưa của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào rồi đổ ra Biển Đông tại Cửa Hới (Lạch Trào) và hai của phụ là Lạch
Trường và Lạch Sung
Sông Mã gồm nhiều nhánh sông nhập vào điển hình như: Sông Chu, sông Âm,
sông Cầu Chày, sông Bưởi,
Hướng chính Tây Bắc-Đông Nam qua huyện Sông Mã của tỉnh Sơn La rồi qua
lãnh thổ Lào ở Cửa khẩu Chiềng Khương.
Nguồn thứ hai bắt đầu từ sườn phía Bambusao, hai nguồn này đều đổ vào
Thanh Hóa qua địa phận tỉnh Sầm Nưa. Tại Thanh Hóa, sông tiếp tục giữ
hướng Tây Bắc - Đông Nam chảy qua các huyện phía Bắc của tỉnh, hội lưu
với sông Chu rồi đổ ra vịnh Bắc Bộ theo 2 nhánh sông (nhánh phía Nam vẫn
gọi là sông Mã, nhánh phía Bắc gọi là sông Lèn) ở Lạch Hới (cửa Hới) nằm
giữa huyện Hoằng Hóa và thị xã Sầm Sơn cùng Lạch Sung (cửa Sung) nằm
giữa huyện Hậu Lộc và Nga Sơ
Toàn bộ lưu vực sông nằm trong phạm vi: từ 199̊37’30’’ đến 219̊37’30’’N và từ
1039̊08’00’’ đến 1069̊05’10’’E. Lưu vực sông Mã giáp với: lưu vực sông Đà và
sông Bôi ở phía Bắc; lưu vực sông Mê Kong ở phía Tây; lưu vực sông Hiếu và
sông Yên ở phía Nam còn phía Đông là Biển Đông.
Sông Mã là sông lớn, có diện tích lưu vực đứng thứ 5 ở Việt Nam sau các sông
Mê Kông, sông Hồng _ Thái bình, sông Đồng Nai và sông Cả. Tổng diện tích
toàn lưu vực là 28.400 km2 trong đó, diện tích thuộc lãnh thổ Việt Nam là
17.720 km2 chiếm 62% tổng diện tích toàn lưu vực, tại Lào là 10.680 km2
chiếm 38% diện tích lưu vực.
Sông Mã chảy qua địa bàn huyện Cẩm Thuỷ - Tỉnh Thanh Hoá
Phần lưu vực sông Mã thuộc tỉnh Điện Biên bao gồm các huyện Tuần Giáo và
Điện Biên Đông với các phụ lưu chính là Nậm Khoai thuộc huyện Tuần Giáo
và Nậm Mạ huyện Điện Biên Đông. Tổng diện tích phần lưu vực này là 2.550
km2.
Phần lưu vực sông Mã thuộc tỉnh Sơn La bao gồm các huyện gồm: Sông Mã,
Sốp Cộp.
2
Phần lưu vực sông Mã thuộc tỉnh Hòa Bình gồm các huyện Mai Châu, Tân
Lạc, Lạc Sơn.
Phần lưu vực sông Mã thuộc tỉnh Nghệ An chỉ có huyện Quế Phong.
Hình 1.Bản đồ lưu vực sông Mã
1.2 Hệ thống mạng lưới sông suối
Hệ thống sông Mã có 90 nhánh; 40 nhánh sông cấp I; 33 nhánh sông cấp II;
16 nhánh sông cấp III và 1 nhánh sông cấp IV. Trong 40 sông nhánh cấp I có 5
sông diện tích lưu vực từ 1000 km2 trở lên
Hệ thống sông Mã gồm dòng chính là sông Mã và 2 phụ lưu lớn là sông
Chu, sông Bưởi
Các phụ lưu lớn của sông Mã là sông Chu, sông Bưởi, sông Cầu Chày đều hợp
lưu với sông Mã trên địa phận Thanh Hóa. Ngoài ra còn có các phụ lưu nhỏ
như sông Lũng, sông Sơn Trà, sông Nậm Soi.
Lưu vực sông Mã có diện tích là 28.400 km2,với chiều dài sông là 512 km,
chiều dài lưu vực là 421 km, độ cao bình quân lưu vực là 762 m, độ dốc bình
quân lưu vực là 17.6% và độ rộng bình quân lưu vực là 68.8 km.
Trong 28.400 km2 của lưu vực, phần thuộc Thanh Hóa là 8.965,92 km2,
chiếm 31.2% diện tích lưu vực và 48.9% phần lưu vực thuộc lãnh thổ Việt
Nam, phần lưu vực thuộc lãnh thổ Lào khoảng 10.200 km2 , chiếm 35.9%,
phần còn lại thuộc Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình và Nghệ An.
3
1.3. Điều kiện khí hậu và dòng chảy.
Lưu vực sông Mã trải dài nên chế độ khí hậu của các vùng miền khác nhau
nhưng đều mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới, gió mùa. Một năm
thường có đầy đủ 4 tiết khí hậu xuân, hạ, thu, đông. Giữa các vùng khí hậu có
chênh lệch nhau, phần thượng nguồn nằm trong vùng thời tiết khí hậu Tây
Bắc - Bắc Bộ, vùng sông Chu nằm trong vùng thời tiết khí hậu Bắc Trung bộ.
Phần trung và hạ lưu sông Mã nằm trong vùng khí hậu giao thời giữa Bắc Bộ
và Bắc trung bộ. Chính vì vậy khí hậu trong lưu vực rất đa dạng, phong phú
và ôn hoà.
a. Mưa:
Lượng mưa bình quân năm phần thượng nguồn khoảng 1.200-1.700
mm/năm, phần trung lưu khoảng 1.500-1.600 mm/năm, vùng thượng nguồn
sông Chu 2.000-2.200 mm/năm, vùng đồng bằng hạ du 1.600- 1.800
mm/năm. Mùa mưa thượng nguồn từ tháng V đến tháng X. Mùa mưa vùng
sông Chu từ cuối tháng VIII đến đầu tháng XI.
Theo thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước khung của Liên hiệp
quốc về biến đổi khí hậu, đến năm 2070 khu vực Bắc trung bộ sẽ chịu tác
động như sau: Nhiệt độ trung bình năm tăng trung bình 0,10C/10năm, các
tháng mùa hè tằng từ 0,1-0,30C/10năm là nguyên nhân làm suy giảm nguồn
nước ở các lưu vực sông (nhất là các tháng mùa kiệt) trong vùng từ 2,1% đến
42,9%, trong đó mức độ suy giảm nghiêm trọng tại một số lưu vực như Lưu
vực sông Mã, sông Chu sẽ giảm tới 11,5% so với dòng chảy bình quân hiện
tại.Nguồn nước bị suy giảm gây nên tình trạng thiếu nước, nhất là ở các sông
suối nhỏ, khu vực miền núi. Gây khó khăn trong công tác cấp nước sinh hoạt,
tưới và cấp nước cho các ngành. Mưa có xu thế giảm các tháng mùa khô và
tăng trong các tháng mùa mưa (tháng 9, 10, 11) tăng nguy cơ lũ lụt ở các lưu
vực sông, nhất là khu vực đồng bằng. Nước biển dâng dự báo sẽ tăng 9cm vào
năm 2010, 33cm vào năm 2050 và 45cm năm 2070. Nước biển dâng sẽ có tác
động mạnh đến các hoạt động tưới, tiêu, chống lũ của lưu vực sông. Bao gồm:
- Về cấp nước: Mực nước biển dâng sẽ làm cho xâm nhập mặn vào sâu trong
sông, mặn tiềm tàng trong đất dẫn đến nhu cầu dùng nước sẽ tăng cao và
ảnh hưởng tới diện tích vùng đồng bằng ven biển và thiếu nước sinh hoạt.
-Về tiêu thoát nước: Mực nước biển sẽ ảnh hưởng tiêu tới vùng ven sông và
vùng tiêu ra sông bằng cống tự chảy hiện nay.
4
-Về phòng chống lũ: Mực nước biển dâng chỉ ảnh hưởng tới đê bối, đê cửa
sông ven biển, còn vùng bị lũ uy hiếp không bị ảnh hưởng. Thủy triều chỉ ảnh
hưởng nhưng không dâng cao mực nước trong sông mà chỉ làm giảm khả
năng thoát lũ và thời gian lũ dài hơn.
Nguồn tài liệu:
“Báo cáo Quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước lưu vực sông
Mã - Viện Quy hoạch Thủy lợi, 2005”; “Báo cáo quy hoạch tổng thể thuỷ lợi
trong điều kiện biến đổi khí hậu nước biển dâng Vùng Bắc Trung bộ- Viện
quy hoạch Thuỷ lợi 2011
b. Dòng chảy:
Dòng chảy trên sông biến đổi mạnh theo thời gian và không gian. Lượng
dòng chảy tháng, năm trung bình nhiều năm tại một số trạm thuỷ văn. Nhìn
chung, sự phân phối dòng chảy trong năm của sông vừa và lớn đều có dạng 1
đỉnh với đỉnh cao nhất xuất hiện vào tháng 9 hay tháng 8; riêng đối với các
sông nhỏ ở lưu vực sông Chu thì dạng phân phối có 2 đỉnh, trong đó đỉnh phụ
xuất hiện vào tháng 5 hay 6. Mức thay đổi dòng chảy trong năm tại Cẩm Thủy
khá lớn. Lưu lượng dòng chảy tháng 4 (111m3 /s) chỉ bằng 1/3 lưu lượng
bình quân năm (334 m3 /s) và bằng 1/7 lưu lượng bình quân tháng lớn nhất
(tháng 8). Số liệu thống kê cho thấy dòng chảy lũ lớn nhất quan trắc được tại
Cửa Đạt, Xuân Khánh và Cẩm Thủy lớn hơn dòng chảy kiệt nhỏ nhất tại cùng
vị trí quan trắc là 442,1713 và 258 lần. Thời gian xuất hiện lũ thay đổi theo
từng vị trí. Từ tháng 6 đến tháng 10 trên sông Mã, từ thánh VI đến tháng XI
trên thượng nguồn sông Chu và từ tháng 7 đến tháng 11 trên hạ du sông Chu.
Tổng lượng dòng chảy mùa lũ chiếm 65-80% tổng lượng dòng chảy năm.
Hàng năm, sông Mã tải ra biển một lượng nước 18 tỷ m 3 /năm. Dòng chảy
phân bố không đều. Vào mùa khô, tổng lượng dòng chảy chỉ có 4,76 tỷ m 3 ,
tương đương với 26% dòng chảy năm. Trong khi đó 4 tháng mùa lũ tổng
lượng dòng chảy chiếm tới 74% tổng lượng dòng chảy năm. Tổng lượng
nước bình quân đầu người trên lưu vực sông Mã là hơn 4.100 m3 /người cao
hơn mức đầy đủ (4.000m3 /năm) không nhiều tuy nhiên nếu xét tới yếu tố
trên sông Mã có 22% dòng chảy từ nước ngoài chảy vào thì chỉ tiêu trên giảm
đi nhiều và vào mùa kiệt tổng lượng nước bình quân đầu người trên lưu vực
sông Mã là 1.080 m3 . So với các lưu vực sông có tổng lượng nước bình quân
đầu người lớn nhất của Việt Nam (sông Cửu Long) và lưu vực sông tổng
lượng nước bình quân theo đầu người nhỏ nhất (sông Đồng Nai), tổng lượng
nước bình quân đầu người của sông Mã tương ứng là 6,7 lần và 1,46 lần.
1.4. Điều kiện thổ nhưỡng và thảm phủ thực vật
5
1.4.1.Điều kiện thổ nhưỡng
a. Tài nguyên đất
So với các sông suối ở miền Trung, lưu vực sông Mã có diện tích đất lớn
nhất và phân bố trên nhiều địa phương và hai quốc gia Việt, Lào. Trong hai
quốc gia, diện tích đất đai phần lưu vực sông Mã thuộc Việt Nam gấp 1.76 lần
phần diện tích đất lưu vực sông thuộc lãnh thổ Lào.
Do vùng lãnh thổ Lào và vùng thượng du là vùng đồi núi cao, nhiều đèo dốc,
giao thông không thuận lợi, dân cư thưa thớt nên khả năng, mức độ khai
thác sử dụng tài nguyên đất cho phát triển kinh tế - xã hội trên lưu vực có
phần hạn chế hơn vùng hạ du thuộc lãnh thổ Thanh Hóa, nơi có nhiều điều
kiện thuận lợi hơn với vùng đồng bằng châu thổ phì nhiêu hơn.
Đất đai trên lưu vực là một tài nguyên quý và đang được sử dụng cho các
mục đích khác nhau: lâm nghiệp (50-55% diện tích tự nhiên lưu vực), nông
nghiệp (25.9%), xây dựng, đất ở,…nhằm phát triển kinh tế - xã hội trên lưu
vực nhưng chưa được xử lý, quy hoạch thống nhất trên lưu vực.
Trong các loại tái nguyên trên lưu vực, đất đai là tài nguyên nhạy cảm nhất
và đã có hệ thống quản lý thống nhất từ cấp tỉnh đến xã, phường với các văn
bản pháp luật đầy đủ nhất. Nhưng vấn đề vi phạm luật đất đai, lấn chiếm,
tranh chấp, khiếu kiện, quy hoạch treo vẫn là vấn đề rất nóng bỏng ở các địa
phương, nhất là tại các khu đô thị, khu kinh tế trọng điểm hạ du.
b. Môi trường đất
Đất đai trong lưu vực là loại đất trung tính, hàm lượng Photpho và Kali từ
nghèo đến rất nghèo, lượng kim loại không đáng kể.
Đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng là loại đất tốt, thích hợp cho các loại
cây trồng. Tại một số nơi như vùng núi, vùng mưa lớn, do thiên tai, bão lũ
nước bị rửa trôi, bồi lấp nen đất nông nghiệp bị giảm phần phì nhiêu, thiếu
dinh dưỡng cho cây trồng.
Do dùng nhiều phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, phần dư thừa do cây
không sử dụng hết nên môi trường đất đã có dấu hiệu bị ô nhiễm, tuy chưa
đến mức nghiêm trọng.
1.4.2.Thảm phủ thực vật
Thảm phủ trên lưu vực rất phong phú với nhiều loại, cả loại thảm phủ tự
nhiên vùng nhiệt đới, á nhiệt đới và loại thảm phủ thực vật trồng bị phần hóa
do điều kiện khí hậu địa hình và do hoạt động của con người.
6
a. Thảm thực vật tự nhiên
Rừng kín lá rộng xanh nhiệt đới ẩm với cấu trúc nhiều tầng là loại rừng tự
nhiên, có độ che phủ rất lớn (kín) còn tồn tại ở Cóc Phương, Thường Xuân,
Quan Sơn, Sông Mã, Lạc Sơn, Tân Lac,…
Rừng thứ sinh là loại rừng phổ biến trên lưu vực có tán dày, phủ kín
nhưng không nhiều tầng và thấp.
Rừng tre nứa nhiệt đới ẩm là loại rừng phân bố khắp nơi, nhưng chủ yếu
ở Thanh Hóa.
Rừng nứa thứ sinh phân bố rất nhiều nơi trên lưu vực, là loại rừng đang
được phục hồi sau nhiều kỳ khai thác.
Rừng hỗn giao có độ che phủ kín là loại rừng cây lá rộng, lá kim xen kẽ tre
nứa và cây bụi có chỗ 1 tầng, có chỗ 2-3 tầng phân bố nhiều nơi.
Trảng bụi cỏ thứ sinh nhiệt đới ẩm phân bố đan xen rừng tre nứa thứ sinh
phát triển rộng khắp.
Trảng bụi cỏ thứ sinh á nhiệt đới phân bố trên núi cao, có cấu trúc thưa,
thấp
b. Thảm thực vật trồng
- Lúa nước và hoa màu: Phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng, vùng trũng
giữa các khe núi và thung lũng.
- Rừng trồng: Phân bố rải rác trên các đồi núi và đồng bằng.
- Nương rẫy: Phân bố chủ yếu trên các đồi núi thấp, sườn núi…
II: Các vấn đề liên quan đến tài nguyên nước
2.1: Thiên tai
a.Xâm nhập mặn
-Khái niệm
Xâm nhập mặn là sự tích tụ quá nhiều muối hòa tan trong đất. Xâm nhập
mặn bên cạnh sự axit hóa là một trong hai kết quả lâu dài của sự phát triển
đất. Xâm nhập mặn xảy ra khi sự bốc hơi trong sáu đến chín tháng trong một
năm lớn hơn lượng mưa.
Cụ thể ở lưu vực sông Mã
7
Trong những năm gần đây, tình trạng cạn kiệt nguồn nước và xâm nhập mặn
khu vực ven biển Thanh Hóa có diễn biến ngày càng phức tạp. Trong khi đó,
hiện nay đối với lưu vực sông Mã, các nghiên cứu đánh giá và dự báo xâm
nhập mặn còn rất hạn chế, mới chỉ nằm trong các đề tài, dự án và chỉ dừng
lại ở việc sử dụng các mô hình toán để mô phỏng cho một vài năm trong quá
khứ
Xâm nhập mặn bị ảnh hưởng bởi triều và dòng chảy trên sông . Trong những
năm gần đây, vào mùa kiệt, vùng hạ du sông Mã phải đối mặt với tình trạng
suy giảm dòng chảy và xâm nhập mặn gia tăng. Với nồng độ của nước mặn đo
được có thời điểm vượt quá 40/00 (là ngưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến quy
trình sinh trưởng của cây trồng) tại hầu hết các trạm đo trên sông Mã, sông
Lạch Trường, sông Lèn. Độ mặn lớn nhất trên sông Mã tại Giàng cách cửa
sông 24 km năm 2010 đã lên tới 6,1‰, trên sông Lạch Trường tại Cầu Tào
cách cửa sông 24,6km đã lên tới 9,4‰, trên sông Lèn tại Cụ Thôn cách cửa
sông 19km đã lên tới 7,1‰. Trạm bơm Hoằng Giang, huyện Hoằng Hoá trong
mùa kiệt chỉ bơm được 8-10h/ngày, gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất
nông nghiệp nhất là thời điểm lúa trổ và nắng nóng kéo dài. Rõ ràng là xâm
nhập mặn đã và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc lấy nước của các công trình
đầu mối phục vụ tưới tiêu, nuôi trồng thuỷ sản, cấp nước sinh hoạt và các
ngành kinh tế khác.
Trong mùa kiệt mặn xâm nhập ở hạ du sông Lèn tới 20-25 km tính từ cửa
sông. Sông Lèn xâm nhập mặn lên đến Yên ổn, sông Càn lên tới Mĩ Quan
Trang và sông Mã lên tới ngã ba Tuần. Toàn bộ sông Lạch Trường trong mùa
kiệt đều bị mặn. Mặn trên sông Mã tại Hàm Rồng khi đỉnh triều lên độ mặn
lên tới 6%o trong 2-3 giờ, tại ngã ba Tuần mặn lên đến 0,1%o trong nửa con
triều. Trên sông Lèn mặn 0,1%o có năm lên tới Báo Văn. Trên sông Lạch
Trường mùa kiệt mặn thường xuyên lên đến Xiphông Cự Đà.
Năm 2010, nạn xâm nhập mặn trong địa bàn tỉnh vào sớm và sâu hơn, độ
mặn cao hơn các năm trước và duy trì ở mức 1-12 phần nghìn, có thời điểm
lên tới 16 phần nghìn. Do độ mặn cao, đã khiến nhiều trạm bơm dừng hoạt
động. Một số trạm bơm trong tình trạng lấy nước cầm chừng, có nơi mặn đã
nhập sâu tới gần 20km (tại trạm thủy văn Cự Thôn trên sông Lèn, đo được từ
0,3-6 phần nghìn). Tình hình xâm mặn còn được dự báo nhiều khả năng tiếp
tục xâm nhập sâu.
Những tháng về mùa khô khi mà nguồn nước ngọt rất nhỏ, mặn ảnh hưởng
sâu từ 20-40km với độ mặn trung bình mặt cắt từ 1÷1,5‰. Qua theo dõi mức
độ mặn ở lưu vực sông Mã cho thấy mặn có những năm lên đến ngã Ba Giàng
cách cửa sông Mã khoảng 27km. Độ mặn lớn nhất đo được tại Hàm Rồng lên
8
tới 6-7‰; Trên sông Lạch Trường tại Hoàng Yến là 7,1‰, Hoàng Hà là
4,2‰, Xi Phông Cự Đà là 0,22‰; Trên sông Lèn tại Mỹ Điền là 3,5‰, Phà
Thắm là 0,94‰, Quang Lộc là 0,92‰, tại Cầu De trên sông De là 3,6‰.
Bảng 2. Khoảng cách xâm nhập mặn lớn nhất trên các sông
Năm
Ngưỡng(%)
2000
4
1
4
1
4
1
4
1
4
1
4
1
4
1
4
1
4
1
4
1
2001
2002
2003
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Khoảng cách lớn nhất tới biển trên hệ thống sông
(km)
Mã
Lạch Trường
Lèn
19,44
14,29
8,04
22,18
15,5
13
15,63
17,31
9,3
18,77
18,66
13
16,11
15,2
10,04
19,76
19,04
12,6
19,03
24,6
13,31
21,33
21,8
21,84
18,3
23,6
25,6
31,2
20,46
24,6
15,2
25,3
20,51
19,39
19,9
14
21,5
17,3
29,8
19,3
39,5
24,8
19,78
17,69
8,04
21,2
19,23
12,65
19,14
20,22
14,88
21,4
18,95
b. Lũ lụt
Bão, lũ lụt ngày càng gia tăng ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt của
nhân dân và sự phát triển kinh tế xã hội của lưu vực. Những hậu quả để lại
như môi trường bị phá hủy, bệnh tật phát sinh, đồng ruộng bị bồi lập,.. Điển
hình như lũ lịch sử năm 1962 xảy ra trên sông Chu, mực nước tại Xuân Khánh
đạt 13,84m tương đương với tần suất 2,5%; Lũ năm 1980 là lũ lớn trên sông
Mã mực nước tại Giàng đạt 7,51m;.. làm vỡ đê gây thiệt hại lớn về người và
của cho nhân dân tỉnh Thanh Hoá. Theo thống kê thiệt hại trong vùng trong
9
những năm 1998 -2007 số người chết do bão lũ là 39 người, tổng thiệt hại
tài sản khoảng 3.550.000 triệu đồng
c. Hạn hán
Hạn hán những năm gần đây diễn ra rất khó dự báo và khốc liệt hơn làm cho
cạn kiệt các hồ chứa nhỏ, suy giảm mạnh mực nước trên các triền sông là
nguyên nhân chính mặn xâm nhập sâu và ảnh hưởng mạnh đến khả năng lấy
nước của các công trình. Năm 2010 là năm hạn nặng xảy ra trên diện rộng
đối với vùng Bắc Trung Bộ, theo thống kê chưa đầy đủ, đối với tỉnh Thanh
Hoá diện tích hạn vụ Đông Xuân là 30.080ha, các triền sông mực nước xuống
rất thấp, trên sông Mã mực nước thấp dưới mức lịch sử tại Trạm bơm Kiểu là
2,9m, lưu lượng trên sông Mã chỉ đạt 70% lưu lượng kiệt trung bình nhiều
năm , gây nên tình trạng mặn xâm nhập sâu trên các lưu vực sông, không lấy
được nước vào trong đồng.
2.2 Phát triển thủy điện
-Theo dòng sông Mã huyền thoại ,Xuôi về phía hạ lưu, thuộc địa phận huyện
Bá Thước có Thủy điện Bá Thước 1 và 2. Sau khi Thủy điện Bá Thước 2 hoàn
thành, Công ty CP Thủy điện Hoàng Anh Gia Lai đã bắt tay triển khai thi công
Thủy điện Bá Thước 1. Công trình Nhà máy Thủy điện Bá Thước 1 và 2 có
tổng công suất thiết kế 140 MW (một nhà máy 80 MW và một nhà máy 60
MW), tổng mức đầu tư 400 tỷ đồng.
-Trên sông Mã hiện nay đã có khá nhiều công trình thủy điện đã và đang xây
dựng như NM Thủy điện Hồi Xuân, Bá Thước 1, Bá Thước 2 (Thanh Hóa); NM
Thủy Điện Nậm Sợi, Nậm Công (Sơn La)…
-Quy hoạch bậc thang trên sông Mã gồm 9 dự án thủy điện, bao gồm Trung
Sơn (260MW), Thành Sơn (30MW), Hồi Xuân (102MW), Bá Thước 1 (60MW),
Bá Thước 2 (80MW), Cẩm Thủy 1 (28,6MW), Cẩm Thủy 2 (32MW), Cửa Đạt
(97MW) và Xuân Minh (15MW). Có 5 dự án thuộc quy hoạch thủy điện nhỏ là
Trí Năng (3,6MW), Dốc Cáy (15MW), Sông Âm (13MW), Bái Thượng (6MW)
và Tam Lư (7MW).
-Trong số trên, đến nay có 3 dự án thủy điện đi vào hoạt động, 6 dự án đang
thi công xây dựng, 3 dự án đang hoàn chỉnh hồ sơ chuẩn bị đầu tư xây dựng
và 2 dự án tạm dừng chủ trương nghiên cứ đầu tư sau năm 2015 để tiếp tục
rà soát quy hoạch, đánh giá tổng hợp về môi trường – xã hội.Các dự án trên
có tổng công suất khoảng 750 MW, 3 dự án đã đi vào hoạt động có công suất
192 MW.
10
- Điển hình như thủy điện Trung Sơn sẽ cung cấp điện năng cho hệ thống điện
quốc gia với sản lượng điện trung bình năm là 1 tỉ kWh, đồng thời góp phần
kiểm soát lũ và tưới tiêu cho hạ du sông Mã.
-Con đường 15A từ thị trấn Hồi Xuân đến xã Trung Sơn (Quan Hóa) quanh co
men triền sông Mã. Trên đoạn sông – cũng là đoạn đường bộ hơn 30 km này,
đã có tới 3 nhà máy thủy điện được quy hoạch, nhưng do xuất hiện nhiều bất
hợp lý nên tỉnh vừa tạm dừng quy hoạch thủy điện Thành Sơn. Tại hai xã
Thanh Xuân và Hồi Xuân, Nhà máy Thủy điện Hồi Xuân đã được triển khai thi
công từ tháng 3 – 2010. Thế nhưng, 3 năm qua, việc thi công cũng chỉ dừng
lại ở việc đào, đắp đất đá, bạt vài triền núi và một số hạng mục phụ trợ như
đường vận hành, bãi thải, hố móng..
- Việc bạt núi xả hàng triệu tấn đất đá đã lấp dần sông Mã, làm thay đổi dòng
chảy.
2.3 Ô nhiễm môi trường nước
-Hàm lượng kim loại nặng phân tích được, như Chì, Cadimi, Asen,… còn rất
thấp so với QCVN 08:2008/BTNMT. Tại một số điểm quan trắc trên các sông
nói trên, giá trị BOD đã vượt quá QCVN đối với nước loại A. Tuy nhiên, giá trị
này vẫn còn rất thấp so với QCVN đối với nước loại B. Giá trị COD, tại tất các
trạm quan trắc trên các sông nói trên đều thấp hơn ngưỡng cho phép đối với
nước loại A theo QCVN 08:2008/BTNMT. Theo đánh giá, nước mặt lưu vực
sông Mã có dấu hiệu bị ô nhiễm nhẹ bởi các chất hữu cơ tại một số đoạn chảy
qua khu dân cư, khu công nghiệp.
-Thượng nguồn, hàng loạt các cơ sở chế biến luồng trên địa bàn huyện Quan
Hóa (Thanh Hóa) đang ngang nhiên xả thải trực tiếp xuống sông Mã. Dưới hạ
nguồn, người dân dùng nước này để tưới lúa trồng khoai. Thậm chí, hàng vạn
người dân các huyện hạ lưu sông và TP Thanh Hóa lại đang dùng chính
nguồn nước này để ăn uống, tắm giặt.
-Các cơ sở chế biến bột giấy, tăm đũa tại Quan Hóa vô tư “đầu độc” sông Mã.
-Nhà máy tinh bột sắn Bá Thước (thuộc công ty CP Xuất nhập khẩu ra quả
Thanh Hóa) đóng tại xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, sát bờ hữu sông Mã, đã
có hành vi vi phạm hành chính, xả nước thải vào nguồn nước với hàm lượng
chất ô nhiễm vượt quá giới hạn quy định
-Tình trạng ô nhiễm môi trường từ các nhà máy phía thượng nguồn đang
khiến nguồn nước trên sông Mã (Thanh Hóa) bị ô nhiễm nghiêm trọng. Hiện
tượng cá chết diễn ra liên tục trong năm. Cùng với đó nhiều nhà máy thủy
11
điện tích nước khiến mực nước xuống thấp. Nghề nuôi cá lồng đang có nguy
cơ bị xóa sổ.
-Dọc bên bờ sông Mã nhiều thuyền bè nuôi cá lồng bỏ hoang mục nát bên
sông. Mực nước sống xuống quá thấp cộng với việc các nhà máy sản xuất ở
thượng nguồn liên tục xả thải khiến nghề nuôi cá lồng đối mặt với nhiều khó
khăn.
-Nguồn nước tiếp tục bị suy thoái, ô nhiễm Cải thiện chất lượng môi trường
nói chung, chất lượng nước nói riêng đang là mối quan tâm đặc biệt của toàn
xã hội. Trong thời gian qua, do chú trọng vào phát triển kinh tế, nhất là tăng
trưởng GDP, ít chú ý tới bảo vệ tài nguyên nước, dẫn tới suy thoái, ô nhiễm
nguồn nước diễn ra phổ biến, đặc biệt là trong mùa khô, ở những đoạn sông
chảy qua các khu đô thị, khu công nghiệp, khu vực tập trung dân cư và trên
những sông nhỏ ở khu vực đồng bằng. Hậu quả là có nước nhưng vẫn bị thiếu
nước do chất lượng nước không đáp ứng yêu cầu sử dụng. Mặc dù, Nhà nước
đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật cũng như thực hiện nhiều chương
trình, dự án để bảo vệ tài nguyên nước, tuy nhiên tình hình ô nhiễm nguồn
nước vẫn có xu thế tăng lên. Hệ thống giám sát, cảnh báo, thông báo chất
lượng nước và các sự cố ô nhiễm nguồn nước chưa được quan tâm đầu tư
đúng mức.
-Đã đến lúc, tỉnh Thanh Hóa cần có những biện pháp cứng rắn hơn, nghiêm
minh hơn trong việc giữ gìn “sự sống” cho những dòng sông và trên hết là sự
phát triển bền vững cho những thế hệ mai sau.
III. Những thách thức trong việc sử dụng và quán lí TNN ở lưu vực
sông Mã
3.1.Hiện trạng
Sông Mã là con sông lớn nhất tại miền Trung chảy qua nhiều tỉnh trong nước
và tỉnh Sầm Nưa của Lào mà trên đó các hoạt động khai thác phục vụ cho
phát triển kinh tế xã hội diễn ra rất sôi động, nhất là vùng đồng bằng thuộc
lãnh thổ Thanh Hóa. Nhưng các hoạt động khai thác tài nguyên trên lưu vực
sông vẫn chưa được quản lí thống nhất. các hoạt động đó còn phụ thuộc vào
chiến lược riêng của mỗi địa phương, không có quy hoạch thống nhất trong
lưu vực và chưa thực hiện quản lí tổng hợp thống nhất theo lưu vực sông
cũng như chưa có sự phối hợp chung trong công tác bảo vệ môi trường trên
lưu vực. bởi vậy việc khai thác sử dụng tài nguyên là chưa hợp lí, hiệu quả
còn thấp, đó đây trên lưu vực sông đã xuất hiện sự suy thoái tài nguyên và
môi trường. điều này đặt ra cho các cơ quan cán bộ nhà nước nhiều thách
thức về việc sử dụng và quản lí tài nguyên tại lưu vực sông Mã
12
Trên toàn lưu vực sông Mã hiện có hơn 1800 công trình thủy lợi. Trong đó
đáng kể nhất là hồ chứa đa mục tiêu Cửa Đạt có dung tích 1,45 tỷ m3 nước
nhằm giảm nhẹ lũ sông Chu, cấp nước tưới ổn định cho 87000 ha, phát điện
với công suất lắp máy 97 MW và tạo nguồn cấp nước sinh hoạt, công nghiệp.
Hệ thống đập dâng Bái Thượng được xây dựng từ thời Pháp thuộc có nhiệm
vụ tưới cho hơn 50.000 ha. Ngoài 2 công trình lớn trên, còn có 2 hệ thống
trạm bơm lớn Hoàng Khánh, Nam sông Mã và một số hồ chứa có dung tích
khá lớn như: hồ Thung Bằng, hồ Tây Trác, Đồng Ngư, Cống Khê, Bai Manh,
Bai Lim, Minh Sơn, hồ sông Mực, hồ Yên Mỹ,... và đầu tư nâng cấp nhiều công
trình đầu mối, kênh mương đã hỗ trợ đắc lực cho cấp nước phát triển nông
nghiệp .
Để bảo vệ sản xuất, trên lưu vực sông Mã đã xây dựng được khoảng hơn
500km đê sông, đê biển, hình thành một mạng lưới khép kín. Các cửa lấy
nước và nhận nước trên các triền sông đều có cống khống chế. Hệ thống cống
dưới đê khá ổn định về kết cấu để chống lũ, các cánh cống đều kín nước. Tuy
nhiên mặt cắt các đê còn chưa đủ theo tiêu chuẩn thiết kế, chưa đủ cơ đê và
các cống dưới đê đều ngắn hơn mặt cắt đê. Các tuyến đê Sông Mã, sông Chu
và các sông nhánh đều phần lớn nằm sát với khu dân cư nên khả năng tôn
cao và mở rộng mặt cắt đê vẫn có thể thực hiện được nhưng khó khăn.
3.2.Thách thức
a.Là con sông Quốc tế nhưng trên lưu vực sông Mã hiện chưa có cơ chế nào bảo
đảm chia sẻ nguồn nước giữa Lào và Việt Nam.
b.Thiên tai xẩy ra nặng nề trên lưu vực:
-Bão, lũ lụt ngày càng gia tăng ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt của
nhân dân và sự phát triển kinh tế xã hội của lưu vực. Những hậu quả để lại
như môi trường bị phá hủy, bệnh tật phát sinh, đồng ruộng bị bồi lập,.. Điển
hình như lũ lịch sử năm 1962 xảy ra trên sông Chu, mực nước tại Xuân Khánh
đạt 13,84m tương đương với tần suất 2,5%; Lũ năm 1980 là lũ lớn trên sông
Mã mực nước tại Giàng đạt 7,51m;.. làm vỡ đê gây thiệt hại lớn về người và
của cho nhân dân tỉnh Thanh Hoá. Theo thống kê thiệt hại trong vùng trong
những năm 1998 -2007 số người chết do bão lũ là 39 người, tổng thiệt hại
tài sản khoảng 3.550.000 triệu đồng
-Hạn hán những năm gần đây diễn ra rất khó dự báo và khốc liệt hơn làm
cho cạn kiệt các hồ chứa nhỏ, suy giảm mạnh mực nước trên các triền sông là
nguyên nhân chính mặn xâm nhập sâu và ảnh hưởng mạnh đến khả năng lấy
nước của các công trình. Năm 2010 là năm hạn nặng xảy ra trên diện rộng
đối với vùng Bắc Trung Bộ, theo thống kê chưa đầy đủ, đối với tỉnh Thanh
13
Hoá diện tích hạn vụ Đông Xuân là 30.080ha, các triền sông mực nước xuống
rất thấp, trên sông Mã mực nước thấp dưới mức lịch sử tại Trạm bơm Kiểu là
2,9m, lưu lượng trên sông Mã chỉ đạt 70% lưu lượng kiệt trung bình nhiều
năm , gây nên tình trạng mặn xâm nhập sâu trên các lưu vực sông, không lấy
được nước vào trong đồng.
Tình hình xâm nhập mặn trên các lưu vực sông
-Điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng ảnh hưởng tới lưu vực.
d.Thiếu nước trong màu khô diễn ra phổ biến với quy mô và mức độ ngày
càng tăng: Các số liệu thống kê và các kết quả tính toán gần đây cho thấy với
tiềm năng tài nguyên nước và kết cấu hạ tầng như hiện nay thì nhiều lưu vực
sông trong đó có cả lưu vực sông Mã nhu cầu nước đã và đang vượt quá khả
năng nguồn nước trong những tháng màu khô.vấn đề thiếu nước trong mùa
khô sẽ ngày càng trầm trọng hơn khi nhu cầu tăng lê cùng với sự gia tăng
dân số và phát triển kinh tế-xã hội
e. Kết cấu hạ tầng khai thác, sử dụng nước xuống cấp và tình trạng sử dụng
nước lãng phí, thiếu hiệu quả chưa được cải thiện
f.Tình trang suy thoái, cạn kiệt nguồn nước dưới đất đã xảy ra ở một số nơi
mà việc ngăn chặn chưa kịp thời, chưa có hiệu quả
h. Gia tăng dân số với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao dẫn đến nhau cầu khai
thác sử dụng nước tăng cả về mặt số lượng và chất lượng trong khi nguồn
nước là hữu hạn, khả năng phát triển tài nguyên nước còn hạn chế, các yếu tố
không bền vững về tài nguyên nước không những không suy giảm mà còn gia
tăng. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình của lưu vực chiếm tới 53,8%, xếp thứ nhất
trong tổng số 16 lưu vực sôngvà cao gấp gần 3 lần so với tỷ lệ nghèo trung
bình của toàn quốc. Trong lưu vực, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất thuộc tỉnh Nghệ
An 83,41% (tỷ lệ nghèo của huyện Quế Phong), 40.8%, thứ ba là Thanh Hoá :
35,65%.
i.Nguồn nước đang có dấu hiệu bị suy thoái ô nhiễm. Nước mặt lưu vực sông
Mã có dấu hiệu bị ô nhiễm nhẹ bởi các chất hữu cơ tại một số đoạn chảy qua
khu dân cư, khu công nghiệp.
IV. Giải pháp đề xuất nhằm sử dụng và phát triển bền vững tài nguyên
nước
Quản lý lưu vực nhằm thực hiện các mục tiêu dài hạn:
•
Để tăng khả năng thấm của nước mưa
14
•
Để tăng khả năng giữ nước
•
Để ngăn chặn xói mòn đất
Các biện pháp chi tiết là:
•
Các biện pháp thực vật (các biện pháp nông học)
•
Trồng xen canh
•
Trồng cỏ
•
Canh tác đất cỏ
•
Đất gỗ
•
Biện pháp kỹ thuật (thực hành kết cấu)
•
Xây dựng đê bao quanh
•
Xây dựng bờ mương, xói
•
Ruộng bậc thang
•
Xây dựng bờ kè bằng đất
•
Xây dựng các đập kiểm tra
•
Xây dựng ao chứa nước.
•
Xây dựng các công trình nắn dòng
•
Máng kiểm soát
•
Đập đá
•
Hình thành các thảm cỏ và thảm thực vật bền vững
•
Tạo dung các vành đai đá và thực vật
Xây dựng các bể lắng phù sa.
Quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý lưu vực sông là hướng đi phù
hợp với xu thế chung của thế giới hiện nay, bao gồm 3 nội dung chính là phát
triển (quy hoạch và xây dựng công trình), quản lý (phân bổ, giải quyết tranh
•
15
chấp, quản lý ô nhiễm...) và bảo vệ (bảo vệ rừng, quản lý phân bón, thuốc trừ
sâu, cơ cấu mùa vụ... trong sản xuất nông nghiệp, bảo vệ dải ven bờ...).
Các nước phát triển, quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý tổng hợp
lưu vực sông chủ yếu thực hiện nội dung “quản lý” hơn là “phát triển”, bởi hầu
như công trình khai thác và sử dụng nước theo quy hoạch đã được xây dựng,
kiểm soát 80-100% nguồn nước trên từng lưu vực sông, trong khi ở nước ta
hiện có chỉ mới kiểm soát khoảng 50% dòng chảy trên các dòng sông. Vì thế,
để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nội dung “phát triển” xem chừng quan
trọng hơn nội dung “quản lý”. Vì thế, học tập những cái hay, cái mới ở các
nước phát triển nhưng chúng ta cũng cần có những bước đi phù hợp với thực
tế của nền kinh tế và dân trí. Trong khi chuẩn bị cho những sự phân định rạch
ròi khi chạm đến ranh giới “phát triển trong bảo vệ”, cần tỉnh táo hơn trong
sự cộng tác để thực thi quan điểm “bảo vệ trong phát triển “. Sự phối hợp chặt
chẽ, có trách nhiệm giữa các bộ/ngành sử dụng nước sẽ là cách thức hợp lý
nhất cho chức năng “quản lý” trong điều kiện hiện nay.
Kinh nghiệm của các nước, công cụ chủ yếu để quản lý tốt lưu vực sông là
thực hiện quy hoạch lưu vực sông đáp ứng được mục tiêu phát triển của các
ngành. Thực tế ngày càng chứng minh vai trò quan trọng của ngành thuỷ lợi
đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Xét về bản chất vật lý và quá trình vận động của nguồn nước, nước sẽ không
trở thành tài nguyên nếu không có những tác động của con người hay nói
một cách cụ thể hơn là các công trình để tận dụng những điểm lợi của nguồn
nước và hạn chế những mặt hại của nó, như khi mưa nhiều thì sinh lũ, không
mưa thì gây hạn hán. Nhu cầu sử dụng nước ở mỗi vùng cũng khác nhau. Ví
dụ vùng miền núi với dân cư thưa thớt, các hoạt động phát triển kinh tế - xã
hội chưa nhiều thì nhu cầu sử dụng nguồn nước còn thấp, ngược lại, vùng
đồng bằng và đô thị với dân cư đông đúc, các hoạt động phát triển kinh tế xã hội cao thì nhu cầu nước lại ngày càng nhiều hơn, sức ép lên nguồn cấp
nước cũng vì thế gia tăng. Các công trình thuỷ lợi là những biện pháp hữu
hiệu giúp ta kiểm soát được sự phân bổ không hợp lý một cách tự nhiên của
nguồn nước, cả theo thời gian và không gian. (Ở đây, cần hiểu đúng công
trình thủy lợi là công trình bao gồm cả phục vụ tưới, tiêu, phát điện, cấp nước
sinh họat, công nghiệp, phòng lũ, bảo vệ môi trường..., chứ không phải công
trình thủy nông). Do vậy, để phân bổ, điều hoà nguồn nước giữa các mùa, các
vùng miền nhằm đáp ứng được các nhu cầu cần thiết, cũng như các mục tiêu
sử dụng khác thì không còn giải pháp nào khác là phải xây dựng và phát
triển các công trình kiểm soát dòng chảy trên từng lưu vực sông, cho nên khi
nói đến khai thác tài nguyên nước là cần phải nói đến các công trình thuỷ lợi.
16
Công trình thủy lợi chính là cầu nối quan trọng nhất, là bản chất thực nhất,
của quản lý tài nguyên nước.
Mặt khác, cũng cần phải hiểu rằng tài nguyên nước chỉ là một mảng của lưu
vực sông, và như vậy, quản lý tài nguyên nước cũng chỉ là một trong những
hoạt động của quản lý lưu vực sông. Tài nguyên nước gắn liền với lưu vực
sông, nhưng tài nguyên nước sẽ không thể nào quản lý được nếu không gắn
liền với các họat động phát triển trên bề mặt lưu vực.
CỤ THỂ ĐỐI VỚI LƯU VỰC SÔNG MÃ
-Nâng cao các công trình hiện có, các công trình tưới tiêu, phòng chống lũ
-Bổ sung lượng nước thiếu và tăng cường các biện pháp phòng chống thiên
tai bằng các biện pháp tiết kiệm nước như là tưới phun, tưới ẩm; nâng cấp
các công trình hiện có như là bê tông hóa kênh mương
-Các giải pháp quản lí tổng hợp TNN trên lưu vực sông Mã
+Quản lí hệ thống khai thác, sử dụng
Ví dụ như sự tham gia của cộng đồng vào hệ thống quản lí
+ Các biện pháp quản lí vào bảo vệ môi trường: các biện pháp bao gồm: Kiểm
soát, ngăn chặn mức độ ô nhiễm nước- Các biện pháp quản lí bảo vệ môi
trường nước- Tổ chức và thực hiện
+Đào tạo cán bộ
+Giải quyết tranh chấp và hợp tác quốc tế
-Đề xuất định hướng giải pháp chỉnh trị
Các phân tích diễn biến về lòng dẫn, thủy động lực ở mục trên cho thấy sự tha
y đổi dòng chảy là một trong những nguyên chính gây ra diễn biến chính thái
khu vực hợp lưu.Khu vực có nguy cơ xoi mòn ,sạt lở cao,đươc thể hiện rất rõ
các phân tích và diền biến hình thái là:Bờ tả sông Mã phía thượng lưu Giàng
đoạn qua khu vực kè Hợp Đồng,bờ hữu sông Mã khư vực hợp lưu đoạn qua
Thanh Dương cã Thiệu Khánh,khu vực bãi giữa Hoằng Hợp-Thiệu Dương.Do
vậy cần có những giải pháp thay đổi về dòng chảy do điều tiết về phía thượng
nguồn nhằm điều chỉnh và đảm bảo dòng chảy xuôi thuận lợi hơn hạn chế
những tác động bất lợi đến lòng dẫn.
**Nghiên cứu đã đề xuất định hướng giải pháp công trình cho khu vực hợp
lưu Giàng gồm 3 cụm công trình như sau:
+Cụm công trình khu vực phía thượng lưu Giàng: bố trí hệ thống mỏ hàn
nhằm đẩy dòng chủ lưu chảy ép sát bờ tả trước ngã ba sông Mã, chống sạt lở
17
bảo vệ bờ và đê tả sông Mã, điều chỉnh dòng chảy thuận hơn ở khu vực ngã
ba.
+ Cụm công trình khu vực hợp lưu Giàng: bố trí hệ thống kè bảo vệ bờ hữu
sông Mã đoạn hợp lưu, nhằm hạn chế tác động dòng chảy sông Mã thúc
thẳng vào bờ và hợp lực của dòng chảy sông Mã, sông Chu gây sạt lở bờ, bãi
sông
+Cụm công trình khu vực bãi giữa hạ lưu Giàng: với hiện trạng lòng dẫn đoạn
này không gây cản trở thoát lũ nhưng do đoạn này đang có xu thế bị bồi 2
lạch bên như vậy sẽ gây khó khăn cho giao thông thủy và lấy nước, do đó bố
trí công trình kè mõm cá và tái tạo bãi giữa nhằm phân dòng chảy sang hai
lạch, duy trì sự thông thuận của 2 lạch trong mùa kiệt, tạo độ sâu cho giao
thông thủy và lấy nước.
Kết luận
Quản lí khai thác sử dụng và bảo vệ TN-MT nước là một yêu cầu không thể
thiếu được nhằm phát triển bền vững tài nguyên nước. Đó cũng là một xu thế
tất yếu mà thế giới đang hướng tới
Trên lưu vực sông MÃ, TNN đang được khai thác sử dụng với tốc độ ngày
càng nhanh nhưng chưa được quản lí một cách chặt chẽ, môi trường nước
đang có nguy cơ bị ô nhiễm nhưng chưa được bảo vệ. Do vậy các nội dung
của quản lí, khai thác sử dụng và bảo vệ TN-MT nước cần được tiến hành
sớm.
Trong các nội dung của quản lí, khai thác , sử dụng và bảo vệ TN-MT nước
trên lưu vực cần tiến hành song song việc quản lí tổng hợp tài nguyên nước
lưu vực với việc tiến hành bảo vệ môi trường.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Hữu Khải, Nguyễn Văn Tuần. Địa lý thuỷ văn. NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2001
Nguyễn Thanh Sơn, Đánh giá tài nguyên nước Việt Nam, NXB Giáo dục, 2005
Website: (Sở tài nguyên và môi trường tỉnh
Thanh Hóa )
Nghiên cứu về “ Quản lí lưu vực sông thách thức và giải pháp” của TS Tô Văn
Trường
Đánh giá của Chi cục Phòng chống lụt bão và quản lý đê điều Thanh Hoá,
2010
19
20