BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------
HOÀNG THỊ HƯƠNG
NHU CẦU VỀ VIỆC LÀM
CỦA NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN MA TÚY
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60.31.04.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TSKH. NGUYỄN KẾ HÀO
HÀ NỘI - 2013
Lời cảm ơn!
====88====
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả gửi lời cảm ơn đến
TS.KH Nguyễn Kế Hào - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tác
giả trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong khoa tâm lý giáo dục, cùng với các thầy cô giáo trường Đại học sư phạm Hà Nội đã quan
tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn về sự giúp đỡ của cán bộ, học
viên Trung tâm Giáo dục Lao động Hướng nghiệp Thanh niên
Hà Nội (xã Xuân Nộn- Đông Anh- Hà Nội), các anh, chị là người
sau cai nghiện ma túy thành phố Hà Nội.
Luận văn không tránh khỏi những sai sót, vì vậy tác giả
rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn
để luận văn được hoàn thiên hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, tháng 09 năm 2013
Tác giả
Hoàng Thị Hương
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
NSCNMT:
Người sau cai nghiện ma túy
NXB:
Nhà xuất bản
SL:
Số lượng
THCS:
Trung học cơ sở
THPT:
Trung học phổ thông
TL:
Tỉ lệ
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tại diễn đàn Liên Hợp quốc, ngài Boutros Gali - nguyên Tổng thư ký
Liên Hợp Quốc đã đánh giá: “Trong những năm gần đây, tình trạng nghiện
hút ma túy đang trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Không một quốc
gia, dân tộc nào thoát ra khỏi vòng xoáy khủng khiếp của nó để tránh khỏi
những hậu quả do nghiện hút và buôn lậu ma túy gây ra. Ma túy đang làm
gia tăng tội phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt kiệt nhân lực, tài chính, hủy diệt
những tiềm năng quý báu khác mà lẽ ra phải được huy động cho việc phát
triển kinh tế - xã hội, đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Ma túy đang
làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui gia đình, gây
xói mòn đạo lý, kinh tế, xã hội... Nghiêm trọng hơn ma túy còn là tác nhân
chủ yếu thúc đẩy căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS phát triển...” (16). Như vậy,
việc buôn bán, sử dụng và lạm dụng ma túy đang gây ra những hậu quả
nghiêm trọng không chỉ đối với sức khỏe người sử dụng mà còn với gia đình
và xã hội, đặc biệt khi nhu cầu dùng chất ma túy ngày càng tăng có thể liên
quan đến các hành vi bạo lực như trộm cắp, giết người để đáp ứng nhu cầu
dùng chất ma túy.
NSCNMT trên con đường phục thiện vẫn mang trong mình những mặc
cảm tội lỗi và không tránh khỏi sự cám dỗ của ma túy. Đặc biệt, người sử
dụng ma túy bị phụ thuộc, trói buộc bởi tình trạng tâm lý, khát khao, thèm
muốn, đam mê sử dụng ma túy, mắc phải nhiều thứ bệnh. Những người này
hay mặc cảm, tự ti, dễ bị tổn thương, thiếu bản lĩnh, suy nghĩ lưng chừng,
nhanh chán nản, dễ từ bỏ khi gặp khó khăn, kỷ luật lao động chưa cao, nhiều
người chưa có thói quen lao động và yêu thích lao động. Việc dạy nghề, tổ
chức lao động sản xuất, tạo việc làm có thu nhập ổn định cho người nghiện
1
ma túy sau cai là một trong các nội dung quan trọng của quy trình cai nghiện,
là yêu cầu thiết yếu, tạo điều kiện cho đối tượng phục hồi tái hòa nhập cộng
đồng, phòng chống tái nghiện. Qua khảo sát, đánh giá về “Các giải pháp tạo
việc làm tái cộng đồng cho người nghiện ma túy, người mại dâm sau khi được
chữa trị phục hồi” của Cục Phòng chống tệ nạn xã hội - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy những đối tượng có việc làm ổn định thì tỷ lệ
tái nghiện là 25%, đối tượng có việc làm không ổn định tỷ lệ tái nghiện là
28,5% và không có việc làm là 38,9%.
Vấn đề việc làm cho NSCNMT là mối quan tâm của xã hội, ngoài ý
nghĩa về mặt kinh tế còn góp phần đảm bảo an sinh xã hội, giữ gìn an ninh
trật tự đất nước. Thực tế, NSCNMT có nhận sự giúp đỡ, hỗ trợ của nhà nước,
một vài tổ chức phi chính phủ về việc làm, tuy nhiên số người này chưa nhiều
và điều quan trọng hơn là chất lượng việc làm chưa cao dẫn đến tình trạng đối
tượng nhanh chán, bỏ việc và hậu quả là dễ tái nghiện. Việc học nghề, tìm
kiếm việc làm chưa thực sự đáp ứng, phù hợp với nguyện vọng, sở thích và
ưu điểm của người được học nghề, tìm việc làm. Xuất phát từ những lí do trên
chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Nhu cầu về việc làm của người sau
cai nghiện ma túy”.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát nhu cầu về việc làm của NSCNMT để tìm hiểu thực trạng và
những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của đối tượng này. Từ đó đề
xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc hỗ trợ, giúp đỡ về
việc làm đối với NSCNMT.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nhu cầu về việc làm của NSCNMT.
- Khách thể nghiên cứu: Chọn ngẫu nhiên 115 NSCNMT trong độ
tuổi lao động (nam: từ 15 tuổi – 60 tuổi, nữ: từ 15 tuổi – 55 tuổi) trên địa bàn
Hà Nội. Thân nhân NSCNMT (60 người).
2
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng việc làm của NSCNMT chưa tốt là do chưa thực sự đáp
ứng, phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng cũng như ưu điểm của đối tượng này,
nếu được giúp đỡ, hỗ trợ về việc làm hướng vào nhu cầu về việc làm của
NSCNMT thì công việc của họ sẽ thuận lợi hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng nhu cầu về việc làm của NSCNMT. Các
yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu việc làm của đối tượng ở địa bàn được khảo sát.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm hỗ trợ, giúp đỡ về việc làm đối với NSCNMT.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
6.1. Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu trên
địa bàn Hà Nội.
6.2. Giới hạn khách thể nghiên cứu
115 NSCNMT trong độ tuổi lao động (nam: từ 15 tuổi – 60 tuổi, nữ: từ
15 tuổi – 55 tuổi).
6.3. Giới hạn thời gian nghiên cứu
Từ tháng 11/2012 đến tháng 9/2013.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Thu thập tài liệu có liên quan tới đề tài để xây dựng cơ sở lý luận cho
nghiên cứu và xây dựng khái niệm công cụ.
7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Phương pháp chủ yếu để thực hiện nghiên cứu đề tài
Phương pháp này nhằm mục đích khảo sát nhu cầu về việc làm của
NSCNMT, thu thập ý kiến của các khách thể nghiên cứu về những vấn đề liên
quan đến đề tài.
3
7.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Thông qua phỏng vấn trực tiếp với khách thể nghiên cứu để thu thập
thông tin, bổ sung và chính xác các kết quả điều tra thực trạng.
7.4. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
Nghiên cứu một vài khách thể nhằm chỉ ra tính chất, biểu hiện nhu cầu
về việc làm của NSCNMT.
7.5. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp nhằm thống kế và xử lý các số liệu thực đã thu thập
được trong quá trình nghiên cứu đưa ra những kết quả cụ thể và chi tiết liên
quan tới đề tài.
8. Cấu trúc đề tài
MỞ ĐẦU
Chương 1. Một số vấn đề lí luận về nhu cầu của NSCNMT
Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu thực trạng nhu cầu về việc làm của NSCNMT
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU CỦA NGƯỜI
SAU CAI NGHIỆN MA TÚY
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu về nhu cầu
1.1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa hành vi
J. Watson (1878 - 1958), người khởi xướng ra tâm lý học hành vi ở Mỹ
(1913), cho rằng:” khi có một kích thích nào đó tác động vào cơ thể sẽ tạo ra
phản ứng tương ứng đáp lại theo công thức: S - > R (kích thích - > phản ứng).
Tuy nhiên, tâm lý học hành vi đã không xét đến yếu tố tâm lý ẩn đằng
sau mỗi hoạt động, thúc đẩy hoạt động xảy ra. Hơn thế nữa, học thuyết này
còn không đề cập, chú ý đến tính tích cực, tính chủ thể trong đời sống của
mỗi người. Cùng một kích thích nhưng tác động vào mỗi người khác nhau là
khác nhau. Như thế, chủ nghĩa hành vi đã bỏ qua yếu tố nhu cầu của mỗi
người cụ thể, đánh đồng cơ chế hoạt động của con người với cơ chế hoạt
động của một cái máy. Coi con người là một cái máy tạo ra các phản ứng khi
có kích thích tới mình. Chính vì vậy họ đã không giải thích được nhiều hiện
tượng xảy ra trong thực tế.
Khắc phục sai lầm của J. Watson, E. Tolman người khởi xướng ra chủ
nghĩa hành vi mới đã đề cập đến vấn đề mà chủ nghĩa hành vi cổ điển bỏ qua,
đó là cái trung gian giữa S và R. Các yếu tố trung gian này can thiệp vào quá
trình tạo ra phản ứng. Bởi vì các quy định phản ứng không chỉ có kích thích
vật lý nên ngoài mà có cả những yếu tố tâm lý bên trong - đó là nhu cầu của
cơ thể tiếp nhận kích thích đó. Năm 1932, Tolman đã đưa ra khái niệm:
những loại ham muốn thứ nhất thúc đẩy những hành động nhằm thỏa mãn
những nhu cầu bản năng sinh vật để tồn tại của con người như: thức ăn, quần
5
áo, nhà cửa… còn những ham thích thứ hai là những kích thích sinh ra từ
hoàn cảnh xã hội bên ngoài như: tính tò mò, tính bắt chước, lòng tự trọng,
liêm sỉ, tính sáng tạo…
Năm 1951 ông đưa ra hệ thống mới của nhu cầu gồm 3 loại:
- Loại 1: Nhu cầu thỏa mãn sự đói khát, tình dục, tránh đau đớn, chết
- Loại 2: Nhu cầu có quan hệ với xã hội bao gồm: tính bầy đàn (ở loài
người là tính cộng đồng), sự thống trị, sự phụ thuộc, tính phục tùng…
- Loại 3: Nhu cầu riêng mang tính cá thể như những mong muốn, mục
đích, tính thẩm mỹ, tính sáng tạo…
E. Tolman cũng chú ý phân tích nhu cầu và đưa ra được một hệ thống
rất nhiều nhu cầu ở con người song ông vẫn nghiêng về những nhu cầu mang
tính bản năng sinh vật và chưa thấy hết được tính xã hội của nhu cầu.
1.1.1.2. Quan niệm của Tâm lý học Gestal
K. Lewin đã chú ý đến khái niệm nhu cầu. Ông đã đưa vào khái niệm
một số điểm mới mẻ so với cách giải thích sinh vật hóa. K. Lewin nhấn mạnh
rằng: từ hoạt động tâm lý thực tế không nên chỉ nói về các nhu cầu cơ thể mà
còn phải nói đến nhu cầu xã hội nữa. Vả lại, bất kỳ ý đồ nào cũng là một dạng
nhu cầu nào đó nó gây ra một trạng thái căng thẳng thúc đẩy hoạt động nhằm
thực hiện ý đồ ấy giải quyết sự căng thẳng. Ông cho rằng trạng thái căng thẳng
có ý nghĩa lớn trong hoạt động tâm lý và nó dẫn đến sự thay đổi hoạt động.
1.1.1.3. Quan niệm của Phân tâm học
Đại diện tiêu biểu là S.Freud (1856 - 1939), ông cho rằng, đời sống tâm
lý của con người bao gồm 3 yếu tố (cái ấy, cái tôi, cái siêu tôi). Trong đó nhu
cầu tự nhiên là bản năng tình dục (cái ấy) khi không được thỏa mãn bị dồn
nén sẽ thăng hoa thành động lực chủ đạo thúc đẩy con người hành động trong
nhiều lĩnh vực: lao động, học tập, khoa học, nghệ thuật, kinh tế….Theo ông,
mọi nhu cầu xã hội khác chỉ là biến thể của nhu cầu tự nhiên, chúng vẫn có
6
cái gốc là nhu cầu tự nhiên, là bản năng tình dục. Cũng theo ông, mọi nhu cầu
của con người đều cần được thỏa mãn trong đời sống hiện thực hoặc là trong
giấc mơ. Chỉ có sự thỏa mãn nhu cầu bằng các hình thức khác nhau thì con
người mới lấy lại được nhu cầu cho bản thân và cho sự tồn tại. Đặc biệt, nếu
sử dụng năng lượng tình dục (libido) thì nó sẽ thăng hoa giúp con người trở
thành thiên tài tạo nên những tác phẩm bất hủ, những công trình nghiên cứu
khoa học vĩ đại… Vì vậy học thuyết của S. Freud chủ trương giải phóng “cái
ấy” khỏi sự chèn ép của “cái siêu tôi”.
Nhưng với A. Adler, bản năng tình dục không được xem là động lực
chính thúc đẩy mọi hoạt động của con người. Ông cho rằng động lực cơ bản
của hành vi con người quyết định mục đích cũng như con đường của hoạt
động là ý chí, quyền lực, ý chí hung mạnh. A.Adler đã thay đổi nhu cầu tình
dục trong quan niệm của Freud bằng ý muốn quyền lực. Theo ông, đối lập với
hùng mạnh là tình trạng kém giá trị. Mối tương quan giữa sự khao khát hùng
mạnh và cảm giác kém giá trị quy định những tính chất động cơ nảy sinh khi
con người hành động. Trong quan niệm của A. Adler về thực chất phạm trù
cơ bản để cắt nghĩa hành vi của con người và động cơ của nó cũng vẫn là một
lực lượng bản năng như Freud chỉ có điều nó mang một nét khác.
K. Horney cho rằng trong con người có những sức mạnh bẩm sinh, cơ
sở của chúng là nằm trong sự cô đơn từ thời thơ ấu. Các sức mạnh này được
thể hiện trong trạng thái tình cảm như: tâm trạng bồn chồn, lo lắng và nỗi
khiếp sợ bẩm sinh. Các lực lượng này có ảnh hưởng rất lớn tới động cơ hành
vi của con người. K.Horney đã nói nhiều tới ảnh hưởng của văn hóa đối với
sự phát triển của con người nhưng luận điểm chủ yếu của bà vẫn coi lực
lượng vô thức là động lực hành vi của con người, quy định những động cơ cụ
thể trong đời sống hiện thực của con người.
E. Fromm, thuộc trường phái tâm lý học nhân văn, không dành cho
7
các bản năng tình dục một sự chú ý đặc biệt. Điều làm ông quan tâm là mối
quan hệ qua lại giữa các yếu tố tâm lý và xã hội. Ông đưa ra khái niệm “sự
chạy trốn tự do”. Nó được gây nên bởi cảm giác cô đơn là kết quả của cuộc
sống bấp bênh trong xã hội đầy biến động, là hoạt động vô thức mang tính
chất tự động hóa. Nếu theo Freud, hoạt động vô thức bẩm sinh được xác
định bởi các nhu cầu sinh vật thì Fromm cho rằng nó được xác định bởi các
nguyên nhân kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, các tác phẩm của trường phái phân tâm học mới đã chú ý
nhiều đến các yếu tố xã hội, những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi nhưng nếu
xem xét cơ bản nó vẫn là những yêu cầu bẩm sinh có tính tất yếu mà ta không
ý thức được. như vậy, các tác phẩm của trường phái phân tâm học cũ và mới
chỉ khác nhau về hình thức biểu hiện còn xét về bản chất thì không đổi.
1.1.1.4. Quan điểm của tâm lý học Macxit
Tâm lý học macxit khẳng định rằng về bản chất, con người là một
thức thể xã hội, nghĩa là thông qua hoạt động và giao tiếp thì nhân cách của
con người mới được hình thành và phát triển. Sự hình thành các nhu cầu
thúc đẩy hành vi có liên quan đến bản chất xã hội của tâm lý người. Kể cả
nhu cầu sinh vật của con người cũng được xã hội hóa theo mức độ phát
triển của xã hội loài người.
D.N.Unadze - người sáng lập ra lý thuyết “tâm thế” đã đề cập đến khái
niệm nhu cầu và ý nghĩa của nó đối với hoạt động sống của sinh vật. Theo
ông, nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực. Với ý nghĩa này thì khái niệm
nhu cầu rất rộng, nó đề cập đến tất cả mọi cái mà cơ thể sống cần đến cho sự
tồn tại và phát triển của mình. Ông cho rằng: chủ thể hướng vào môi trường
bên ngoài nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu trước mắt thì một tình trạng nhất
định xuất hiện, gây ra ở chủ thể tâm thế nhất định và thông qua tâm thế này
hướng dẫn toàn bộ hành vi tiếp theo của nó. Đồng thời với những nhu cầu
8
mang tính bản năng sinh vật mà ông gọi là những nhu cầu bậc thấp thì ở con
người còn có những nhu cầu bậc cao đó là nhu cầu trí tuệ, đạo đức và nhu cầu
thẩm mĩ. Vấn đề là ở người này thì một số nhu cầu mang tính ưu thế còn ở
người khác thì nhu cầu khác lại có ý nghĩa quan trọng hơn. Theo ông, sự trội
hơn của nhu cầu cấp thấp hay nhu cầu cấp cao phụ thuộc vào hoàn cảnh sống,
giáo dục và vào ấn tượng của những nghiệm thể mà con người thấy có ý
nghĩa. Ông là người đã khám phá ra quan điểm mới về nhu cầu và sự liên
quan của nó với các dạng khác nhau trong hành vi của con người.
A.N.Leonchiev đã đưa ra khái niệm động cơ và nhu cầu trong cuốn
“Hoạt động - Ý thức - Nhân cách”. Ông viết: “trạng thái có tính chất nhu cầu
của chủ thể chưa hề ghi rõ một cách dứt khoát rằng chính vật thể nào, đối
tượng nào có khả năng thỏa mãn nhu cầu. Trước khi được thỏa mãn nhu cầu
lần đầu tiên thì nhu cầu “chưa được biết đến” đối tượng của nó, đối tượng này
còn cần phải được phát lộ ra. Chỉ nhờ kết quả của sự phát lộ như vậy nhu cầu
mới có được tính vật thể của nó, còn cái vật được nhận biết ra ấy thì có được
chức năng thúc đẩy, chức năng hướng dẫn hoạt động tức là trở thành động
cơ”. Ông còn cho rằng “cái bị biến mất khỏi tâm lý học không phải là các nhu
cầu mà là cái trừu tượng về nhu cầu, những trạng thái nhu cầu “trần trụi” của
chủ thể không chứa đựng đối tượng nào hết”. Ông khẳng định: “nhu cầu luôn
luôn có đối tượng của mình”, từ đó ông đưa ra sơ đồ thể hiện mối quan hệ
giữa nhu cầu và hoạt động.
Nảy sinh
Hoạt động
→
Thúc đẩy
Nhu cầu
→
Hoạt động
Sơ đồ này đáp ứng quan niệm của tâm lý học macxit về nhu cầu. Từ sơ đồ
này ta thấy, chính hoạt động của con người làm nảy sinh các nhu cầu và cũng
từ các nhu cầu này thúc đẩy con người hoạt động để thỏa mãn nó. Chính vì
9
thế, cuộc sống của con người là một chuỗi các hoạt động kế tiếp nhau ngày
càng phát triển để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu về vấn đề việc làm của người sau cai nghiện ma túy
Trong thời gian qua, ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên
quan tới vấn đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài sau:
Đề tài cấp Bộ 2001 “Các giải pháp tạo việc làm cho người nghiện ma túy,
người mại dâm sau khi được chữa trị phục hồi” do Nguyễn Văn Minh (2002)
làm chủ nhiệm. Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm, đời sống người
nghiện ma túy, người bán dâm. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều khả năng
tái nghiện của người nghiện ma túy sau cai là do không có việc làm, mặc dù nghị
lực của đối tượng là yếu tố quyết định, sự quan tâm của gia đình là yếu tố quan
trọng giúp đối tượng từ bỏ tệ nạn xã hội. Do vậy, các đề xuất của tác giả hướng
tới hoàn thiện hệ thống các giải pháp tạo việc làm cho đối tượng nhằm giúp họ
ổn định cuộc sống, giảm tỷ lệ tái phạm, tái nghiện.[17].
Đề tài “Những giải pháp chủ yếu quản lý, dạy nghề cho NSCNMT
trong chương trình ba năm ở các trường, trung tâm tại Thành phố Hồ Chí
Minh” (2004 - 2005) do Viện nghiên cứu xã hội thành phố Hồ Chí Minh (TP
HCM) thực hiện. Đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra những giải pháp thực tiễn để
đáp ứng nhiệm vụ quản lý và dạy nghề cho NSCNMT thuộc Đề án “Tổ chức
quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho NSCNMT” do Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua Nghị quyết 16/2003 - QH11
“Về việc thực hiện thí điểm tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm
cho NSCNMT ở TP HCM và một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”.
Đề tài được thực hiện đã giải quyết được vấn đề giúp những người nghiện sau
kết thúc 2 năm cắt cơn, chữa bệnh, cai nghiện và phục hồi sức khỏe, người cai
nghiện được phân loại chuyển sang giai đoạn “hậu cai” đó là được học văn
hóa, học nghề và từng bước đưa những NSCNMT có đủ điều kiện tối thiểu
10
vào làm việc tại các khu công nghiệp đặc biệt do thành phố xây dựng. Kết quả
nghiên cứu của đề tài đã được triển khai, áp dụng trong thực tiễn, giúp hàng
ngàn người từng bước tái hòa nhập cộng đồng một cách bền vững. Để đạt
được thành công trên, một trong những giải pháp tác giả nêu ra trong quá
trình tái hòa nhập cộng đồng cho NSCNMT là cần phải có sự tham gia quản
lý của công an khu vực, chính quyền xã phường, thị trấn và các đoàn thể, ban
điều hành khu phố. Trong đó, tác giả khẳng định vai trò của gia đình và cộng
đồng không thể thiếu trong quá trình phòng, chống ma túy; phải tạo ra môi
trường sống hòa thuận, đoàn kết, dân chủ, quan tâm tới nhau giữa các thành
viên trong gia đình, cơ quan, xí nghiệp, trường học, khu phố, xóm ấp.[26].
Tác giả Lê Hồng Minh (2010), với đề tài “Tổ chức tư vấn hướng nghiệp
cho thanh niên sau cai nghiện ở thành phố Hồ Chí Minh” đã đề cập khá cụ thể
các loại hình tổ chức, quản lý giáo dục người nghiện ma tuý và sau cai nghiện
trên địa bàn TP HCM; các nội dung, phương pháp để hoàn thiện tổ chức tư vấn
hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện tại cộng đồng. Về thực tiễn, luận
án đã hệ thống hoá được các loại hình tổ chức, quản lý giáo dục người nghiện
ma tuý và sau cai nghiện trên địa bàn TP HCM; đánh giá được thực trạng về
cách tổ chức các hoạt động quản lý giáo dục thanh niên sau cai (TNSCN) ở TP
HCM và chỉ ra những mặt hạn chế để tìm giải pháp khắc phục, hoàn thiện tổ
chức tư vấn hướng nghiệp (TVHN) cho thanh niên sau cai nghiện tại cộng
đồng. Đã đề xuất được cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Văn phòng tư
vấn hướng nghiệp cho TNSCN làm cơ quan đầu mối cho hoạt động TVHN cho
TNSCN ở cộng đồng; đề xuất đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt
động của Đội tình nguyện; xây dựng nội dung chương trình giáo dục chuyển
biến nhận thức và hành vi TNSCN ở cộng đồng.[16].
Đề tài “Tâm lý học giáo dục nhân cách người cai nghiện ma túy từ
thực tế thành phố Hồ Chí Minh” do tác giả Phan Xuân Biên và Hồ Bá Thâm
11
đồng chủ biên, xuất bản năm 2004 là một công trình nghiên cứu công phu của
nhiều tác giả về nguyên nhân, đặc điểm tâm lý, công tác giáo dục nhân cách,
đạo đức xã hội dành cho những người liên quan đến nghiện ma túy. Các tác
giả cho rằng, người nghiện là người rối loạn về tâm lý, không làm chủ được
hành vi của mình, từ không làm chủ được bản thân, họ hành động chủ yếu
theo ham muốn bản năng, dẫn tới lệch chuẩn xã hội, khủng hoảng nhân cách,
tha hóa - rối loạn nhân cách và việc cai nghiện, phục hồi nhân cách, sửa đổi
và phát triển nhân cách người cai nghiện thành công hay không phụ thuộc vào
thái độ, tình thương, trách nhiệm của cộng đồng, gia đình, xã hội và bản thân
người nghiện. Do vậy, công tác điều chỉnh tâm lý, giáo dục, phục hồi nhân
cách cho người cai nghiện và những giải pháp giúp NSCNMT trở về với gia
đình, cộng đồng được thực hiện bằng biện pháp tâm lý.[3].
Tác giả Phan Thị Mai Hương (2005) với nghiên cứu “Thanh niên nghiện
ma túy nhân cách và hoàn cảnh xã hội” là một cách tiếp cận mới về thanh niên
nghiện ma tuý - từ góc độ của tâm lý học. Tác giả đã phân tích, hệ thống hoá
những lý luận về đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh xã hội và sự ảnh hưởng của
chúng trong việc nghiên cứu hành vi của người nghiện ma tuý, cũng như quan
điểm về việc giải quyết chúng trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra một số
đặc điểm nhân cách và hoàn cảnh xã hội nổi trội của thanh niên nghiện ma tuý,
mối quan hệ giữa các đặc điểm với hành vi nghiện. Trong đó, vai trò gia đình
được tác giả tìm hiểu ở khía cạnh môi trường gia đình gắn với vị thế kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến đặc điểm nhân cách và mức độ nghiện của thanh niên
nghiện ma túy, cách quản lý của cha mẹ với con. Trên cơ sở đó, việc ngăn ngừa
hành vi nghiện ma tuý và việc cai nghiện ma tuý ở thanh niên cần phải kết hợp
giữa tri thức và biện pháp của tâm lý học. Kết quả nghiên cứu đã định hướng
về hướng giáo dục và ứng xử thích hợp với người nghiện ma tuý cũng như góp
phần ngăn ngừa việc lạm dụng ma tuý ở thanh thiếu niên.[10].
12
Nhóm tác giả Nguyễn Thanh Hiệp và cộng sự với đề tài “Khảo sát các
yếu tố ảnh hưởng dẫn đến nghiện ma túy lần đầu ở NSCNMT (tại Trung tâm
giáo dục dạy nghề và giải quyết việc làm Bình Đức và Đức Hạnh)” đã phân
tích đặc điểm, hoàn cảnh xã hội của người nghiện ma tuý lần đầu. Theo kết
quả nghiên cứu, các yếu tố ảnh hưởng đến lý do nghiện ma túy lần đầu bao
gồm có yếu tố bản thân, gia đình và bạn bè. Trong đó, tác động của bạn bè có
ảnh hưởng quan trọng đến hành vi sử dụng ma túy của người nghiện. Nếu có
thêm các yếu tố nguy cơ về gia đình và bản thân, người nghiện càng dễ dàng
chịu sự tác động của bạn bè hơn và thúc đẩy họ sử dụng ma túy sớm hơn.[9].
Như vậy, người nghiện ma túy là một nhóm xã hội đặc thù, họ không
chỉ yếu về mặt thể chất mà cả về tinh thần. Có thể thấy rằng, các tài liệu mới
chỉ đề cập rất ít tới vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho NSCNMT.
Việc tìm hiểu nhu cầu việc làm của NSCNMT một cách có hệ thống từ cơ sở
lý luận đến thực tiễn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ,
logic và mang tính khoa học. Nghiên cứu "Nhu cầu về việc làm của NSCNMT
" hy vọng sẽ là sự đóng góp nhỏ của tác giả vào nỗ lực phòng chống tệ nạn
ma túy chung của toàn xã hội.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Nhu cầu
Giống như các thực thể sống khác, con người cũng cần có những điều
kiện và phương tiện nhất định để tồn tại và phát triển. “Con người phải có sự
giao tiếp với thế giới bên ngoài, phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu của con
người: thức ăn, cá thể khác giới, sách báo, giải trí, tranh luận, hoạt động, vật
dụng tiêu thụ và lao động” [1, tr.297]. Nhu cầu chính là sự cần thiết, là động
lực để cuộc sống con người phát triển. Đó chính là sự đòi hỏi của cá nhân về
một cái gì đó ở ngoài nó; cái đó có thể là một sự vật, một hiện tượng hoặc
những người khác.
13
Có nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu:
C. Mác cho rằng nhu cầu của con người tùy thuộc vào những yếu tố
khách quan và chủ quan, chịu sự quy định của trình độ sản xuất xã hội. Trình
độ phát triển của nhu cầu gắn liền với trình độ phát triển của phương thức sản
xuất. Khi nhu cầu sống còn của con người được thỏa mãn thì mỗi con người
lại xuất hiện những nhu cầu mới. Việc sinh ra những nhu cầu mới này, theo
C. Mác, đó là sự vận động phát triển của nhu cầu. Trong phép biện chứng tự
nhiên, F. Engels đã khẳng định vai trò quan trọng của nhu cầu trong hoạt
động của con người và xã hội.
Nhu cầu là trạng thái tâm lý làm rung động người ta thấy một sự cần
thiết nhất định nào đó về một điều gì đó. A. G. Côvaliôv đưa ra định nghĩa
nhu cầu với tư cách là nhu cầu của nhóm xã hội: “ Nhu cầu là sự đòi hỏi của
các các nhân và của các nhóm xã hội khác nhau muốn có những điều kiện
nhất định để sống và phát triển. Nhu cầu quy định sự hoạt động xã hội của các
cá nhân, các giai cấp và tập thể” [5, tr.93].
Từ điển Tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê (chủ biên), cho rằng: Nhu cầu là
điều đòi hỏi của đời sống, tự nhiên và xã hội.
Nhu cầu có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau, song ta có thể khái
quát như sau: Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người cần được thỏa mãn
để tồn tại và phát triển, là sự biểu hiện của mối quan hệ qua lại giữa con
người với những điều kiện cụ thể, luôn biến đổi của đời sống.
“Nhu cầu bao giờ cũng là nhu cầu về một cái gì đó. Nhu cầu chỉ có
được chức năng hướng dẫn khi có sự gặp gỡ giữa chủ thể và khách thể” [7, tr.
305]. Chính nhu cầu đã thúc đẩy con người hành động bằng một cách nhất
định và theo một hướng nhất định. Trong cấu trúc nhân cách của con người,
nhu cầu là một trong những yếu tố quan trọng (bên cạnh những yếu tố: hứng
thú, niềm tin, thế giới quan, lý tưởng) tạo nên xu hướng nhân cách của cá
14
nhân. Hay nói một cách khác, xu hướng nhân cách của con người được biểu
hiện ra bên ngoài ở nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, niềm tin, thế giới quan.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lấy nhu cầu là đối tượng nghiên cứu của
mình, vì vậy, các yếu tố khác của xu hướng nhân cách chỉ được xem xét trong
mối quan hệ với nhu cầu của con người.
Khi phân tích nhu cầu với tư cách là một phần trong xu hướng của
nhân cách, các nhà Tâm lý học Liên Xô coi nhu cầu là “tồn tại cái cá thể
của các quan hệ xã hội” [15,tr.493]. Ở đây, nhu cầu nói lên sự gắn bó của
con người với thế giới xung quanh và sự phụ thuộc của nó vào thế giới đó.
Sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong bản thân mỗi cá nhân cụ thể sẽ
có vai trò quyết định tới sự hình thành và sự phát triển nhu cầu của cá nhân
đó trong quá trình hoạt động sống. Và như vậy, nhu cầu cũng đóng một vai
trò quan trọng đối với quá trình hoạt động và quá trình hình thành, hoàn
thiện nhân cách của mỗi con người.
Cuộc sống càng phát triển thì hệ thống các nhu cầu của con người ngày
càng được bổ sung thêm và ngược lại, khi nhu cầu của con người được thỏa
mãn đến mức tối đa thì có thể nói rằng xã hội đó đạt đến trình độ phát triển
cao. Nhu cầu xã hội biến đổi, cải tạo thành nhu cầu của cá nhân mỗi con
người. Mác đã nói: Sự phát triển của xã hội xét đến cùng là sự phát triển các
nhu cầu của con người. Điều đó khẳng định thêm rằng nhu cầu đối với đời
sống con người nói chung và sự phát triển xã hội nói riêng là rất quan trọng.
Các nhân tố quy định sự phát triển của xã hội là những quy luật khách quan,
những nguyên nhân nội tại được phản ánh bởi tính tích cực chủ quan thúc đẩy
con người hoạt động. Chúng xây nên những động lực điều chỉnh hành vi và
hoạt động cho từng cá nhân, từng con người cụ thể.
Khi tìm hiểu về bản chất của nhu cầu con người, các nhà tâm lý học
đều xem xét nó với tư cách là nguồn gốc tính tích cực cá nhân. Quan điểm về
15
nguồn gốc tính tích cực của nhân cách ở con người đã gắn liền với hệ thống
quan điểm của S. Freud - nhà phân tâm học người Áo (1850 - 1939). Ông đã
đưa ra quan điểm cơ bản mà được coi như là hệ phương pháp luận để nghiên
cứu các hiện tượng tâm lý như sau: Mọi hiện tượng tâm lý đều cần có năng
lượng nuôi dưỡng, có nghĩa là yêu thương, ghét sợ, tài năng, ý chí, phải được
nuôi dưỡng bằng vật chất.
S. Freud đã đề cập tới vấn đề nhu cầu trong lí thuyết bản năng của con
người. Theo ông, con người tích cực hoạt động là do có những sức thúc đẩy
bản năng mà con người thừa kế từ các tổ tiên sinh vật của mình, và trong số
đó trước hết là bản năng tính dục và bản năng tự vệ. Đó là động lực mạnh mẽ
nhất thúc đẩy con người hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
như: văn hóa, khoa học, chính trị, nghệ thuật… Tuy nhiên, trong xã hội do có
rất nhiều những quy định, những chuẩn mực, những giới hạn cụ thể nên các
bản năng không thể bộc lộ một cách tự do như trong giới sinh vật, mà chúng
bị kiểm duyệt, bị ức chế và bị dồn nén xuống dưới tầng ý thức. Trong quá
trình con người hoạt động, những bản năng này, từ trong tiềm thức, vẫn tiếp
tục điều khiển hành vi của con người, và chúng sẽ chuyển hóa dưới những
hình thức khác nhau của nền văn hóa loài người và trong những sản phẩm
hoạt động của con người. Như vậy, theo quan điểm của Freud nhu cầu của
con người được coi như một sức mạnh sinh học, sức mạnh tự nhiên, tương tự
với các bản năng sinh vật.
Chủ nghĩa Freud mới ra đời nhấn mạnh sự phụ thuộc của cá nhân vào
hoàn cảnh. Hoàn cảnh định cho cá nhân những phẩm chất quan trọng nhất,
những phẩm chất đó trở thành hình thức của tính tích cực của nhân cách.
Theo các nhà phân tâm mới, nhu cầu của con người được hình thành do sự tác
động của môi trường sống. Chính vì thế, họ không giải thích được những
nguyên nhân xuất phát gây ra hoạt động của con người trước hoàn cảnh đã
16
được sinh ra như thế nào trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa cá
nhân với hoàn cảnh. Họ bế tắc trong việc giải thích các hành vi văn hóa và
văn minh của con người. Đây là điểm hạn chế trong quan điểm của các nhà
phân tâm mới về vấn đề nhu cầu.
A. Maslow (1908 - 1966) - nhà phân tâm học Mỹ cũng cho rằng nhu
cầu là động cơ thúc đẩy hành vi của con người mạnh mẽ nhất. Tính xã hội
nằm trong bản năng của con người; tính người của nhu cầu và xung đột của
con người được hình thành và phát triển trong quá trình phát sinh chủng loại.
Các nhu cầu đều dựa trên cơ sở di truyền nhất định. Chính vì thế, học thuyết
về nhu cầu của Maslow có điểm giống với học thuyết của S. Freud.
Khi khẳng định nguồn gốc của tính tích cực nhân cách ở mỗi cá nhân
chính là nhu cầu, các nhà tâm lý học Mác - xít cho rằng nhu cầu của con
người được “sản xuất” ra trong quá trình hoạt động. Chính vì vậy, tính tích
cực của nhân cách con người được thể hiện trong quá trình tác động qua lại
với thế giới xung quanh. Nhu cầu đã thúc đẩy con người hành động bằng một
cách nhất định và theo hướng nhất định.
Người đầu tiên đề cập một cách sâu sắc tới vấn đề nhu cầu là D. N.
Uznatze, ông cho rằng: “Không có gì có thể đặc trưng cho một cơ thể sống
hơn là sự có mặt ở nó các nhu cầu… Nhu cầu, đó là cội nguồn của tính tích
cực, với ý nghĩa này thì khái niệm nhu cầu rất rộng… Các nhu cầu phát triển
và đều không thể phủ nhận là con người ở giai đoạn phát triển cao nhất có vô
số nhu cầu mới, chúng không những không có ở động vật mà còn không thể
có ở con người trong giai đoạn phát triển sơ khai”.
Theo A. N. Lêonchiev (1903 - 1979), nhu cầu được thể hiện trong hoạt
động với tính chất là sức mạnh nội tại, mặc dù, nếu với tính chất là một cá
nhân, chủ thể sinh ra đã có nhu cầu. Lúc đầu nhu cầu chỉ xuất hiện như một
điều kiện, một tiền đề cho hoạt động. Khi có hoạt động thì lập tức xảy ra sự
17
biến hóa của nhu cầu, không còn là nhu cầu trước nữa. Ông mô tả nguồn gốc
của nhu cầu, cũng như mối quan hệ của nó với hoạt động bằng sơ đồ: Hoạt
động - Nhu cầu - Hoạt động. Sự biến đổi nội dung cụ thể của đối tượng nhu
cầu cũng kéo theo sự biến đổi các phương thức để thỏa mãn các nhu cầu. Do
vậy, nhu cầu cách mạng mang tính xã hội. Xã hội loài người tạo ra cho các
thành viên của mình những nhu cầu ngày càng đổi mới mà các thế hệ trước
chưa có. Chính vì vậy, “Nhu cầu là một trạng thái của con người, biểu hiện sự
phụ thuộc của nhân cách vào hoàn cảnh sống cụ thể, sự phụ thuộc này là
nguồn gốc của tính tích cực của con người” [24, tr.387].
Tính tích cực của nhân cách bộc lộ trong quá trình hoạt động để thỏa
mãn nhu cầu. Cũng chính ở đây thể hiện sự khác nhau giữa các hình thức của
tính tích cực của con người và tính tích cực của hành vi động vật. Con vật có
tính tích cực trong hành vi của nó là nhờ ở tổ chức tự nhiên của nó (cơ cấu
của cơ thể, các giác quan, bản năng) dường như được định trước phạm vi các
sự vật có thể làm đối tượng thỏa mãn các nhu cầu và gây ra sự mong muốn
tích cực của nó để chiếm lĩnh những sự vật ấy. Như vậy, trong nhu cầu của
động vật đã trực tiếp biểu hiện cái sự vật của tự nhiên có tác dụng làm vật
kích thích tính tích cực của nó.
Trái lại, tính tích cực của con người và nguồn gốc của nó lại được hình
thành trong quá trình giáo dục con người, tức trong quá trình tiếp nhận nền
văn hóa nhân loại các sự vật tự nhiên không chỉ đơn giản là những đối tượng
chỉ có ý nghĩa sinh học. Nhờ có khả năng sáng tạo ra công cụ lao động, con
người mới có khả năng biến đổi đối tượng, sự vật này làm cho nó thích hợp
với nhu cầu của bản thân, nhu cầu này là sản phẩm của sự phát triển lịch sử.
Với tư cách là một nhân tố cấu thành nên xu hướng nhân cách của con người,
nhu cầu của con người đòi hỏi phải có một quá trình nắm vững những phương
thức hoạt động được xây dựng trong lịch sử. Vì thế, ở con người, quá trình
18
thỏa mãn nhu cầu của con người là một quá trình tích cực, có mục đích của sự
nắm vững hình thức hoạt động mà xã hội đã đạt tới. Toàn bộ đời sống tinh
thần của cá nhân được hình thành, củng cố, phát triển từ trong quá trình hoạt
động nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần. Cứ mỗi lần được thỏa mãn
bằng những đối tượng và phương thức nào đó thì nhu cầu càng trở nên sâu sắc
hơn và cùng với sự phát triển của đối tượng và phương thức thỏa mãn, nhu
cầu lại càng trở nên phong phú hơn, phức tạp hơn.
Với ý nghĩa trên, nhu cầu là nguồn gốc tính tích cực làm nảy sinh hoạt
động. Nhưng cái tôi thôi thúc hoạt động của con người lại chính là động cơ.
Trong một chừng mực nào đó, động cơ là cái cụ thể hóa của nhu cầu, nói cách
khác động cơ chính là cái cụ thể hóa của nhu cầu; nói cách khác động cơ
chính là tính tích cực của nhân cách con người F. Ăngghen đã viết: “Người ta
có thói quen giải thích các hành động của mình xuất phát từ duy và đáng lẽ ra
phải giải thích chúng từ nhu cầu (dĩ nhiên là những nhu cầu này được phản
ánh trong óc, được ý thức) và bằng cách đó lâu dần đã nảy sinh ra thế giới
quan duy tâm, thế giới quan đã thống trị trí tuệ đặc biệt từ khi thế giới cổ đại
bị diệt vong” [15, tr.493].
Để trở thành một động lực thúc đẩy tính tích cực hoạt động, mỗi nhu
cầu của con người đều phải đi qua óc, được phản ánh vào đầu óc con người,
được con người ý thức. Khi đó, nhu cầu tồn tại ở trạng thái chủ quan, thể hiện
ra là ở thái độ của cá nhân đối với sự vật hiện tượng. Và như vậy, “nhu cầu
của nhân cách được hình thành một cách khách quan” [1, tr.100] nhưng mang
tính chủ quan, riêng có ở từng cá nhân cụ thể, trong những hoàn cảnh cụ thể,
hoặc những môi trường cụ thể. Một số nhà tư tưởng trước Mác cũng thừa
nhận điều này ở mức độ nào đó. Tuy nhiên vai trò của các nhân tố xã hội, như
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tính chất của quan hệ sản xuất, bản
chất của giai cấp cá nhân đều bị họ phủ nhận, tuy rằng đôi khi họ cũng đưa ra
những ước đoán về ý nghĩa quan trọng của chúng.
19
Xét cho đến cùng, nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu của con người là
động lực thúc đẩy hoạt động, điều chỉnh hành vi của từng cá nhân trong xã
hội, trong nhóm xã hội, đồng thời nó xác định hướng suy nghĩ, tình cảm, ý chí
của cá nhân đó trong quá trình sống.
1.2.2. Đặc điểm về nhu cầu
Theo C. Mác, nhu cầu là sản phẩm của lịch sử do nó được trung gian hóa
bởi các mối quan hệ xã hội và luôn được cải tạo theo những hình thức mới: nhu
cầu mới tạo ra một sự phụ thuộc mới. Điều này thể hiện sự phong phú đa dạng,
tính lịch sử, tính giai cấp rõ rệt của nhu cầu. Nhu cầu gắn liền với sự phát triển
của nền sản xuất xã hội và sự phân phối các giá trị vật chất và tinh thần.
Khi nói tới giới hạn của nhu cầu, ta thấy rằng nhu cầu của con người là
vô tận. Trong đó, ở con người luôn xuất hiện nhu cầu, có thể có nhiều nhu cầu
tồn tại song song cùng một lúc. Tuy nhiên, không phải lúc nào người ta cũng
đòi hỏi phải thỏa mãn tất cả các nhu cầu của bản thân mình. Nhu cầu cũng
không bao giờ bị dập tắt, mà chỉ có thể có nhu cầu này nổi trội hơn, mang giá
trị cấp bách hơn nhu cầu kia ở thời điểm này hay thời điểm khác. Đó là một
hệ thống nhất định, được sắp xếp theo trật tự nhất định. Trật tự này luôn luôn
biến đổi theo mối quan hệ của con người với hoàn cảnh. Đồng thời, bản thân
nhu cầu cũng thay đổi theo yêu cầu của hoạt động và của xã hội. Như vậy,
trong nhu cầu ta thấy có sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan.
Những phạm trù nhu cầu và sự cần thiết có mối liên quan trực tiếp với
nhau. Theo C. Mác: “Sự tồn tại của cái mà tôi yêu thật sự, tôi cảm thấy là cần
thiết, tôi cảm thấy nhu cầu về sự tồn tại đó” [1, tr.111]. Nhu cầu, đó là sự cần
thiết song không phải mọi sự cần thiết đều là nhu cầu. Điều này một lần nữa
khẳng định rằng nhu cầu không tách rời khỏi hoạt động, nhờ có hoạt động mà
một sự cần thiết trừu tượng nào đó mới được vật chất hóa, mới trở thành có
máu, có thịt. Nảy sinh trong quá trình hoạt động, nhu cầu đồng thời trở thành
nhân tố kích thích trực tiếp đối với hoạt động.
20