BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------
NGUYỄN THỊ MAI ANH
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thanh Thúy
HÀ NỘI – 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tác giả xin chân thành cảm ơn Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, Phòng Sau đại học, khoa Quản lý giáo dục, các thầy, cô giáo
giảng dạy lớp cao học Quản lý giáo dục K22 đã quan tâm, tạo điều kiện thuận
lợi, tận tình giảng dạy và giúp đỡ tác giả trong thời gian theo học tại trường.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS Hoàng Thanh Thuý,
người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo trường Cao đẳng nghề Thương
mại và Công nghiệp, các phòng, ban chức năng, các đồng CBQL, GV và SV nhà
trường đã cung cấp thông tin, tạo điều kiện giúp đỡ để tác gải hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã nỗ lực, cố gắng khắc phục mọi khó khăn nhưng vì điều kiên
công tác và khả năng có hạn, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong sự chỉ bảo của các thầy, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và những
người quan tâm nghiên cứu khoa học nói chung và lĩnh vực khoa học quản lý
giáo dục nói riêng.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hải Dương, tháng 7 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Mai Anh
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Cụm từ viết tắt
Diễn giải
BGH
: Bam giám hiêu
BPQL
: Biện pháp quản lý
CB
: Cán bộ
CBQL
: Cán bộ quản lý
CĐ
: Cao đẳng
CĐN
: Cao đẳng nghề
CVHT
: Cố vấn học tập
ĐH
: Đại học
ĐVHT
: Đơn vị học trình
GD &ĐT
: Giáo dục và Đào tạo
GV
: Giáo viên
GVCN
: Giáo viên chủ nhiệm
HCTC
: Học chế tín chỉ
HĐTH
: Hoạt động tự học
HP
: Học phần
HSSV
: Học sinh sinh viên
NCKH
: Nghiên cứu khoa học
NXB
: Nhà xuất bản
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với cả nhân loại, chúng ta đang bước vào thế kỷ 21- thế kỷ với đặc
trưng là sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thế kỷ của sự bùng nổ thông tin, sự
phát triển như vũ bão của công nghệ cao. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt
Nam tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu đến
năm 2020 sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp với nền kinh tế tri thức phát triển.
Nền kinh tế tri thức đòi hỏi con người phải có nhiều kiến thức, kỹ năng mới và một
thái độ tích cực để làm chủ cuộc sống. Với sự bùng nổ của thông tin và khoa học
công nghệ, kiến thức của nhân loại ngày càng tăng nhanh mà kiến thức của con
người học được ở trường là có hạn, không thể đủ để học tất cả kiến thức ngày càng
gia tăng của nhân loại. Để giải quyết mâu thuẫn trên, theo các nhà sư phạm, người
học phải biết tự học, bằng phương pháp tự học, người học có thể học thường xuyên,
học suốt đời, học mọi lúc, mọi nơi nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Để đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp phát triển
đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam, Đảng ta đã coi: “Giáo dục là
quốc sách hàng đầu”; “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Chất lượng
và hiệu quả giáo dục được nâng lên khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người
học, khi biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy mô giáo dục được
mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc: “lấy tự học làm gốc” đã được nhân dân ta
luôn coi trọng. Điều 5 của luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Phương pháp giáo
dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học;
bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành và lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên”; “…đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh
phát triển phong trào tự học, tự đào tạo…”; “…tạo ra năng lực tự học sáng tạo
của mỗi học sinh” [26].
1
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII khẳng định “Đổi mới phương pháp giáo
dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến và
phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian
tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên; nhất là sinh viên đại học” [9].
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, vấn đề cốt lõi
của đường lối đổi mới giáo dục được xác định là “Chuyển dần mô hình giáo dục
hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập
suốt đời, đào tạo liên tục…” [11].
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại
học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 nêu rõ: “Xây dựng và thực hiện lộ trình
chuyển sáng chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người
học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp
học tiếp theo trong nước và ở nước ngoài” [29].
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ hiện là hình thức đào tạo khá phổ biến tại nhiều
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Năm học 2010 – 2011, trường Cao
đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp cũng áp dụng hình thức đào tạo này. Với
quy trình mềm dẻo, lấy người học làm trung tâm, chương trình đào tạo tín chỉ tạo cơ
chế cho tính chủ động của sinh viên trong quá trình tự đào tạo - một quá trình rất
quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo. Cái khó nhất trong đào tạo theo
học chế tín chỉ là sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu và tự tìm ra phương pháp học
tập tối ưu nhất để đạt được kết quả cao nhất.
Trường Cao đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp là một trường đa ngành,
với quy mô đào tạo hơn 6000 sinh viên các hệ. Với mục tiêu “ Xây dựng trường
thành một trường cao đẳng nghề trọng điểm quốc gia, đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh Hải Dương và các tỉnh
lân cận”.
Như vậy, tiêu chí đặt ra của nhà trường là đào tạo những con người vừa có
đức vừa có tài để phục vụ đất nước. Trên thực tế các thế hệ học sinh, sinh viên do
2
nhà trường đào tạo ra đã và đang có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây
dựng tỉnh Hải Dương nói riêng và cả nước nói chung. Nhiều trong số họ đã và đang
giữ những trọng trách quan trọng trong các cơ quan nhà nước như các sở, ban,
ngành; trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế… Tuy nhiên, từ khi
chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ, nhà trường đã gặp
không ít khó khăn trong việc quản lý hoạt động tự học, tự nghiên cứu của sinh viên,
đặc biệt là các em chưa đầu tư thoả đáng cho việc tự học, tự nghiên cứu ngoài giờ
lên lớp, nhiều em chưa biết vân dụng phương pháp học tập phù hợp nên chất lượng
chưa cao.
Vì các lý do trên tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “ Biện pháp quản lý hoạt
động tự học của sinh viên trường Cao đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận giáo dục đại học và thực tiễn quản lý của Nhà
trường, đề tài làm rõ và đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tự học nhằm
nâng cao kết quả tự học của sinh viên khi áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ ở
trường Cao đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo nghề.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Cao đẳng nghề.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Cao đẳng nghề
Thương mại và Công nghiệp.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, kết quả tự học của sinh viên trường cao đẳng nghề Thương mại và
Công nghiệp vẫn còn hạn chế. Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý hoạt động tự
học của sinh viên một cách khoa học, phù hợp với đặc điểm đào tạo nghề, điều kiện
của nhà trường thì sẽ nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu đào
tạo theo học chế tín chỉ.
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài trên chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu
của đề tài này bao gồm:
5.1. Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở trường
Cao đẳng đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ
5.2. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tự học và thực trạng quản lý hoạt
động tự học của sinh viên trường Cao đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp
5.3. Đề xuất và khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi các biện pháp quản lý
hoạt động tự học của sinh viên trường Cao đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trong đào tạo theo
học chế tín chỉ.
6.2. Giới hạn về địa bàn khảo sát
Trường cao đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp.
6.3. Giới hạn về khách thể khảo sát
Nghiên cứu trên 120 sinh viên thuộc khoa Điện- Điện tử, Xăng dầu về một
số hoạt động tự học của sinh viên đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ và
30 cán bộ quản lý và giảng viên.
Chỉ nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động tự học ngoài giờ lên lớp của
sinh viên.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đê hoàn thành việc nghiên cứu đề tài này, tác giả xác định các phương pháp
nghiên cứu sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các tài
liệu lý thuyết đã công bố như: tư liệu về Giáo dục học – Tâm lý học, Lý luận về
quản lý giáo dục, các văn bản về sinh viên, về đào tạo theo học chế tín chỉ nhằm
xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
4
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
7.2.1. Phương pháp quan sát
Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm tìm kiếm thông tin về hoạt động
tự học của sinh viên.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn và điều tra bằng Anket
Sử dụng hệ thống câu hỏi “đóng”, “mở” để phát hiện thực trạng tự học và
thực hiện các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên.
7.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Nhằm tổng kết kinh nghiệm về biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh
viên Trường Cao đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp.
7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ
Chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê toán học và phần mềm máy tính để
thống kê và xử lý số liệu thu thập được và thể hiện chúng bằng các sơ đồ, biểu đồ.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị và các danh mục tài liệu tham
khảo luận văn bao gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh
viên trường Cao đẳng nghề đáp ứng đào tạo theo học chế tín chỉ.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Cao
đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp.
Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Cao
đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lịch sử phát triển của giáo dục, tự học là vấn đề đã được quan tâm
nghiên cứu từ lâu cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm phát huy vai trò tích cực của
người học. Song ở từng giai đoạn phát triển của lịch sử vấn đề, tự học được đề cập
dưới nhiều hình thức khác nhau.
1.1.1. Ở nước ngoài
Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà giáo dục lỗi lạc đã nhận thấy vai trò quan
trọng của tự học. Khổng Tử (551-479 TrCN) – nhà Giáo dục kiệt xuất thời Trung
hoa cổ đại, trong cuộc đời dạy học của mình luôn quan tâm và coi trọng mặt tích
cực suy nghĩ của người học. Ông từng dạy học trò: “không giận vì không muốn biết
thì không gợi mở cho, không bực vì không rõ thì không bày cho, vật có 4 góc, bảo
cho biết 1 góc mà không suy ra được 3 góc kia thì không dạy nữa”.
Nhà sư phạm lỗi lạc Tiệp Khắc J.A Comenxky (1592-1670) - Ông tổ của nền
giáo dục cận đại đã khẳng định: “Không có khát vọng học tập thì không thể trở
thành tài năng”. [16]
Đến thế kỷ XVIII-XIX, các nhà giáo dục nổi tiếng của thế giới như: J.J
Rutxo (1712-1778), J.H Petstalogi (1746-1827), A.L Dixtecvec (1790-1886), K.Đ
Usinxky (1824-1890) trong các tác phẩm nghiên cứu của mình đã khẳng định: Tự
mình giành lấy tri thức bằng con đường tự khám phá, tự tìm tòi, tự suy nghĩ là con
đường quan trọng để chiếm lĩnh tri thức. [13,27]
N.A. Rubakin [27], Smith Hecbot [16] đã nhấn mạnh việc quan tâm giáo dục động
cơ học tập đúng đắn là điều kiện cơ bản để học sinh tích cực, chủ động trong học tập.
Kết quả nghiên cứu của P.V Exipov đã chỉ ra rằng: các kỹ năng cơ bản của
tự học là vấn đề hết sức quan trọng đảm bảo cho người học đạt kết quả cao trong
học tập. [13]
6
M.Machiuskin [20] đã chỉ rõ trách nhiệm của giáo viên trong việc bồi dưỡng,
hình thành kỹ năng tự học cho sinh viên thông qua việc giao bài tập nhận thức cho
sinh viên trong thời gian tự học.
Trong những năm gần đây, các nước phương Tây nổi lên cuộc cách mạng
tìm phương pháp giáo dục mới dựa trên cơ sở tiếp cận “lấy người học làm trung
tâm” để làm sao phát huy hết năng lực nội sinh của người học, đại diện cho tư
tưởng này là J.Deway, ông cho rằng: “Học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ
mọi phương tiện giáo dục”. [34]
Học chế tín chỉ được khai sinh năm 1872, tại Viện Đại học Harvard (Hoa
Kỳ) dưới sự điều hành của Charles Elios, xuất phát từ yêu cầu là quá trình đào tạo
được tổ chức sao cho người học lựa chọn được cách học phù hợp nhất với khả năng,
điều kiện của mình và cơ sở đào tạo phải thích ứng dễ dàng trước những biến động
nhanh chóng, đa dạng của đời sống xã hội. Với ý nghĩa đó, đào tạo theo học chế tín
chỉ phát triển nhanh và lan rộng ra toàn nước Mỹ. Từ đầu thế kỷ XX, học chế tín chỉ
phát triển ra nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển như: Nhật
Bản, Philippines, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan,
Trung Quốc, Senegal, Mozambic, Nigeria, Uganda,…Trước sự lớn mạnh đó, 29 Bộ
trưởng đặc cách giáo dục đại học ở các nước liên minh Châu Âu ký “Tuyên ngôn
Bogloga” với mục đích hình thành “Không gian giáo dục đại học Châu Âu”
(European Higher Education Area) nhằm triển khai học chế tín chỉ trong toàn bộ hệ
thống giáo dục đại học.
1.1.2. Ở Việt Nam
Hoạt động tự học chỉ thực sự được chú ý và quan tâm dưới nền giáo dục
XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam là
tấm gương sáng ngời về ý chí quyết tâm trong học tập và rèn luyện. Bác đã
động viên toàn dân: “Phải tự nguyện, tự giác xem công việc học tập là nhiệm
vụ của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành cho được do đó mà tích cực,
tự động hoàn thành kế hoạch học tập” [22]. Người còn chỉ rõ: “Về việc học
phải lấy tự học làm cốt”.
7
Tư tưởng của Hồ Chí Minh được Đảng, Nhà nước vận dụng và đề ra trong
các nghị quyết Đảng. Tại hội nghị lần thứ II BCH Trung ương Đảng khoá VIII đã
khẳng định: “Đổi mới phương pháp dạy học…nâng cao khả năng tự học, tự nghiên
cứu của người học”.[9]
Trước năm 1975, học chế tín chỉ được triển khai ở Viện Đại học Cần Thơ,
Viện Đại học Thủ Đức. Sau năm 1975, tư tưởng về học phần xuất hiện năm 1987,
Quy chế đào tạo theo học phần tạm thời ra đời năm 1988 và hoàn chỉnh vào năm
1990 với khái niệm HỌC PHẦN và ĐƠN VỊ HỌC TRÌNH, đào tạo theo 2 khối
kiến thức và 3 học phần, điểm trung bình chung. Học chế học phần được xây dựng
với mục đích tạo điều kiện cho người học tích luỹ dần kiến thức theo các mô-đun.
Như vậy, học chế học phần có điểm giống nhau cơ bản với học chế tín chỉ, nhưng
nó chưa hoàn toàn là học chế tín chỉ mà thực chất là sự kết hợp giữa niên chế và tín
chỉ. Trường Đại học tiên phong áp dụng học chế học phần triệt để - học chế tín chỉ
là trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh, năm học 1994-1995. Sau đó, các
đại học khác như: Đại học Đà Lạt, Đại học Cần Thơ, Đại học Khoa học - Tự nhiên
TP. Hồ Chí Minh, Đại học Thuỷ sản Nha Trang, Đại học Thương mại, Đại học
Nông nghiệp Hà Nội, Đại học Dân lập Phương Đông, …cũng đã triển khai học chế
tín chỉ. Trong “Chương trình hành động của Chính phủ” thực hiện Nghị quyết số
37/2004/QH11 khoá IX, ký họp thứ sáu của Quốc hội đã chỉ rõ: “Mở rộng, áp dụng
học chế tín chỉ trong đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp…” [30]
Triết lý cơ bản của hệ thống tín chỉ là “Tôn trọng người học, xem người học
là trung tâm của quá trình đào tạo”. Nói cách khác, đào tạo theo học chế tín chỉ là
hình thức đào tạo hướng về người học, tất cả vì người học.
Chuyển sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ tạo ra sự thay đổi lớn
về phương cách, thói quen dạy-học của người dạy lẫn người học. Đối với hình thức
đào tạo này thì khối lượng giờ giảng trên lớp sẽ giảm đi, mà sẽ tăng thời gian tự
học, tự nghiên cứu của sinh viên. Vì vậy, khi áp dụng theo học chế tín chỉ, việc tự
học, tự nghiên cứu của sinh viên có vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định
kết quả chất lượng đào tạo. Trường Cao đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp
8
cũng đã tổ chức thực hiện chuyển đổi từ hình thức đào tạo theo niên chế sang đào
tạo theo học chế tín chỉ từ năm 2010-2011. Có thế thấy, đã có rất nhiều tác giả, có
nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động tự học như Đặng Bá Lâm, Hà Thế Ngữ,
Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Cảnh Toàn,… Gần đây, dưới sự hướng
dẫn của các nhà khoa học, các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện
Quản lý giáo dục, nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đã nghiên cứu về hoạt động
tự học và đều khẳng định tự học không phải là vấn đề mới nhưng nghiên cứu về
hoạt động tự học trong đào tạo theo học chế tín chỉ thì vẫn còn ít. Vì vậy, trong luận
văn này tác giả tập trung vào việc xây dựng các biện pháp quản lý các hoạt động tự
học của sinh viên trường Cao đẳng nghề Thương mại và Công nghiệp nhằm nâng
cao kết quả hoạt động tự học, nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường theo học
chế tín chỉ.
1.2. Quản lý
1.2.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là sự điều khiển một hệ thống động xã hội ở tầm vĩ mô cũng như vi
mô, vì vậy có nhiều cách tiếp cận quản lý khác nhau, ở mỗi cách tiếp cận có những
định nghĩa khác nhau:
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể
quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến”.[24]
- Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức,
có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về các mặt chính trị, văn
hoá, xã hội, kinh tế…bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc,
các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự
phát triển của đối tượng”.[12]
- Các tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Hoạt động
quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích
của tổ chức”. [17]
9
- Theo Harold Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự
phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục
tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người
có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất
mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì cách quản lý là một nghệ thuật, còn
kiến thức có tổ chức về quản lý là một khoa học”. [15]
- Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: Quản lý là phương thức tác động
có chủ đích của chủ thể quản lý lên hệ thống bao gồm các quy tắc ràng buộc về
hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ thống nhằm duy trì tính trội hợp lý
của cơ cấu và đưa hệ thống sớm đạt được mục tiêu.
Qua các định nghĩa và quan niệm về “Quản lý” như đã trình bày ở trên, ta thấy
rằng hoạt động quản lý luôn tồn tại hai thành tố đó là chủ thể quản lý và khách thể quản
lý. Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân hay một nhóm người có chức năng quản lý,
điều khiển tổ chức để tổ chức vận hành và đạt được mục tiêu. Khách thể quản lý là
những người chịu sự tác động, chỉ đạo của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung.
Quản lý có nhiều loại khác nhau, trong đó quản lý xã hội là phức tạp nhất.
Bởi vì, xã hội một mặt là hệ thống trên của nền kinh tế, bao gồm toàn bộ các hoạt
động về kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá, tinh thần,… nên nó chứa đựng tất cả
những sự phức tạp của đối tượng phải quản lý; mặt khác, trong quá trình quản lý xã
hội còn có những quan hệ phi kết cấu như quan hệ đạo đức, quan hệ cá nhân, quan
hệ xã hội nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Hơn nữa, sự tác động qua lại
giữa các đối tượng, các quan hệ làm cho việc quản lý càng phức tạp và khó khăn
hơn. Do vậy, quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một
hệ thống xã hội ở tầm vĩ mô hay vi mô.
1.2.2. Chức năng quản lý
Các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý vè khoa học quản lý đã đưa ra 4
chức năng cơ bản dưới đây:
1.2.2.1. Chức năng lập kế hoạch
Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên và cơ bản nhất giúp cho nhà quản lý
tiếp cận mục tiêu một cách hợp lý và khoa học. Trên cơ sở phân tích trạng thái
10
xuất phát, căn cứ vào những tiềm năng đã có, những khả năng sẽ có trong tương
lai mà xác định rõ hệ thống của các mục tiêu, nội dung hoạt động, các biện pháp
cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của tổ chức. Lập kế hoạch bao gồm 3
nội dung chủ yếu sau:
- Dự đoán, dự báo nhu cầu phát triển
- Chẩn đoán, đánh giá thực trạng phát triển của tổ chức
- Xác định những mục tiêu, biện pháp và đảm bảo các điều kiện để thực hiện
các mục tiêu đã đặt ra.
1.2.2.2. Chức năng tổ chức
Tổ chức là quá trình sắp xếp và phân phối các nguồn lực để hiện thực hoá
các mục tiêu đã đề ra, là sự sắp đặp một cách khoa học những con người, những
công việc một cách hợp lý, là sự phối hợp các tác động bộ phận tạo nên một tác
động tích hợp mà hiệu quả của nó lớn hơn nhiều so với tổng số các hiệu quả của các
tác động thành phần. Công tác tổ chức gồm 3 nhiệm vụ chính dưới đây:
- Xác định cấu trúc của bộ máy
- Tiếp nhận và phân phối các nguồn lực theo cấu trúc bộ máy
- Xác lập cơ chế phối hợp giữa các bộ phận, các thành viên trong tổ chức.
12.2.3. Chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình liên kết, liên hệ giữa các thành viên trong tổ chức, tập
hợp động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ
chức. Nội dung của chức năng chỉ đạo bao gồm:
- Chỉ huy, ra lệnh
- Động viên, khen thưởng
- Theo dõi, giám sát
- Uốn nắn, sữa chữa, bù đắp và chỉnh lý.
1.2.2.4 Chức năng kiểm tra
Kiểm tra là căn cứ vào kế hoạch và mục tiêu đã định để xem xét, đo lường và
đánh giá việc thực hiện nhằm phát hiện kịp thời những sai sót, tìm ra nguyên nhân
và biện pháp khắc phục. Đồng thời, kiểm tra cũng nhằm tìm kiếm các cơ hội, các
11
nguồn lực có thể khai thác để thúc đẩy hoạt động của tổ chức. Trong hoạt động
quản lý, chức năng kiểm tra có vai trò hết sức quan trọng, thông qua chức năng
kiểm tra một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi, giám sát các thành quả
hoạt động, nếu kết quả hoạt động không đạt được đúng với mục tiêu, người quản lý
sẽ tiến hành điều chỉnh, sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Vì vậy, để đánh giá được
hiệu quả quản lý, người lãnh đạo cần phải thực hiện chức năng kiểm tra.
Kiểm tra theo lý thuyết hệ thống chính là thiết lập mối quan hệ ngược trong
quản lý. Có 3 yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra:
- Xây dựng chuẩn để thực hiện
- Đánh giá việc thực hiện dựa trên chính sách so với chuẩn
- Nếu kết quả hoạt động có sự chênh lệch so với chuẩn thì cần điều chỉnh
hoạt động để đạt được hiệu quả mong muốn.
Bốn chức năng của hoạt động quản lý có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo
thành một chu trình quản lý. Chu trình quản lý bao gồm bốn giai đoạn với sự tham
gia của hai yếu tố vô cùng quan trọng đó là thông tin và quyết định. Trong đó thông
tin có vai trò là huyết mạch của hoạt động quản lý đồng thời cũng là tiền đề của một
quán trình quản lý tiếp theo.
Sơ đồ 1.1. Chức năng quản lý
Kế hoạch
Kiểm tra
Thông tin
Tổ chức
Chỉ đạo
1.3. Hoạt động tự học và tự học theo học chế tín chỉ
1.3.1. Khái niệm tự học
Có nhiều tác giả nghiên cứu về tự học, mỗi tác giả có những quan điểm khác
nhau, sau đây là một số các quan điểm:
12
- Nhà tâm lý học N.A Rubakin cho rằng: “Tự học là quá trình lĩnh hội tri
thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết
lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản
ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh
nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của bản thân chủ thể”. [27]
- Theo tác giả Lê Khánh Bằng: “Tự học (self learning) là tự mình suy nghĩ,
sử dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa
học nhất định”. [3]
- Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “ Tự học phải là công việc tự giác của
mỗi người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích luỹ kiến
thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ
của xã hội”. [12]
- Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “ Tự học là tự mình động não, suy nghĩ,
sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,…và có khi cả
cơ bắp khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ,
tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí
tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn
thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi,…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào
đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”. [31]
Từ những quan điểm tự học nêu trên, chúng tôi đi đến định nghĩa về tự học
như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm
lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình
nhằm đạt được mục đích nhất định.
1.3.2. Các hình thức tự học
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
- Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không
có sách và sự hướng dẫn của giáo viên.
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá
trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới,
13
đây là thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được dựa
trên nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời
phải có vốn tri thức vừa rộng vừa sâu. Tới trình độ tự học này, người học không
thầy, không sách mà chỉ cọ sát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt
động tự học của mình.
- Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
+ Tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy:
Trường hợp này, người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách
qua đó sẽ phát triển về tư duy. Tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi người
phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
+ Tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa thầy
và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại dưới dạng phản
ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,…
- Hình thức 3:Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày sau đó
sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên.
+ Trong quá trình học tập trên lớp, thầy với vai trò là nhân tố hỗ trợ, là chất
xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trò chủ
thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá
trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối quan hệ giữa nội lực và
ngoại lực, ngoại lực dù có quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất xúc tác thúc đẩy nội
lực phát triển.
+ Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy
nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch, huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của bản thân
để hoàn thành những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người học theo hình
thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, được giáo viên định hướng
về nội dung, phương pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy, ở hình thức tự
14
học thứ 3 này quá trình tự học của người học có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy
học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá
trình dạy học của giáo viên và quá trình tự học của sinh viên.
Do mục đích và nội dung nghiên cứu, đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu
công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên trong và ngoài giờ lên lớp dưới sự
hướng dẫn của giáo viên trong quá trình dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo
theo học chế tín chỉ và nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng nghề
Thương mại và Công nghiệp.
1.3.3. Hoạt động tự học của sinh viên
* Đặc điểm hoạt động tự học của sinh viên
Sinh viên là đối tượng đã có ý thức phát triển, được trang bị những kiến thức
cơ bản có khả năng thực hiện hoạt động tự học, tự nghiên cứu, tự lĩnh hội tri thức.
Khả năng tư duy của sinh viên đã phát triển ở mức độ cao. Quá trình học tập của
sinh viên khác với quá trình học tập của học sinh phổ thông. Những tri thức mà sinh
viên lĩnh hội được chủ yếu liên quan tới lĩnh vực nghề nghiệp, sinh viên bắt đầu tập
dượt nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu các vấn đề khoa học, nó cao hơn và phức tạp
hơn so với quá trình học tập của học sinh phổ thông. Chính vì vậy, trong quá trình
học tập sinh viên phải có tính tích cực, độc lập rất cao mới có thể tiếp cận và làm
quen với phương pháp học tập mới.
Nét đặc trưng cơ bản trong hoạt động học tập của sinh viên là tập trung căng
thẳng về trí tuệ, sự hứng thú, say mê về cảm xúc và thái độ đúng đắn trong học tập.
Hoạt động tự học của sinh viên có vai trò quyết định tới quá trình nhận thức, nó
mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của hoạt động tự học nói chung, đó là quá
trình sinh viên tự giác, tự lực, tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên để sinh viên
có thể chiếm lĩnh được những tri thức khoa học ở một lĩnh vực chuyên môn nào đó
bằng hành động của chính mình nhằm đạt mục tiêu đào tạo. Thực chất hoạt động tự
học của sinh viên chính là bản thân sinh viên tự giác, tích cực tham gia vào hoạt
động nhận thức, sinh viên huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý, chức năng
tư duy trong quá trình lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
15
* Các hình thức tự học của sinh viên
Trong quá trình tự học, sinh viên tiến hành hoạt động tự học dưới nhiều hình
thức khác nhau:
- Tự học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên trong quá trình dạy học
trên lớp.
- Tự học ngoài giờ lên lớp, dưới sự điều khiển và hướng dẫn gián tiếp của
giáo viên thông qua bài tập nhận thức mà giáo viên giao cho sinh viên thực hiện.
- Tự học hoàn toàn độc lập theo hứng thú và sở thích riêng của bản thân sinh
viên mà không có sự hướng dẫn và điều khiển của giáo viên, những tri thức đó nằm
ngoài chương trình đào tạo của nhà trường.
Tất cả các hình thức tự học trên của sinh viên đều nhằm mục đích chiếm
lĩnh, lĩnh hội tri thức mới, làm giàu thêm vốn tri thức của bản thân.
* Các giai đoạn hoạt động tự học của sinh viên
- Ở giai đoạn đầu, sinh viên tiến hành hoạt động tự học một cách thụ động,
miễn cưỡng, gò bó. Sinh viên ít chủ động, tự giác, tích cực tham gia vào hoạt động
tự học nếu không có sự kiểm tra, giám sát, thúc giục của giáo viên và các lực lượng
giáo dục khác. Đây là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tự học, sinh viên chưa phát
huy được tính tích cực, tự giác trong học tập, học theo kiểu gò ép, đối phó, do vậy
kết quả học tập của sinh viên còn hạn chế.
- Đến một giai đoạn nhất định, khi bản thân sinh viên đã tích luỹ được một
lượng kiến thức nhất định, khả năng tư duy của sinh viên phát triển ở mức độ cao hơn.
Ở giai đoạn này, những tri thức bản thân sinh viên tích luỹ được đã đủ sức trở thành
những công cụ, những phương tiên phục vụ đắc lực cho việc tiếp thu những tri thức
khoa học mới. Lúc này sinh viên đã có đầy đủ năng lực để tự học, tự nghiên cứu trong
quá trình học tập, dần dần thông qua hoạt động tự học sẽ hình thành cho sinh viên niềm
tin, sự say mê vào khả năng tự học của mình, sinh viên sẽ tích cực tham gia vào hoạt
động tự học với tinh thần tự giác cao nhất mà không cần một ai nhắc nhở.
Qua vấn đề nêu trên ta thấy, hoạt động tự học của sinh viên có phạm vi rất
rộng, từ việc tự học ở trên lớp dưới sự hướng dẫn, tổ chức, điều khiển của giáo viên,
16
tự học ngoài giờ lên lớp dưới sự hướng dẫn, điều khiển gián tiếp của giáo viên hay
việc tự học hoàn toàn độc lập theo sở thích, hứng thú của bản thân. Tất cả các hình
thức đó đều nhằm mục đích lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cho bản thân sinh viên.
1.3.4. Đặc điểm của đào tạo theo học chế tín chỉ
Tinh thần cốt lõi của đào tạo theo học chế tín chỉ chính là dạy học tích cực và
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người học. Dạy học tích cực hay phương pháp tích
cực đều có cùng đặc điểm với tinh thần “dạy học lấy người học làm trung tâm”.
Cách dạy của thầy không còn là truền thụ một chiều, chỉ cung cấp thông tin nữa mà
là dạy cách học, cách học của trò không chỉ là tích luỹ kiến thức mà phải nắm lấy
cách tự học. Các nghiên cứu về phương pháp dạy học trên thế giới cũng như ở Việt
Nam đã cho thấy chừng nào thầy còn dạy theo kiểu truyền thụ một chiều, trò còn
học theo kiểu ghi nhớ kiến thức, kiểm tra đánh giá nặng về kiến thức, coi nhẹ kỹ
năng, tư duy thì chất lượng đào tạo còn hạn chế, sản phẩm đào tạo không đáp ứng
nhu cầu của thị trường lao động. Bộ giáo dục và Đào tạo đã có quyết định số
43/2007/QĐ- BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 về việc ban hành “Quy chế đào
tạo đại học và cao đẳng chính quy theo hệ thống tín chỉ”. Đó là bước đột phá chiến
lược nhằm nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học, cao đẳng ở nước ta.
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ có các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Quá trình học là sự tích luỹ kiến thức theo học phần (tín chỉ)
- Lớp học tổ chức theo học phần, sinh viên đăng ký học các học phần ở đầu
mỗi học kỳ
- Kiến thức phải được cấu trúc thành các môđun (học phần)
Có thể xem HP là một môn học có cấu trúc chặt chẽ, được giảng dạy trọn
vẹn trong một học kỳ và được đánh giá độc lập với các HP khác.
Đơn vị đo khối lượng học tập của sinh viên là tín chỉ. Một tín chỉ được quy
định bằng một số tiết học trên lớp tương đương với 15 tiết lý thuyết; 30- 45 tiết thực
hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45- 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45- 60 giờ làm tiểu
luận, bài tập lớn,…
Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu
được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị bài ở nhà.
17
Công thức 1 tín chỉ ứng dụng với 15 tiết lý thuyết trên lớp tương đối phổ
biến vì nói chung một học kỳ thường có 15 tuần thực học. Một HP thông
thường từ 2 đến 4 tín chỉ. Các HP trước đây đã tính theo ĐVHT thì quy đổi 1,5
ĐVHT = 1 tín chỉ.
Một tiết học được tính bằng 50 phút.
- Quy định khối lượng kiến thức phải tích luỹ cho từng văn bằng
Khối lượng kiến thức tối thiểu cho chương trình của một ngành hệ cao đẳng
3 năm không dưới 90 tín chỉ. Hiệu trưởng quy định cụ thể khối lượng kiến thức tối
thiểu cho từng chương trình đào tạo được triển khai đào tạo trong phạm vi trường.
- Không thi tốt nghiệp
Quá trình học là sự tích luỹ kiến thức theo học phần. HP nào đã được tích luỹ
thì không phải thi nữa.
Đầu học kỳ cuối khoá, các sinh viên được đăng ký làm đồ án, khoá luận tốt
nghiệp hoặc học thêm một số học phần chuyên môn.
+ Làm đồ án, khoá luận tốt nghiệp: áp dụng cho sinh viên đạt mức quy định
của trường. Là Hp có khối lượng không quá 5 tín chỉ cho trình độ cao đẳng.
+ Học và thi một số HP chuyên môn: sinh viên không được giao làm đồ án,
khoá luận tốt nghiệp phải đăng ký học thêm một số học phần chuyên môn, nếu chưa
tích luỹ đủ số tín chỉ quy định cho chương trình.
- Có hệ thống cố vấn học tập
Mỗi cố vấn học tập phụ trách một số sinh viên kể từ lúc vào trường cho đến
khi ra trường. Cố vấn học tập phải nắm vững tình hình của sinh viên mình phụ
trách, tư vấn cho sinh viên chọn chương trình và tiến trình học phù hợp và giúp sinh
viên đăng ký học từng học kỳ.
- Chương trình đào tạo có thể mềm dẻo, có nhiều khả năng lựa chọn cho sinh
viên và tạo điều kiện dễ dàng cho sinh viên chuyển ngành hoặc học một lúc 2
chương trình.
- Đánh giá kết quả mỗi học phần một cách thường xuyên và theo thàng điểm
chữ. Phải có phương pháp kiểm tra đánh giá sao cho đánh giá được cả sự học tích
cực của sinh viên.
18
1.3.5. Đặc điểm hoạt động tự học của sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ
Có thể khẳng định rằng: hoạt động tự học của sinh viên là một hoạt động
không thể thiếu và đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình học tập ở
bậc cao đẳng, đại học. Tuy nhiên, trong các phương thức đào tạo khác nhau, hoạt
động này lại có những nét đặc thù riêng. Sự khác biệt giữa hoạt động tự học theo
học chế niên chế so với học chế tín chỉ được thể hiện ở một số điểm sau:
Trước hết, trong phương thức đào tạo theo niên chế, sinh viên tuân thủ theo
một chương trình do nhà trường định sẵn của từng học kỳ, từng năm học, từng khoá
học căn cứ vào thời khoá biểu. Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo tín chỉ,
kế hoạch học tập cụ thể phụ thuộc vào chính bản thân người học. Sinh viên có
nhiệm vụ và quyền được lựa chọn môn học, thời gian học, tiến trình học tập nhanh,
chậm phù hợp với điều kiện của mình. Phương thức này tạo cho sinh viên năng lực
chủ động trong việc lập kế hoạch học tập khoa học, xác định thời gian, phương tiện,
biện pháp để thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch học tập đó. Khi đó người
sinh viên phải ý thức xây dựng kế hoạch tự học, tự nghiên cứu sao cho quá trình
học tập hiệu quả nhất.
Thứ hai, hình thức tổ chức dạy học trong phương thức tín chỉ quy định hoạt
động tự học của sinh viên như là một thành phần bắt buộc trong thời khoá biểu và là
một nội dung quan trọng của đánh giá kết quả học tập. Hoạt động dạy- học theo tín
chỉ được tổ chức theo ba hình thức: lên lớp, thực hành và tự học. Trong ba hình
thức tổ chức dạy học này, hai hình thức đầu được tổ chức có sự tiếp xúc trực tiếp
giữa giảng viên và sinh viên (giảng viên giảng bài, hướng dẫn; sinh viên nghe
giảng, thực hành, thực tập dưới sự hướng dẫn của giảng viên,…), hình thức thứ ba
có thể không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên và sinh viên (giảng viên giao
nội dung để sinh viên tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành và sẵn sàng tư vấn khi
được yêu cầu). Ba hình thức tổ chức dạy học tương ứng với ba kiểu giờ tín chỉ: giờ
tín chỉ lên lớp, giờ tín chỉ thực hành và giờ tín chỉ tự học.
19
Hình thức tổ chức thực hiện một giờ tín chỉ
Tự học
Thực hành,
Lý thuyết thí nghiệm,
Tự nghiên
Chuẩn bị
xêmina
cứu
Giờ Lý thuyết
1
2
Giờ Thực hành
2
1
Giờ Tự học
3
Tổng
3
3
3
Tuỳ thuộc tính chất đặc thù của từng môn học (mục tiêu, nội dung môn học)
mà có các hình thức tổ chức dạy - học khác nhau. Có những môn học chỉ có một
kiểu giờ tín chỉ, nhưng có những môn học có hai hoặc cả ba kiểu giờ tín chỉ. Trong
mọi trường hợp, công thức tính cho mỗi môn học là không đổi: 1+0+2 (môn học
thuần lí thuyết); 0+2+1 (môn học thuần thực hành); 0+0+3 (môn học thuần tự học).
Cách tổ chức thực hiện một giờ tín chỉ cho chúng ta thấy một đặc điểm rất
quan trọng góp phần tạo nên sự khác biệt với phương thức đào tạo truyền thống.
Nếu hoạt động tự học trong học chế niên chế chỉ mang tính chất tự nguyện thì
phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ coi tự học là một thành phần hợp pháp và
bắt buộc phải có trong hoạt động học tập của sinh viên. Để có được một giờ lý
thuyết hay hai giờ thực hành, thực tập trên lớp sinh viên cần phải có 2 hay 1 giờ
chuẩn bị ở nhà. Đó là yêu cầu bắt buộc trong cơ cấu giờ học của sinh viên.
Thứ ba, nội dung của một bài giảng trong hệ thống tín chỉ thường gồm 3
thành phần chính:
- Phần nội dung bắt buộc phải biết (N1) được giảng trực tiếp trên lớp.
- Phần nội dung nên biết (N2) có thể không được giảng trực tiếp trên lớp mà
giáo viên có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể sinh viên tự học, tự nghiên cứu ở ngoài lớp.
- Phần nội dung có thể biết (N3) dành riêng cho học sinh tự học, chuẩn bị
bài, làm bài tập, thảo luận nhóm, xêmina, làm thí nghiệm…và các hoạt động khác
có liên quan đến môn học.
- Như vậy kiến thức của mỗi môn học được phát triển thông qua những tìm
tòi của người học dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giảng viên. Nếu sinh viên không
tự học thì họ mới chỉ lĩnh hội được 1/3 khối lượng kiến thức của môn học và như
vậy đồng nghĩa với việc học không đạt được yêu cầu của môn học đó.
- Ngoài ra, một điểm rất quan trọng, khác biệt với học chế niên chế là trong
20