Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần Thế Giới Số tại thị trường tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.11 KB, 112 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sỹ Quản trị kinh doanh với đề tài
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần Thế Giới Số tại thị trường
tỉnh Thái Nguyên” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu thống
kê nêu trong Luận văn được trích dẫn trung thực. Những thông tin trong Luận
văn do tôi độc lập nghiên cứu, tìm hiểu. Những kết luận trong luận văn được
rút ra trên cơ sở phân tích khoa học trung thực và mang tính ứng dụng cao với
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thanh Hà.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thảo


2

LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Thanh Hà
– trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đồng thời tôi cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ
của các thầy cô đang công tác tại Trường Đại học Công Đoàn, cùng với sự hỗ
trợ, cung cấp thông tin của Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên
đang công tác tại Công ty Cổ phần Thế Giới Số tại thành phố Thái Nguyên.
Xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Công đoàn,
Khoa Sau đại học trường Đại học Công đoàn đã động viên, tạo điều kiện cho
tôi theo học và hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn Hội đồng đánh giá Luận văn đã quan tâm xem
xét, nghiên cứu và góp ý những thiếu xót để tôi kịp thời bổ sung nhằm hoàn
thiện hơn đề tài luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè trong lớp CH6 và bạn bè trong cơ
quan đã đóng góp ý cho tôi hoàn thành luận văn được tốt hơn.


Là một đề tài mới, luận văn không tránh khỏi những hạn chế, tôi rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các bạn để luận văn hoàn thiện và
có tính ứng dụng thực tế cao hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG, HÌNH, SƠ ĐỒ
1. Bảng


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, cạnh
tranh đóng vai trò vô cùng quan trọng tới sự phát triển của nền kinh tế thị
trường. Nó được coi là động lực cho sự phát triển chung của nền kinh tế.
Cạnh tranh là môi trường, nó tạo sức ép phát triển cho mọi thành phần kinh tế
trong nền kinh tế thị trường, góp phần xóa bỏ những chế độ độc quyền, bất
hợp lý, bất bình đẳng trong kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào
hoạt động sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường đều phải chịu tác động
của các quy luật kinh tế khách quan và một trong những quy luật đó là quy
luật cạnh tranh.
Dưới tác động của quy luật cạnh tranh nhưng mỗi doanh nghiệp có
những cách khác nhau để đối phó sao cho hợp lý và mang lại được lợi ích tối đa
cho doanh nghiệp của mình. Và những cách mà doanh nghiệp thường dùng để
tồn tại và phát triển trên thị trường hay gọi là cạnh tranh như: không ngừng nỗ

lực áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến công nghệ, phương thức
quản lý, nâng cao tay nghề, trình độ cho công nhân viên của công ty mình... Tất
cả nhằm đưa ra được sản phẩm chất lượng cao, đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm,
giảm giá thành sản phẩm, giữ chữ tín… nhằm đáp ứng tối đa yêu cầu của khách
hàng về cả chất lượng cũng như số lượng sản phẩm và đem lại lợi nhuận cao cho
doanh nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể đứng vững trên thị trường
đồng thời vượt qua được các đối thủ của mình trên thị trường.
Kết quả của cạnh tranh sẽ quyết định doanh nghiệp nào tiếp tục tồn tại
và phát triển trên thị trường, doanh nghiệp nào phải phá sản giải tán ra khỏi
thị trường. Chính vì vậy mà vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp đã và đang trở thành một vấn đề vô cùng quan trọng mà bất kì doanh
nghiệp nào cũng phải hết sức quan tâm.


6

Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, đặc biệt là việc Việt
Nam ra nhập tổ chức kinh tế thế giới WTO vừa là cơ hội nhưng cũng là thách
thức lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam. Sự cạnh tranh trên thị trường của
các thành phần kinh tế ngày càng gay gắt, khốc liệt. Việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp đã trở thành vấn đề sống còn. Mở cửa thị trường,
cắt giảm thuế quan, sự xâm nhập mạnh mẽ của các doanh nghiệp nước ngoài
sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt. Hiện nay các doanh nghiệp của ta
vẫn còn đang rất yếu kém về khả năng cạnh tranh. Chính vì thế nâng cao khả
năng cạnh tranh không chỉ là vấn đề của các doanh nghiệp mà còn là vấn đề
chung cho toàn xã hội.
Lĩnh vực kinh doanh các sản phẩm thiết bị số như máy tính, điện thoại,
máy ảnh… ngày càng phát triển, nhu cầu người tiêu dung không ngừng tăng.
Hàng loạt các hệ thống siêu thị số xuất hiện trên thị trường và vấn đề quan
trọng đặt ra là làm sao để có thể cạnh tranh tồn tại, phát triển trên thị trường.

Công ty cổ phần Thế Giới Số đã được thành lập từ những năm 2006, với đặc
điểm là doanh nghiệp thương mại, công việc chủ yếu của công ty là mua vào,
bán ra nên công tác tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh là tổ chức quá
trình luân chuyển hàng hóa, vì vậy công ty không ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh. Hiện nay Công ty Cổ phần Thế Giới Số tại thị trường tỉnh Thái
Nguyên là một trong những Công ty được đánh giá cao và chiếm thị phần lớn
trên thị trường, là một công ty đầy triển vọng về lĩnh vực công nghệ thông tin.
Nhưng trong môi trường như hiện nay khi có nhiều đơn vị hoạt động trong
lĩnh vực này thì việc cạnh tranh là không tránh khỏi, có thể nói sự cạnh tranh
về lĩnh vực CNTT là rất gay gắt và khốc liệt. Công ty Thế Giới Số đã gặt hái
được rất nhiều thành công tuy nhiên hiện nay đang đứng trước cạnh tranh gay
go với các đối thủ khác. Trên thị trường Thái Nguyên hiện nay có rất nhiều
các thương hiệu kinh doanh trong lĩnh vực thương mại và công nghệ với hàng
hóa phong phú đa dạng, chiếm lĩnh nhiều phân khúc thị trường. Thị trường


7

máy tính vài năm trở lại đây gắn liền với hai hãng bán lẻ lớn là Thế Giới Di
Động và FPT có rất nhiều vị thế cạnh tranh mà trước hết là uy tín về chất
lượng sản phẩm. Hơn nữa chất lượng dịch vụ mà hai hãng này cung cấp hiện
nay có thể nói là rất tốt. Bên cạnh Thế Giới Di động và FPT thì trên thị trường
còn nổi lên một số tên tuổi kinh doanh máy tính khác có uy tín như Công ty
TNHH Kiên Hồng, Công ty viễn thông A, Công ty TNHH ISHOP, Trung tâm
bán lẻ Viettel... Mặc dù chưa lớn như Thế Giới Di Động và FPT nhưng các
công ty trên đều có địa điểm trưng bày trên các tuyến đường lớn chính. Ngoài
cạnh tranh về giá cả, chất lượng dịch vụ các công ty trên còn đưa ra nhiều
chương trình khuyến mãi hấp dẫn để thu hút khách hàng. Kể từ năm 2010 đến
nay nhóm công ty: công ty TNHH Kiên Hồng, công ty viễn thông A, Công ty
TNHH ISHOP… đã có phối hợp với nhau thực hiện các chương trình giảm

giá với quy mô ngày càng lớn và được đông đảo lượng khách hàng tham gia.
Riêng với Thế Giới số mặc dù những năm gần đây kinh tế khó khăn lượng
khách hàng cũng giảm nhưng bên cạnh đó công ty vẫn bán được một số mặt
hàng xa xỉ theo đơn của khách hàng như điện thoại vàng ròng nguyên khối,
đồng hồ làm thủ công bằng tay… Khách hàng này tuy không nhiều nhưng
cũng mang lại lợi nhuận khá lớn cho công ty. Là một doanh nghiệp trẻ còn
yếu và thiếu nhiều mặt đứng trước sức ép cạnh tranh như vậy vừa là thử thách
nhưng cũng là cơ hội để Thế Giới Số khẳng định mình có như vậy mới đảm
bảo sự nghiệp hoạt động và phát triển của công ty được bền vững, đội ngũ
nhân viên công ty được đảm bảo đời sống. Từ nhận thức trên, tôi đã chọn đề
tài luận văn "Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Thế giới
số tại thị trường tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình với
mong muốn tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của Công ty.


8

2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
Cho đến nay đã có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu về
đề tài năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
đặc biệt với 3 tác phẩm kinh điển của GS. Micheal Porter trường Đại học
Haward: “chiến lược cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh quốc
gia”, được xem như là sách gối đầu giường của quản trị kinh doanh và các
nhà hoạch định chính sách vĩ mô trên khắp thế giới trong suốt gần 30 năm
qua. Bên cạnh đó trong nước ta có hang loạt các công trình nghiên cứu liên
quan đến vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như:
Báo cáo khoa học về “nghiên cứu những giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất khẩu
nông sản trong thời gian tới: cà phê, gạo, cao su, chè, điều” (2001), của Bộ

NN&PTNT, do Tiến sỹ Nguyễn Đình Long làm chủ nhiệm đề tài, đã đưa ra
những khái niệm cơ bản về lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh, phân tích
những đặc điểm và đưa ra những chỉ tiêu về lợi thế cạnh tranh của một số mặt
hang nông sản xuất khẩu chủ yếu, bao gồm các chỉ tiêu về định tính như chất
lượng và độ an toàn trong sử dụng, quy mô và khối lượng, các chỉ tiêu định
lượng như: mức lợi thế so sánh, chi phí nguồn lực nội địa.
Bài báo “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp” Tạp chí
Cộng sản, số 21 (141)/2007 của PGS.TS Vũ Văn Phúc, bàn về nội dung nâng
cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Bài báo đưa ra các nội dung
nâng cao năng lực cạnh tranh và một số đề xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, tuy nhiên bài báo đưa ra chưa chỉ ra được các tiêu chí
đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Một số công trình nghiên cứu của Việt Nam
Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Hoàng Thị Hoan (2004) “Nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong tiến trình


9

hội nhập kinh tế quốc tế”. Luận án nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của
ngành công nghiệp điện tử Việt Nam, những giải phấp nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử, số liệu nghiên cứu của luận án từ
trước năm 2004.
Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Vũ Duy Vĩnh (2009), “Nâng cao
năng lực cạnh tranh của tổng công ty Giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế”. Luận án tập trung phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh
của Tổng công ty Giấy Việt Nam từ đó đưa ra gói giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Giấy Việt Nam.
Luận văn tiến sĩ Lê Đăng Doanh (2010), “Những nút thắt trong phát
triển năng lực cạnh tranh tại Việt Nam”. Cụ thể là những hạn chế về kết cấu

hạ tầng, điện, nguồn nhân lực, thể chế, thủ tục hành chính, cơ cấu nền kinh tế.
- Các nghiên cứu trên đều phân tích và đánh giá chi tiết sự cần thiết của
các Doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực hay quốc gia trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh. Tuy nhiên vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của một công ty ở
TP Thái nguyên, một Thành phố trẻ lại chưa được đề cập một cách chi tiết.
Một số công trình nghiên cứu của nước ngoài
- Porter, M.E (1985) “Competitive Advantage” Công trình đưa ra một
khuôn khổ giúp hiểu được các nguồn tạo nên lợi thế so sánh các công ty và
cách thức giúp nâng cao lợi thế so sánh của các công ty.
- Porter, M.E (1990) “ The Competitive Advantage of Nations”. Trong
tác phẩm được đánh giá là một trong những cuốn sách có ảnh hưởng mạnh
nhất trong một thời đại về kinh doanh và quản trị. Porter đã nhận dạng những
yếu tố căn bản tạo nên lợi thế cạnh tranh quốc gia và chỉ rõ các yếu tố kết hợp
với nhau tạo nên lợi thế cạnh tranh như thế nào.


10

Porter đã xây dựng các mô hình có khuôn mẫu và khá hữu ích có thể
ứng dụng trong phân tích về cạnh tranh nói chung và đặc biệt là năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nói riêng.
Luận văn “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Thế Giới
Số tại Thái Nguyên” là nghiên cứu mới không trùng lắp với nghiên cứu nào.
Tập trung đề xuất cho Công ty một cách cụ thể trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh thuộc lĩnh vực Công ty đang hoạt động.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Thế
Giới Số tại tỉnh Thái Nguyên, đánh giá thành công đã đạt được, hạn chế và
nguyên nhân của thực trạng từ đó chỉ ra định hướng và giải pháp nâng cao

năng lực cạnh tranh của Công ty trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên luận văn sẽ tập trung thực hiện xuyên suốt
các nhiệm vụ trọng tâm sau:
-

Hệ thống hóa lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp để làm sang tỏ
những vấn đề có tính lý luận trong việc đánh giá quá trình nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

-

Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty từ năm
2009 đến năm 2013 để tìm ra những kết quả đã đạt được, những hạn chế đang
tồn tại và nguyên nhân những hạn chế đó nhằm tạo lập cơ sở thực tiễn cho
việc định hướng và xây dựng giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong
thời gian tới.

-

Trên cơ sở lý luận, thực tiễn, đánh giá thực trạng của Công ty kết hợp với
phân tích kinh nghiệm của một số doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực


11

cạnh tranh từ đó đề ra các giải pháp khả thi nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: nâng cao năng lực canh tranh của công ty

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Nghiên cứu tại Công ty cổ phần Thế Giới Số tại thị
trường tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: nghiên cứu từ năm 2009 đến năm 2013 và đề xuất giải
pháp năng lực cạnh tranh đến năm 2020
5. Phương pháp nghiên cứu
-

Sử dụng các phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích và tổng hợp để phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ
phần Thế Giới Số tại thị trường tỉnh Thái Nguyên.

-

Phương pháp hồi cứu tài liệu: các tài liệu, số liệu thống kê được thu thập
thông qua các công trình đã được công bố, tài liệu thống kê, báo cáo đã được
công bố ở chính tại công ty
6. Cơ sở lý luận
Các nghiên cứu bước đầu ứng dụng các nội dung nền tảng của tài chính hành
vi để nhận dạng và phân tích để đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty cổ phần Thế Giới Số tại tỉnh Thái Nguyên. Cụ thể, luận văn
dựa trên cơ sở lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau với hai tiêu chí quan trọng đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là nhóm chỉ tiêu định lượng và nhóm
chỉ tiêu định tính.
7. Những đóng góp mới của đề tài
- Về lý luận: Khái quát vấn đề cơ bản về cạnh tranh trong kinh tế thị trường
và năng lực cạnh tranh để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.



12

- Về thực tiễn
 Luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện đánh giá

khách quan thực trạng năng lực cạnh tranh tại Công ty cổ phần Thế Giới Số
tại tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở phân tích các yếu tố nội, ngoại vi của doanh
nghiệp để làm cơ sở đưa ra các giải pháp thích hợp.
 Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công ty cổ phần Thế

Giới Số tại tỉnh Thái Nguyên nhằm đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và chiến lược phát triển bền vững nói
riêng của công ty trong môi trường cạnh tranh hiện nay.
 Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nâng cao năng lực

cạnh tranh tại Công ty cổ phần Thế Giới số tại tỉnh Thái Nguyên và trong
ngành cung cấp thiết bị số nói chung.
 Mở rộng thị trường phát triển Công ty tại tỉnh Thái Nguyên trước sự hội nhập

kinh tế.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục
viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Cở sở lý luận về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ
phần Thế Giới Số tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ
phần Thế Giới Số tại Thái Nguyên.



13

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Cạnh tranh của Doanh nghiệp
Thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng khá phổ biến trong xã hội chúng ta
ngày nay. Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường mà bất
cứ một chủ thể tham gia nào cũng phải đối mặt. Trong nền kinh tế thị trường,
cạnh tranh là một động lực quan trọng kích thích các hoạt động kinh doanh,
thúc đẩy sản xuất phát triển.
Theo giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin: “Cạnh tranh được hiểu
là sự đấu tranh giữa các chủ thể hành vi kinh tế nhằm giành lợi ích tối đa cho
mình”. [6 , tr75]
Cạnh tranh chỉ một chuỗi hành động thực hiện để chiếm cái mà đối thủ
cũng tìm cách chiếm ở cùng một không gian, vào cùng một thời gian trong
điều kiện và luật chơi bình đẳng như nhau.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, cạnh tranh trong kinh doanh được
hiểu là hoạt động ghanh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi
quan hệ cung – cầu. Nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường
có lợi nhất [38, tr357].
Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua giữa
những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm giành phần hơn, phần
thắng về mình” [14, tr258]
Theo Michael Porter: “Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của
cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận
trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình



14

quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ
quả có thể giảm đi”.[11, tr.98]
Cạnh tranh là một xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị
trường. Cạnh tranh là sự ghanh đua sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể
tham gia sản xuất kinh doanh với nhau nhằm dành những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất kinh doanh tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để thu đươch nhiều lợi
ích nhất cho mình. Một mặt nó đào thải các doanh nghiệp có mức chi phí cao,
sản phẩm dịch vụ kém chất lượng. Mặt khác, nó buộc các doanh nghiệp
không ngừng tìm mọi biện pháp để giảm chi phí, nâng cao giá trị sử dụng, tổ
chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm dịch vụ để tồn tại và phát triển trên thị
trường. Để có cạnh tranh phải có các điều kiện tiên quyết sau:
Phải có nhiều chủ thể cùng nhau tham gia cạnh tranh: tức là phải có
một đối tượng mà nhiều chủ thể cùng hướng đến để chiếm đoạt. Trong nền
kinh tế, với chủ thể cạnh tranh bên bán, đó là các sản phẩm tương tự có cùng
mục đích phục vụ một loại nhu cầu của khách hàng mà các chủ thể tham gia
cạnh tranh đều có thể làm ra và được người mua chấp nhận. Còn với các chủ
thể cạnh tranh bên mua là mong muốn mua được các sản phẩm theo đúng ý
của mình
Việc cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cạnh tranh cụ
thể, đó là các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân
thủ. Các ràng buộc này trong cạnh tranh kinh tế giữa các Doanh nghiệp chính
là các đặc điểm nhu cầu sản phẩm của khách hàng và các ràng buộc của luật
pháp, thông lệ kinh doanh trên thị trường. Còn giữa người mua với nhau, hoặc
giữa những người mua và người bán là các thỏa thuận được thực hiện có lợi
hơn cả đối với người mua.
Cạnh tranh có thể diễn ra trong một khoảng thời gian không cố định
hoặc ngắn (từng vụ việc) hoặc dài (trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động



15

của mỗi chủ thể tham gia cạnh tranh). Sự cạnh tranh có thể diễn ra trong
không gian hẹp (một tổ chức, một địa phương, một ngành) hoặc rộng (một
nước, giữa các nước).
Ở đâu có kinh tế thị trường thì ở đó có cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh
tồn tại cùng với sự tồn tại của kinh tế thị trường và cạnh tranh trở thành động
lực để phát triển nền sản xuất xã hội.
Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hòa nhập vào nền kinh tế thế giới,
nền kinh tế thị trường do đó mức độ cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn, cạnh tranh
không chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp trong ngành mà còn cạnh tranh với các
doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau. Cạnh tranh là tất yếu cho sự phát triển,
cạnh tranh không chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp mà còn ở các quốc gia, khu
vực với nhau. Vì vậy, để doanh nghiệp phát triển bền vững trong xu thế hội
nhập toàn cầu như hiện nay thì cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh.
• Phân loại cạnh tranh

Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh được phân ra nhiều loại
sau đây:
- Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, cạnh tranh được chia thành
+ Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng
hóa với giá trị cao nhất, còn người mua muốn mua hàng với giá trị thấp nhất.
Giá cả cuối cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữa hai bên.
+ Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cạnh
tranh trở nên gay gắt, giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua phải
chấp nhận giá cao hơn để mua được thứ mà họ cần.
+ Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm

giành dật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi
cho người mua.


16

-

Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được phân thành
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra loại hàng hóa dịch vụ.
+ Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.

-

Căn cứ vào tính chất cạnh tranh, cạnh tranh được phân thành
+ Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán
trong đó không có người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên thị trường.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh giữa những
người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau.
+ Cạnh tranh độc quyền: Trên thị trường chỉ có một hoặc một số ít
người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó, giá cả của sản phẩm hoặc dịch
vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định.

-

Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh chia cạnh tranh thành
+ Cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng pháp luật, phù hợp với
chuẩn mực xã hội và được xã hội thừa nhận.

+ Cạnh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa vào kẽ hở của luật
pháp trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án.

• Vai trò của cạnh tranh
-

Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế quốc dân
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế nâng cao năng suất lao động
xã hội. Một nền kinh tế mạnh là nền kinh tế mà các tế bào của nó là các doanh
nghiệp phát triển có khả năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên ở đây cạnh tranh phải
là cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp cạnh tranh
nhau để cùng phát triển, cùng đi lên thì mới làm cho nền kinh tế phát triển bền
vững. Còn cạnh tranh độc quyền sẽ ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế, nó
tạo ra môi trường kinh doanh không bình đẳng dẫn đến mâu thuẫn về quyền


17

lợi và lợi ích kinh tế trong xã hội, làm cho nền kinh tế không ổn định. Vì vậy,
Chính phủ cần ban hành lệnh chống độc quyền trong cạnh tranh, trong kinh
doanh để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Cạnh tranh hoàn hảo sẽ đào
thải các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Do đó buộc các doanh nghiệp
phải lựa chọn phương án kinh doanh có chi phí thấp nhất, mang lại hiệu quả
kinh tế cao nhất. Như vậy cạnh tranh tạo ra sự đổi mới mang lại sự tăng
trưởng kinh tế.
-

Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng
Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng diễn ra gay gắt
thì người được lợi nhất là khách hàng. Khi có cạnh tranh thì người tiêu dùng

không phải chịu một sức ép nào cả mà còn được hưởng những thành quả do
cạnh tranh mang lại như: Chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá bán thấp hơn, chất
lượng phục vụ cao hơn… Đồng thời khách hàng cũng tác động trở lại đối với
cạnh tranh bằng những yêu cầu về chất lượng hàng hóa, về giá cả, về chất
lượng phục vụ… Khi đòi hỏi của người tiêu dùng càng cao làm cho cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt hơn, để dành được nhiều
khách hàng hơn. Vì vậy, ngày nay cạnh tranh đã trở thành thứ thiết yếu đối
với người tiêu dùng.

-

Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh là điều bất khả kháng đối với mỗi doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Cạnh tranh có thể được coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà
các doanh nghiệp không thể tránh khỏi mà phải tìm mọi cách vươn lên để
chiếm ưu thế và chiến thắng. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn tìm cách
nâng cao sản phẩm, dịch vụ, thay đổi kiểu dáng mẫu mã đáp ứng nhu cầu của
khách hàng. Cạnh tranh khuyến khích các Doanh nghiệp áp dụng các công
nghệ mới, hiện đại, tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu


18

quả các nguồn lực của mình để giảm giá thành, nâng cao chất lượng, cải tiến
mẫu mã, tạo ra các sản phẩm mới khác biệt có sức cạnh tranh cao.
Cạnh tranh khốc liệt sẽ làm cho doanh nghiệp thể hiện được khả năng
“bản lĩnh” của mình trong quá trình kinh doanh. Nó làm cho doanh nghiệp càng
vững mạnh và phát triển hơn nếu nó chịu được áp lực cạnh tranh trên thị trường.
Chính sự tồn tại khách quan và sự ảnh hưởng của cạnh tranh đối với nền kinh
tế nói chung và đến từng doanh nghiệp nói riêng nên việc nâng cao khả năng

cạnh tranh của doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh
tế thị trường.
Cạnh tranh là quy luật khách quan của kinh tế thị trường, mà phát triển
kinh tế thị trường chính là phát triển kinh tế TBCN. Kinh tế thị trường là sự
phát triển tất yếu và Việt Nam đang xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hương XHCN có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, lấy
thành phần kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Dừ ở bất kỳ thành phần kinh tế nào
thì các doanh nghiệp cũng phải vận hành theo quy luật khách quan của nền
kinh tế thị trường. Nếu doanh nghiệp nằm ngoài quy luật vận động đó thì tất
yếu sẽ bị loại bỏ, không thể tồn tại. Chính vì vậy, chấp nhận cạnh tranh là tìm
cách để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình chính là doanh nghiệp đang
tìm con đường sống cho mình.
Tóm lại, cạnh tranh là động lực phát triển của nền kinh tế, cạnh tranh
giúp cho hệ thống doanh nghiệp nói chung và của từng doanh nghiệp Việt
Nam nói riêng ngày càng phát triển, bên cạnh đó cạnh tranh là công cụ hữu
hiệu của Nhà nước để điều tiết các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế.
1.1.2 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh là một khái niệm rất tương đối. Có rất nhiều quan
điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh và mỗi quan điểm đều đúng trong một
góc độ nào đó


19

Theo Nguyễn Hữu Thắng trong tác phẩm Nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp hội nhập: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo
bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận cho doanh nghiệp
trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước”. [29, tr.28]
TheoMicheal E. Porter: “Năng lực cạnh tranh là khả năng sáng tạo sản
phẩm có quy trình công nghệ độc đáo để tạo ra giá trị tăng cap phù hợp với nhu

cầu khách hàng, chi phí thấp, năng suất cao nhằm tăng lợi nhuận”. [18, tr.16-17]
Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp là sự thể hiện thực lực và lợi thế
của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt các đòi
hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với đối
thủ cạnh tranh trên thị trường.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được tạo ra từ thực lực và lợi thế
của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không
chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức
quản trị doanh nghiệp một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các
đối thủ cạnh tranh cùng hoạt động trong một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ
là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được
đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng đối với các đối
thủ cạnh tranh. Trên cơ sở so sánh, muốn tạo lợi thế cạnh tranh đòi hỏi doanh
nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với các đối thủ của mình, nhờ những
lợi thế riêng có doanh nghiệp có thể thỏa mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách
hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ
được nhanh trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó treenn thị
trường. Hay nói một cách khác năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo
bằng thị phần của sản phẩm đó; Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc


20

vào chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp, chất lượng dịch vụ đi kèm, uy tín
người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán….
• Các cấp độ năng lực cạnh tranh

- Năng lực cạnh tranh quốc gia
Cạnh tranh đối với các quốc gia thể hiện trình độ sản xuất hàng hóa

dịch vụ đáp ứng đòi hỏi của thị trường Quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng
thu nhập thực tế của nhân dân trong điều kiện thị trường tự do công bằng
cạnh tranh giúp quốc gia tạo được nhiều việc làm hơn, người dân có thu nhập
cao hơn. Khả năng cạnh tranh quốc gia phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp hoạt động ở quốc gia đó.
- Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết là khả năng duy trì và
mở rộng thị phần, nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp ở cả thị trường trong
nước và nước ngoài. Nó đề cập tới tổng thể hoạt động của doanh nghiệp trên
các lĩnh vực nhằm cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho thị trường.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là khả năng tồn tại
phát triển mà không cần có sự hỗ trợ của nhà nước. Nó còn được hiểu là năng
lực tìm kiếm lợi nhuận, duy trì thị phần thị trường trong và ngoài nước.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền với khả năng cạnh
tranh của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất. Khả năng cạnh tranh của sản
phẩm được xá định bởi thị phần của sản phẩm trên thị trường. Việc tăng hay
giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm không nhất thiết có tác động đồng
hướng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nguyên nhân là do doanh
nghiệp có thể sản xuất nhiều loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau với mức độ
cạnh tranh khác nhau trên thị trường. Tuy nhiên trên cùng một thị trường khả
năng cạnh tranh của sản phẩm và của doanh nghiệp thường gắn liền với nhau.


21

Người ta thường gắn khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp với một hoặc
một vài sản phẩm nhất định của doanh nghiệp.
- Năng lực cạnh tranh sản phẩm
Một sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được coi là có năng lực cạnh tranh khi
nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá, tính năng, kiểu

dáng độc đáo và sự khác biệt, thương hiệu, bao bì hơn hẳn sản phẩm hàng hóa
cùng loại.
Vậy, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng cạnh tranh sản
phẩm của các doanh nghiệp trong cùng một ngành với nhau. Sản phẩm nào có
những ưu thế vượt trội như đặc tính, giá cả, thương hiệu, chất lượng thì sẽ có
sức hấp dẫn hơn đối với những sản phẩm khác.
Do đó vấn đề cạnh tranh sản phẩm buộc các nhà sản xuất phải làm sao
để sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng tốt bằng chi phí rẻ nhất với thời
gian giao hàng sớm nhất. Việc cạnh tranh sản phẩm giữa các doanh nghiệp có
ảnh hưởng trự tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vì vậy các
doanh nghiệp không ngừng tìm mọi cách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
sản phẩm so với các sản phẩm của đối thủ trên thị trường nhằm khai thác và
mở rộng thị phần ngày một lớn hơn có như vậy doanh nghiệp sẽ nâng cao vị
thế, bên cạnh đó gây sức ép rất lớn đối với các đối thủ trong ngành.
Khả năng cạnh tranh ba cấp độ trên có mối quan hệ qua lại mật thiết
gắn bó với nhau. Một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh cao phải có nhiều
doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, đồng thời để nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp thì môi trường kinh doanh phải thuận lợi, các chính
sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, minh bạch, công bằng, bộ máy nhà nước phải
trong sạch, hoạt động hiệu quả. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ
sở cho cạnh tranh quốc gia.
• Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh


22

Hiện nay để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp người ta
thường sử dụng một số chỉ tiêu sau:
-


Nhóm chỉ tiêu định lượng

+ Thị phần doanh nghiệp trên thị trường: Thị phần phản ánh thế mạnh
của doanh nghiệp trong ngành, là chỉ tiêu được doanh nghiệp hay dùng để
đánh giá mức độ chiếm lĩnh thị trường của mình so với đối thủ cạnh tranh.
Thị phần lớn sẽ tạo lợi thế cho doanh nghiệp chi phối và hạ thấp chi phí sản
xuất do lợi thế về quy mô. Thị phần của doanh nghiệp trong một thời kỳ là tỷ
lệ phần trăm thị trường mà doanh nghiệp đã chiếm lĩnh được trong các thời kỳ
đó. Có các loại thị phần sau:
Thị phần tuyệt đối: Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng
hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh
nghiệp này đối với tổng doanh thu của tất cả doanh nghiệp kinh doanh loại
hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa
doanh số mua vào của doanh nghiệp này đối với tổng doanh số mua vào của
tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường
liên quan theo tháng, quý, năm.
Thị phần tương đối: Là tỷ lệ so sánh về doanh thu của công ty so với
đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của công ty trong cạnh tranh
trên thị trường như thế nào. Chỉ tiêu này đơn giản, dễ tính, song kết quả tính
toán chưa thực sự chính xác do khó lựa chọn được đối thụ cạnh tranh mạnh
nhất, đặc biệt kinh doanh trên nhiều lĩnh vực.
+ Chỉ tiêu lợi nhuận: Chỉ tiêu này được thể hiện qua một số yếu tố sau
như: giá trị tổng sản lượng sản xuất, lợi nhuận ròng, tỷ xuất lợi nhuận/ tổng
sản lượng sản xuất.


23

Đây là một trong các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất của doanh
nghiệp. Nếu các chỉ tiêu này càng cao phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh

cành cao và do đó tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
+ Năng suất lao động: Năng suất lao động là chỉ tiêu tổng hợp của
nhiều yếu tố như: con người, công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức phối
hợp… Do vậy nó là tiêu chí rất quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Năng suất lao động được đo bằng sản lượng sản phẩm đảm
bảo chất lượng trên một đơn vị số lượng lao động làm ra sản phẩm đó. Năng
suất lao động của doanh nghiệp càng cao bao nhiêu thì năng lực cạnh tranh
càng cao bấy nhiêu so với các doanh nghiệp cùng lĩnh vực.
- Nhóm chỉ tiêu định tính
+ Uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp: Đây là chỉ tiêu có tính chất rất
khái quát, nó bao gồm nhiều yếu tố như: chất lượng sản phẩm, các hoạt động
dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp, hoạt động Marketing, quan hệ của doanh
nghiệp với các tổ chức tài chính, mức độ ảnh hưởng của doanh nghiệp… Đó
là tài sản vô hình, vô giá mà doanh nghiệp nào cũng coi trọng, nếu mất uy tín
thì doanh nghiệp sẽ không có khả năng cạnh tranh trên thương trường. Có uy
tín doanh nghiệp có thể huy động được nhiều nguồn lực như: vốn, nguyên vật
liệu, và đặc biệt là sự an tâm, gắn bó của người lao động với doanh nghiệp
hay sự ủng hộ chính quyền địa phương với công ty.
+ Kinh nghiệm hoạt động của doanh nghiệp: Một công ty có bề dày kinh
nghiệm hoạt động cũng được đánh giá cao về năng lực cạnh tranh. Kinh
nghiệm lâu năm sẽ giúp công ty nâng cao chất lượng sản phẩm, có thể nắm bắt
và xử lý nhiều tình huống phức tạp với chi phí và thời gian thấp nhất. Đây cũng
chính là một lợi thế của doang nghiệp trong cuộc chạy đua với các đối thủ.


24

Những tiêu chí trên là cơ sở để đánh giá năng lực cạnh trạm của doanh
nghiệp. Và cũng là những tiêu chí để doanh nghiệp dựa vào nhằm hoàn thiện
hơn về sản phẩm, chất lượng, dịch vụ nhằm nâng cao năng lực hoạt động.

1.1.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Nâng cao năng lực cạnh tranh là sự cần thiết tất yếu của mỗi doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Thực tế cho thấy không có một doanh
nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách
hàng, thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này nhưng lại có hạn chế về
mặt khác. Song doanh nghiệp phải nhận biết được ưu, nhược điểm và cố gắng
phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những
yêu cầu, đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu của doanh
nghiệp thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu như: Marketing, tài chính,
sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin…
Hiện nay hầu hết các nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc xác định các khái
niệm như cạnh tranh và năng lực cạnh tranh từ đó áp dụng cho việc nâng cao
năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, ngành và quốc gia chứ chưa đưa ra
một khái niệm mang tính chất chuẩn mực về nâng cao năng lực cạnh tranh.
Từ quá trình nghiên cứu, tổng hợp của một số nhận định khác nhau, tác
giả xin đưa ra khái niệm này như sau:
Nâng cao năng lực cạnh tranh là quá trình mà các doanh nghiệp, ngành,
quốc gia sử dụng các lợi thế cạnh tranh sẵn có để tạo ra được lợi thế cạnh
tranh vượt trội so với các đối thủ trên thị trường. Tiến tới việc áp đảo và
chiếm lĩnh trên thị trườngngày một tốt hơn.
Nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề sống còn đối với các doanh
nghiệp trong điều kiện hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho áp lực
cạnh tranh tăng lên rất lớn. Các doanh nghiệp phải cạnh tranh với các hàng
hóa từ bên ngoài, với các nhà đầu tư từ bên ngoài trên thị trường nội địa và thị


25

trường quốc tế. Trong bối cảnh đó nếu năng lực cạnh tranh thấp doanh nghiệp
đó sẽ bị thôn tính, có thể dẫn tới sát nhập thậm chí là phá sản.

Do đó nâng cao năng lực cạnh tranh là vô cùng cần thiết ở mọi thời
điểm và mọi doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao
năng lực cạnh tranh có như vậy mới có thể duy trì sự ổn định từ đó tạo lập
cho sự phát triển bền vững trong những giai đoạn tiếp theo.
1.2. Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm


Chất lượng sản phẩm
Là yếu tố đặt lên hàng đầu của đại bộ phận người tiêu dùng khi chịn lựa
sản phẩm. Do vậy, doanh nghiệp nào đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng
một cách tối đa thì sẽ dành được thị phần cao hơn. Chất lượng sản phẩm là
tổng hợp các đặc tính cần có của sản phẩm bao gồm cả tính kỹ thuật, tính mỹ
thuật, tính kinh tế, độ tin cậy và an toàn. Đây là công cụ cạnh tranh hữu hiệu
của mọi doanh nghiệp và vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm là tất yếu
khách quan cho bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường, vì
ngoài việc đạt được mục tiêu lợi nhuận thì sản phẩm chất lượng cao còn giúp
doanh nghiệp đạt được nhiều mục tiêu khác như uy tín, thương hiệu…
Chúng ta thấy rằng mỗi doanh nghiệp đều có ưu thế khác nhau về sản
phẩm, sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua chất lượng sản phẩm.
Chất lượng là yếu tố quan trọng nhất mà người tiêu dùng sẽ quyết định nên
lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp nào. Để có thể cạnh tranh được về chất
lượng sản phẩm bắt buộc các doanh nghiệp phải đầu tư nghiên cứu, tạo ra sự
khác biệt thông qua sản phẩm. Sản phẩm muốn cạnh tranh được phải có
những nét đặc sắc riêng điều này cũng ảnh hưởng tới vị trí sản phẩm trên thị
trường. Đảm bảo chất lượng sản phẩm luôn là phương châm kinh doanh đồng
thời là vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả của rất nhiều doanh nghiệp trong và



×