Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TỪ NGHIÊN cứu VÙNG KINH tế TRỌNG điểm PHÍA NAM đề XUẤT một số ý KIẾN về tổ CHỨC LÃNH THỔ đối TƯỢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.61 KB, 12 trang )

TỪ NGHIÊN CỨU VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ - ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU CỦA ĐỊA LÝ KINH TẾ – XÃ HỘI
Đặng Văn Phan∗
I.

Lý luận phân vùng kinh tế Việt Nam – khủng hoảng và phát triển:

Những năm cuối thế kỷ XX, nhất là sau khi Liên Xô tan rã, người ta ít nói tới phân
vùng kinh tế (PVKT), mà nói nhiều tới tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội
(TCLTKTXH). Phải chăng PVKT đã lỗi thời, không còn giá trị thực tiễn? Để trả
lời cần đi sâu vào cặp khái niệm khủng hoảng và phát triển. Về lý thuyết, có thể
khủng hoảng dẫn tới sụp đổ, thậm chí tiêu vong, cũng có thể chỉ là sự khủng hoảng
để mở đường phát triển sau đó. Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai, PVKT trong
khủng hoảng vì sự phát triển. PVKT Việt Nam đang trong thời kỳ khủng hoảng và
tìm ra đúng hướng phát triển.
Đã là người nghiên cứu địa lý kinh tế – xã hội chuyên nghiệp, ai cũng phải biết lý
luận PVKT có cội nguồn từ tác phẩm nổi tiếng của V.I. Lênin “ Sự phát triển chủ
nghĩa tư bản ở Nga”. Bằng phương pháp tiếp cận vùng, Lênin đã tìm thấy sự phát
triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản ở Nga. Lênin đã đặt nền móng vững
chắc về mặt lý luận cho cách tiếp cận vùng, nghiên cứu trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, chuyên môn hóa, trình độ thâm canh v.v… các lý thuyết này sau đó
đã trở thành cơ sở lý luận phân vùng kinh tế (PVKT) và các nhà địa lý Xô viết coi
đây là cuốn sách gối đầu giường cho mọi người suy ngẫm vào hoạt động thực tiễn
của mình. Cơ sở của PVKT các nước XHCN đều dựa vào các lý luận Mác – Lênin
về phân công lao động theo lãnh thổ. Công tác PVKT của Việt Nam chủ yếu dựa
trên lý thuyết PVKT của các nhà địa lý Xô viết và đã gặt hái nhiều kết quả. Các nhà
địa lý Việt Nam đã nghiên cứu, tìm hiểu và thể nghiệm trong thực tiễn nước nhà tư
tưởng PVKT trong các sơ đồ tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội, mà đỉnh cao của nó là
sơ đồ 4 vùng kinh tế lớn trong tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất
1985 – 2000/2005. Đi xa hơn, các nhà địa lý đưa sơ đồ phân vùng vào chương trình


địa lý phổ thông lớp 9, lớp 12, đưa công tác nghiên cứu, đào sâu và làm phong phú
lý luận PVKT trong các trường đại học.



Về thực chất mọi thành tựu lý thuyết và thực tiễn PVKT nói trên là hình bóng của
mô hình cũ của CNXH. Mô hình này sụp đổ cùng với sự tan rã của Liên Xô. Hơn
10 năm qua 1991 – 2002, chúng ta chứng kiến sự khủng hoảng, có phần tệ hại,
nhiều phần bi kịch. Liên Xô không còn nữa, cũng tiêu tan mọi sơ đồ vùng kinh tế
và địa lý kinh tế Xô viết. Thay lốt Liên Xô là SNG – Liên minh các quốc gia độc
lập, không còn kinh tế kế hoạch, thay vào đó là khái niệm mơ hồ, một nền kinh tế
PGS.TS. Phân viện Nghiên cứu kinh tế miền Nam


thị trường định hướng xã hội?... Sự khủng hoảng này có thể coi là gì nếu không nói
là sự tiêu vong chứ không phải phát triển vì chính sự tiêu vong một mô hình vùng
kinh tế kiểu cũ, nếu không có thể gọi là kiểu Liên Xô cũ. Nó vĩnh viễn đi vào lịch
sử như một dấu ấn đậm nét đáng buồn của thế kỷ XX.
Trong bối cảnh nói trên, sau khi “thấm sâu” lý luận và thực tiễn PVKT, lý luận
PVKT nước ta cũng không tránh khỏi khủng hoảng, nếu có thể nói là ở mức độ
không nhẹ. Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất 1985 -2000/2005
không thực hiện được. Có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng hàng đầu là các
tiên đề lý thuyết cũ không có chỗ đứng vì không còn nữa kế hoạch hóa tập trung
quan liêu bao cấp. Nước ta đi vào đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, tạo
lập một nền kinh tế hàng hóa thị trường, định hướng XHCN. Sự nghiệp đổi mới
thành công. Nước ta vượt qua khủng hoảng và đi vào CNH, HĐH như một bước
phát triển có tầm mệnh hệ đối với đất nước, và hơn thế, không phá đi thành tựu
CNXH, trái lại làm nó sinh động hơn. Thực tiễn sống động này là cứu cánh cho địa
lý kinh tế – xã hội nước nhà, trong đó có lý luận PVKT, tuy có khủng hoảng nhưng
không sụp đổ mà khủng hoảng vì sự phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam đặt cơ sở

vững chắc hoạt động của Đảng, của dân tộc theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Điều này đồng nghĩa và tô đậm hơn nữa giá trị lý luận và thực
tiễn PVKT.
Đến đây, xét trên quan điểm lý thuyết thì hơn 10 năm qua lý luận PVKT Việt Nam
khủng hoảng trong sự phát triển. Chúng tôi cho rằng, càng phát triển bao nhiêu
càng sáng ngời các hạt nhân hợp lý của lý luận, cách tiếp cận vùng của V.I. Lênin
bấy nhiêu. Có không ít người, choáng ngợp trước những thông tin, những lý thuyết
ào vào từ khi đất nước mở cửa, kinh tế đất nước chuyển sang kinh tế thị trường đã
mau chóng quên, hoặc không biết những nguyên lý cơ bản của lý luận Mác – Lênin
về phân công lao động theo lãnh thổ. Bây giờ nói cái gì người ta cũng đầu dẫn là
người phương Tây làm thế này, thế nọ. Có hàng vài chục loại, chục kiểu vùng được
đề ra mà cơ sở lý luận chỉ là “ kinh tế thị trường” một cách chung chung! Có các lý
luận vùng ra đời do tiêu chí của mỗi người đặt ra, chứ không phải vùng tồn tại
khách quan v.v…
Trong thời gian qua, trên diễn đàn địa lý và kinh tế nước nhà một số nhà khoa học
nói nhiều tới tổ chức lãnh thổ đất nước, và để làm điều này người ta viện đến quan
niệm tổ chức lãnh thổ từ bên ngoài thông qua luồng gió mở cửa, cứ như là mới mẻ,
còn PVKT thì đã cũ, đã lỗi thời. Thực ra PVKT chính là công cụ tư duy để tạo nên
các cấu thành lãnh thổ cho một nhà nước kiểu mới. Kế hoạch GOELRO dựa trên tư
tưởng phân vùng nước Nga thành các đơn vị lãnh thổ có 2 yếu tố mạnh là công
nghiệp và giai cấp công nhân, tức là 2 yếu tố chủ yếu về kinh tế và xã hội. Tổ chức
lãnh thổ vùng dựa trên học thuyết dây chuyền động lực sản xuất ( EPS do nhà địa
lý Liên Xô N.N. Koloxovxki đề xuất). Nhờ học thuyết này người ta phát triển học


thuyết băng chuyền sản xuất nông nghiệp, xét về bản chất là nông nghiệp sinh thái.
Như vậy PVKT chính là phần cốt lõi trong việc TCLTKTXH của Liên Xô.
Việc Liên Xô sụp đổ chắc không phải lỗi do học thuyết PVKT gây ra, mặc dù sự
sụp đổ đó dẫn tới sự tiêu vong cơ sở thực tiễn, và do đó PVKT Liên Xô không còn
lý do tồn tại.

Thế còn nước ta, CNXH được Đảng và nhân dân ta làm phong phú và sống động,
và nhờ đó, mảnh đất cũ được dọn đi, một mảnh đất mới được tạo ra cho lý luận và
thực tiễn PVKT. Khủng hoảng đi qua và phát triển đã đến. Chỉ có điều là phải nhận
dạng mới PVKT trong điều kiện cụ thể của nước nhà.
Sau nhiều năm nghiên cứu địa lý kinh tế – xã hội, chúng tôi rút ra một vài suy nghĩ
đối với PVKT ở nước ta như sau (xem Đặng Văn Phan, Vũ Như Vân – Lý luận
PVKT Việt Nam, khủng hoảng và phát triển).
- Lý luận PVKT ở Việt Nam đã vượt qua được sự khủng hoảng có liên
quan ít nhiều tới sự đổ vỡ của Liên Xô và mô hình XHCN kiểu cũ. Tính chất khủng
hoảng phát triển đã mở đường cho chúng ta đổi mới tư duy, trong đó có tư duy lý
luận về PVKT.
- Lý luận PVKT ở Việt Nam, bên cạnh tính phổ biến của nó, thì tính đặc
thù có tầm quan trọng hàng đầu là PVKT trong điều kiện một nước đang phát triển
ở trình độ thấp. Do đó PVKT thường mang tính công cụ nhận thức, linh hoạt, đa
mục tiêu; và có thể nói là đa kịch bản thường phải theo sát sự phát triển để “điều
tiết” cho phù hợp.
- Lý luận PVKT trong điều kiện của Việt Nam cần được làm phong phú
trên hai quan điểm mới: Kinh tế tri thức; Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Hai quan điểm này bổ sung làm tăng sức mạnh của nhau làm cơ sở để lý luận
PVKT phát triển vì mục đích tổ chức không gian phát triển, phù hợp với xu thế
chung của thời đại.
- PVKT có quan hệ mật thiết với tổ chức lãnh thổ kinh tế – xã hội thống
nhất của đất nước. Do vậy PVKT phải tính tới sự thống nhất lãnh thổ / lãnh hải
(vùng trời/ vùng đất/ vùng nước thuộc chủ quyền), tính tới các quan hệ không gian
tiểu vùng Mêkông, lợi ích Việt Nam – Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á.
II. Nghiên cứu Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam – Một số suy nghĩ về
các nhân tố tác động đến phát triển vùng:
II.1 Những vấn đề tồn tại của vùng:



Sau khi thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước đã tập trung nhiều công sức, trí tuệ
nghiên cứu vùng Đông Nam Bộ từ điều tra cơ bản đến quy hoạch lãnh thổ. Công
tác tổ chức lãnh thổ, quy hoạch Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (VKTTĐPN) đã
được Nhà nước tiến hành từ những thập niên 80 – 90 của thế kỉ qua. Năm 1998 Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 44/1998/QĐ – TTg về việc phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn đến 2010. Trong quá trình thực
hiện Quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội VKTTĐPN đã có nhiều vướng mắc tồn
tại, trong đó có vấn đề sau:
Vấn đề nổi cộm nhất trong thời gian vừa qua là thiếu một cơ chế quản lý có hiệu
quả để điều phối sự phát triển của vùng không bị ràng buộc và chia cắt theo địa
giới hành chính. Nhiều quy hoạch chi tiết chưa tuân thủ quy trình để đảm bảo sự ăn
khớp với quy hoạch chung của vùng, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ quản
lý, các ngành và các địa phương trong vùng. Các kế hoạch phát triển kinh tế không
bám sát và phản ánh được các nội dung quy hoạch đã được Nhà nước phê duyệt.
Nguyên nhân sâu xa của tình hình này có thể có nhiều nhưng trước hết là do còn có
những vướng mắc trong quan điểm tư tưởng về vai trò và bước đi của VKTTĐ.
Vẫn còn đâu đó ảnh hưởng của chủ nghĩa bình quân, thiếu sự tập trung các nỗ lực
từ trên xuống dưới và sự phối hợp giữa các địa phương trong vùng.
Các nghị quyết và chủ trương để phát triển vùng chậm được triển khai, gặp khó
khăn do bị chia cắt theo địa giới hành chính, mà chưa phát huy hết lợi thế của
VKTTĐPN như một không gian kinh tế thống nhất. Những định hướng và mục
tiêu của vùng đề ra trong quy hoạch tổng thể chưa được tập trung chỉ đạo thống
nhất, thiếu sự phân công phối hợp và xử lý tổng hợp trên quy mô toàn vùng. Mục
tiêu và định hướng phát triển của các tỉnh trong vùng tương tự nhau, chưa thấy rõ
sự phân công theo chức năng và lợi thế so sánh của từng tỉnh.
Cũng đã đến lúc phải có bộ luật về kế hoạch hóa (như nhiều nước đang phát triển
kinh tế thị trường) để xác định khuôn khổ pháp luật với những định chế và chế tài
cần thiết liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm và trình tự pháp lý của việc lập quy
hoạch và kế hoạch, thực thi, giám sát và điều chỉnh kế hoạch ở các cấp quản lý từ
Trung ương đến vùng và các địa phương. Trong chỉ thị 32/1998/CT – TTg của Thủ

tướng chính phủ đã xác định kế hoạch hóa ứng dụng ở Việt Nam hiện nay gồm các
giai đoạn: chiến lược kinh tế xã hội – quy hoạch (tổ chức lãnh thổ) – kế hoạch. Qua
thực tiễn có nhiều điều phải được xác định lại cho chính xác. Phải xác định lại cả
nội dung, bước đi của 3 giai đoạn này. Sẽ rất khó khăn để cho ra đời luật kế hoạch,
thậm chí pháp lệnh kế hoạch hóa vì rất nhiều lý do khách quan của một nền kinh tế
đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN trong giai đoạn hiện
nay. Song nếu có luật này thì mới bảo đảm cho sự phát triển vùng bền vững. Đây là
một yếu tố quan trọng tác động đến sự phát triển và định hướng phát triển từ vùng


kinh tế lớn đến vùng kinh tế ngành, đến vùng kinh tế phát triển theo các trình độ
khác nhau.
Tồn tại trên có liên quan đến những quan điểm lý luận và phương pháp luận nghiên
cứu phát triển vùng ở nước ta trong giai đoạn chuyển từ kinh tế tập trung, bao cấp
sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng như ở các nước XHCN trước đây đều thực hiện
việc phân vùng kinh tế và nghiên cứu phát triển vùng, nhưng đi theo hướng lý
thuyết căn bản khác nhau.
Việc phân vùng và kế hoạch hóa vùng ở các nước XHCN dựa trên quan điểm
“Phân công lao động theo lãnh thổ”. Các nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ theo một kế
hoạch căn bản mang tính pháp lệnh do Nhà nước trung ương đề ra để các vùng và
các địa phương thực hiện. Hoạt động kinh tế của các vùng tuy cũng dựa vào lợi thế
so sánh về điều kiện tự nhiên (như tài nguyên) và điều kiện kỹ thuật (như các
ngành nghề truyền thống), nhưng tất cả đều được quy chiếu vào nguyên tắc bao cấp
từ đầu vào đến đầu ra. Yếu tố thị trường đóng vai trò rất thứ yếu, trong nhiều
trường hợp hầu như không được chú ý.
PVKT ở nước ta vừa qua được coi là phân vùng kinh tế tài nguyên. Lâu nay ta
thường bỏ qua một câu hỏi đó là phân vùng một nền kinh tế gì? Về trình độ phát
triển, từ đầu thế kỷ XX là sự thống trị của sự phân phối tài nguyên; tương ứng với
nó là lý thuyết kinh tế và thực tiễn của sự phân phối này. Về tính chất, đó là sự

phân phối các nguồn tài nguyên hạn chế, về nguyên tắc, đó là sự tiết kiệm, và về
không gian đó là sự giới hạn lãnh thổ bởi vì mọi tài nguyên đều có một lãnh thổ
tương ứng. Lãnh thổ này được xác định bởi các địa giới tự nhiên và hành chính –
kinh tế. Người ta phân vùng, về thực chất là phân chia, sắp xếp nền kinh tế đất
nước như cách chơi cờ trong một bàn cờ. Vấn đề chỉ là cách chơi theo một hay hơn
một luật chơi, trong một sân chơi nhất định.
Nền kinh tế tài nguyên, xét về bản chất, là sự tiết kiệm trong một cuộc chơi bị giới
hạn về trong các nguồn lực và trong lãnh thổ. Và như vậy PVKT cũng chỉ là một
hành động kinh tế có giới hạn.
Trong khi đó, việc phân vùng và kế hoạch hóa vùng ở các nền kinh tế tư bản lại chủ
yếu dựa trên quan điểm “Thị trường tự do” với quy luật cạnh tranh đóng vai trò nền
tảng. Cạnh tranh là tất yếu và cần thiết chẳng những giữa các doanh nghiệp trong
sản xuất kinh doanh mà còn giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng với
nhau, giữa các quốc gia… Chính vì sự cạnh tranh đó mà cần thiết phải có kế hoạch
hóa. Nhưng kế hoạch này không mang tính pháp lệnh mà mang tính hướng dẫn, kế
hoạch đó không thực hiện bằng công cụ hành chính mà bằng các công cụ kinh tế,


Nhà nước trung ương không bao cấp đầu vào và đầu ra cho các địa phương. Các
vùng phải phát huy lợi thế của mình. Lợi thế so sánh này được quy chiếu theo quy
luật cung cầu của thị trường, tức là theo khả năng cạnh tranh trên thị trường chứ
không chỉ là những khả năng tiềm tàng thuần túy dựa vào điều kiện tự nhiên hay kỹ
năng truyền thống.
Những nguyên tắc, lý luận và phương pháp luận trên đây ảnh hưởng rất lớn đến
công tác phân vùng và phát triển vùng. Ở Việt Nam, đã một thời kỳ chúng ta đi
theo hệ quan điểm thứ nhất với tổ chức và hoạt động của Ủy ban PVKT Trung
ương là đầu mối của mọi nghiên cứu và quy hoạch vùng. Chỉ trong những năm gần
đây, chúng ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, và trong bước quá độ này,
ảnh hưởng của các quan điểm tập trung, quan liêu, bao cấp vẫn còn đáng kể.
Việc xác định 3 vùng kinh tế trọng điểm trên cả nước có thể là một thử nghiệm đầu

tiên áp dụng quy luật thị trường trong phân vùng và phát triển vùng. Trong đó,
VKTTĐPN vốn trước đây đã có kinh tế thị trường mạnh nhất cả nước, nay được
chú trọng nghiên cứu và quy hoạch để từ đó có thể rút ra những bài học kinh
nghiệm cho việc phân vùng và nghiên cứu phát triển vùng ở nước ta.
Từ thực tế phát triển của VKTTĐPN, chúng ta đã thấy xuất hiện một số vấn đề lý
luận và phương pháp luận cần được làm sáng tỏ để có cơ sở khoa học cho các quyết
định về chính sách và cơ chế sau này. Ví dụ vài nội dung sau đây:
Khái niệm phát triển vùng sẽ là tiêu điểm của các phán đoán, đánh giá về hiện trạng
và suy xét về chính sách. Khái niệm vùng kinh tế là thông dụng ở nhiều quốc gia.
Nền kinh tế không tự nó vẽ một đường biên rõ ràng như đường biên của các đơn vị
hành chính. Vì thế, tuy có gắn với lãnh thổ hành chính của các địa phương, vùng
kinh tế chỉ nhắm vào các liên hệ kinh tế giữa các địa phương có thể tạo ra lực tương
hỗ cho sự phát triển. Do đó, khái niệm phát triển vùng được đặt ra nhằm khai thác
tối đa các tác động tương hỗ ấy. Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng chúng ta chưa
có thực thể vùng, địa phương nào làm theo địa phương đó và làm theo sự chia cắt
hành chính. Lý do có thể nằm ở tổng thể nền kinh tế và bộ máy quản lý Nhà nước
của chúng ta chưa có sự tách bạch hành chính và kinh tế. Từ trung ương đến các
địa phương, cơ cấu quyền lực hành chính với các tầng nấc của nó vẫn trùm lên đời
sống kinh tế. Do đó, các tương tác kinh tế không tự nó hoạt động một cách tích cực
được, không tự nó phát huy tác dụng mà phải đi qua “rào cản” của hành chính mà
ta quen gọi là cơ chế “xin - cho”.
Dù với bất cứ lý do nào thì khái niệm kinh tế phát triển vùng, từ căn bản lý luận,
đang cần có những giải pháp khoa học để có thể hướng dẫn những suy nghĩ và
hành động của các cấp ngành từ TW đến địa phương.


Trong nền kinh tế thị trường, sự phát triển kinh tế ở bất cứ phạm vi nào, kể cả ở cấp
vùng cũng đều phải dựa trên quy luật cạnh tranh. Chỉ có cạnh tranh mới phát hiện
được lợi thế so sánh, mới phát huy được sáng kiến, mới loại trừ được sự trì trệ rất
dễ trở thành căn bệnh của bất cứ guồng máy hành chính nào.

Các địa phương, các cộng đồng cạnh tranh ít nhất vì hai lợi ích thiết thực cho họ.
Một là, tăng thêm việc làm, giảm thất nghiệp do thu hút được nhiều nhà đầu tư. Hai
là, tăng thêm được các nguồn thu từ thuế doanh thu của các doanh nghiệp trên địa
bàn của họ.
Ở nước ta, cụ thể là ở VKTTĐPN, thực tế cũng đã xuất hiện sự cạnh tranh đó của
các địa phương. Các địa phương trước sau cũng làm việc “tiếp thị”, tức là “khuyến
mãi chính mình”. Bà Rịa – Vũng Tàu đã nêu phương châm “đổi đất lấy hạ tầng”,
Bình Dương thì “trải thảm đỏ đón các nhà đầu tư”, Đồng Nai đã liên tục cải thiện
quy trình cấp phép đầu tư và giảm giá cho thuê đất. Trong cạnh tranh tất nhiên có
mặt tích cực và không ít tiêu cực, ví dụ sự “lạm phát” các khu công nghiệp.
Ở VKTTĐPN hiện nay, công tác kế hoạch hóa mới chỉ dừng lại ở các bản quy
hoạch tổng thể (QHTT) vùng và các bản QHTT của các địa phương. Nó mới chỉ
dừng lại ở các văn bản mà chưa có một thể chế hoạt động cụ thể về kế hoạch hóa
như là một công cụ theo dõi, cập nhật, điều chỉnh, cung cấp thông tin và tư vấn cho
các cấp, các địa phương, các doanh nghiệp trong sự tham gia của họ vào các nổ lực
phát triển vùng. Vai trò “hướng dẫn”, “định hướng” của công tác kế hoạch đã bị
triệt tiêu, đó là đầu mối gây ra những rối ren hiện nay.


Vùng KTTĐ phải dựa trên các cực tăng trưởng là các đô thị lớn, vì thế phải có
những đột phá trong tổ chức và quản lý đô thị. Hệ thống đô thị trong vùng xét theo
tiêu chuẩn hiện đại là một trong những thước đo quan trọng của sự phát triển. Nó
vừa là động lực vừa là kết quả của sự phát triển vùng.
Phải bằng quan điểm đó để nhìn lại trình độ phát triển và cung cách quản lý của các
thành phố trong vùng, đặc biệt là tuyến đô thị từ Tp. Hồ Chí Minh qua Biên Hoà đi
Vũng Tàu. Mức độ tham gia của Thủ Dầu Một vào quá trình hình thành chùm đô
thị vùng này cũng phải được xem xét.
Phải lưu ý thích đáng đến sự xuống cấp của các đô thị trong vùng, kể cả Tp. Hồ Chí
Minh, mặc dù mỗi nơi đều có ít nhiều cải thiện bằng một số công trình xây dựng
mới. Phải chăng đã có sự xuống cấp nhiều mặt trong xây dựng, trong giao thông,

trong môi trường, trong dịch vụ xã hội, trong tổ chức không gian đô thị, trong mô
hình cư trú, trong an ninh xã hội nói chung. Sau hết đó là tình trạng quản lý đô thị
hết sức lạc hậu với cơ chế và lề lối quản lý nhà nước và quản lý xã hội chẳng khác
gì quản lý một tỉnh nông thôn.
II.2 Một số quan điểm về cơ chế chính sách, phương thức quản lý
VKTTĐPN cần được trao đổi:
II.2.1 Quan điểm cơ chế chính sách: Vào thời kỳ đầu của sự chuyển đổi từ
cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, chính vùng này đã phải đối diện
với những khía cạnh chính trị khá nhạy cảm để có những quyết sách bằng con
đường không chính quy, phải “xé rào”, phải “bung ra” như cách nói quen thuộc vào
lúc đó.
Tất nhiên, ngày nay Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương mang tầm chiến
lược về phát triển các vùng kinh tế trên cả nước, đặt trong một tổng thể tư duy
chính trị và kinh tế đổi mới ngày càng rộng mở hơn. Tuy vậy, vẫn có những khía
cạnh chủ trương, chính sách cần phải nghiên cứu và giải quyết gắn liền với quá
trình quy hoạch, chỉ đạo và thực hiện sự phát triển vùng. Chẳng hạn, đó là mối
quan hệ giữa tập trung và phi tập trung hóa, giữa mức độ tập quyền và phân quyền
thế nào, giữa tập trung và dân chủ trong việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp,
giữa lợi ích cục bộ và lợi ích toàn bộ được xử lý ra sao?
Những khía cạnh chủ trương, đường lối này nếu không được nghiên cứu và giải
quyết thấu đáo thì vẫn có thể gây ra những trục trặc trong tư tưởng và không nhất
quán trong phương pháp giải quyết gây trở ngại cho sự phát triển vùng.
Trước hết, cần phải khẳng định quy luật phát triển không đồng đều giữa các vùng
khác nhau của đất nước. Không đồng đều về tốc độ, về trình độ và do đó cũng


không giống nhau về giải pháp và bước đi cụ thể. Khẳng định quy luật này để giải
quyết dứt điểm về mặt quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, công khai và minh bạch những
điều mà trước đây còn do dự trong chính sách thúc đẩy các vùng phát huy tối đa lợi
thế so sánh của mình, tiềm lực mọi mặt của mình để đi lên. Đồng thời, khẳng định

quy luật này cũng có nghĩa là dứt khoát đoạn tuyệt với chủ nghĩa bình quân, cào
bằng, rốt cuộc chỉ kéo chân nhau và chẳng có lợi ích cho ai cả.
Thực tế cho thấy, VKTTĐPN đã vượt lên được chủ yếu là nhờ ở các địa phương đã
biết khai thác lợi thế so sánh của mình để tạo ra cho vùng có nhịp độ phát triển
nhanh, vượt trội nhịp độ bình quân của cả nước từ 1,5 đến 2 lần, đóng góp đến
48,7% mức tăng trưởng của cả nước (theo cách tính của bộ Tài chính). Cũng nhờ
vậy mà vùng này đã đóng góp đến 46,8% ngân sách của cả nước. Cả 4 tỉnh trong
vùng cùng với Hà Nội đều đóng góp được cho ngân sách trong khi các địa phương
khác phải dựa vào điều phối lại của Trung ương.
Ở trình độ thấp kém của nền kinh tế nước ta hiện nay, nếu không có một vài vùng
tiến vượt lên thì không thể có điều kiện tích lũy cả về vật chất lẫn về hiểu biết và
kinh nghiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cụ thể hơn, nếu VKTTĐPN hiện đang là vùng dẫn đầu mà từ đây đến năm 2010
không tạo thành được một mô hình cụ thể về công nghiệp hóa và hiện đại hóa thì
làm sao có tiền đề để đạt được mục tiêu biến nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp vào năm 2020.
Việc khẳng định quy luật phát triển không đồng đều còn có một ý nghĩa khác rất
quan trọng. Nó mở đường cho những tìm tòi về chính sách cụ thể vượt ra khỏi lối
mòn của tư duy chính trị và tư duy kinh tế, quen đặt mọi tình huống và thực tế khác
nhau vào một vài khuôn mẫu chung chung. Khuôn mẫu này gần như còn rất nặng
nề khiến cho cung cách tổ chức, điều hành, quản lý các vùng, các địa phương giống
hệt như nhau trong khi có nhiều vấn đề hết sức khác nhau lại không được nghiên
cứu và tìm ra giải pháp cụ thể. Có khắc phục được tập quán tư duy xơ cứng này thì
mới chấp nhận được những tìm tòi về cơ chế mới chẳng những cho VKTTĐPN mà
cho các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước.
Cũng cần nói lại một điều, ở đất nước đang từ chế độ bao cấp, tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN không thể chỉ để các vùng tự do phát triển
không đồng đều, không thể để sự phân liệt giữa vùng giàu và vùng nghèo, giữa
người giàu, người nghèo. Nhà nước không thể chỉ tập trung vào đầu tư một số vùng
mà không đầu tư đúng mức những vùng khác. Đất nước ta có thể có 6 vùng hoặc 8

vùng kinh tế lớn, hàng trăm “vùng kinh tế ngành”, hàng nghìn “vùng phát triển”,
“vùng chậm phát triển”, “vùng trì trệ suy thoái” vv…. Đối với người quản lý nhà
nước không thể bỏ qua vùng nào. Tuy nhiên không vì thế mà không chú ý đến vùng


động lực, vùng có tính chất đầu tàu đột phá. Ởû đây cần có vai trò điều hòa, điều
chỉnh của Nhà nước để các công dân ở các vùng đều được sự thụ hưởng sự tiến bộ
của nền kinh tế, thể hiện ở mức độ hưởng thụ văn hóa, môi trường sống. Mọi người
đều thống nhất, đối với các vùng “nhạy cảm” Nhà nước cần có đầu tư đặc biệt,
mãnh liệt và toàn diện.
II.2.2 Một số chính sách cần chú ý ở VKTTĐPN: Vùng VKTTĐPN đang
đòi hỏi trước hết một hệ thống chính sách mở cửa và hội nhập hơn nữa vào kinh tế
khu vực và thế giới đang trong xu thế toàn cầu hóa. Quá trình phát triển vừa qua
của VKTTĐPN cho thấy, chính sự mở cửa và hội nhập vốn có từ lịch sử nay đang
là một lợi thế so sánh quan trọng nhất của vùng. Điều này đã bộc lộ trong một số
thành tựu kinh tế nổi bật về xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Cần nghiên cứu và đề xuất hệ thống chính sách mở cửa và hội nhập hơn nữa cho
phép vùng này tận dụng được thời cơ đã có và đón nhận những thời cơ mới. Đặc
biệt cần dự báo và có biện pháp thích ứng với những chuyển động kinh tế tới đây
khi triển khai một loạt các thỏa hiệp của ASEAN về AFTA, khi mở cửa hành lang
kinh tế xuyên Á, và khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ đi vào thực hiện, khi hội
nhập toàn cầu hóa, gia nhập WTO.
Mặt khác, chính sách mở cửa và hội nhập cần được nghiên cứu và phát triển hài
hoà với chủ trương phát huy nội lực, tự lực, tự cường và phát triển thị trường trong
nước.
Trong chiều hướng đó, một số mục tiêu phát triển của vùng cũng phải được làm rõ
hơn với các chính sách hỗ trợ kèm theo. Chẳng hạn, vùng này phải nhanh chóng đạt
được một số bước để tiến kịp khu vực ASEAN trong các lĩnh vực công nghệ mới,
trong hệ thống cảng quốc tế, sân bay quốc tế và nhất là trong một số ngành dịch vụ
hiện đại phục vụ cho thị trường tài chính, viễn thông, du lịch… Đó là những lĩnh

vực mà ta phải rút ngắn khoảng cách rất nhanh để có thể hội nhập và khai thác
nguồn lợi từ đó. Không chỉ đối với VKTTĐPN mà các vùng khác của đất nước,
đều có tình trạng lực lượng lao động hay nói chung là nguồn nhân lực chưa đáp
ứng được nhu cầu phát triển. VKTTĐPN đi đầu trong hầu hết các lĩnh vực phát
triển của đất nước phải dựa trên nền tảng của kinh tế tri thức và tính năng động cao
có hiệu quả của các doanh gia và đội ngũ những người hoạch định chính sách. Thu
hút nhân tài là một công việc cực kỳ quan trọng.
Một chính sách trọng điểm khác nữa cần nghiên cứu là hệ thống chính sách đối với
khu vực tư, với kinh tế tư nhân và cụ thể hơn là với kinh tế tư bản tư nhân trong
vùng trong quan hệ với các thành phần kinh tế khác nhau. Khác hẳn với các vùng
kinh tế trọng điểm ở phía Bắc và miền Trung tiềm năng khu vực kinh tế tư nhân ở


vùng này còn rất lớn. Mặc dù đã có nhiều chính sách khuyến khích khu vực tư nhân
trong cả nước nhưng hiệu quả chưa rõ rệt ở vùng này.
II.2.3 Xây dựng cơ chế quản lý VKTTĐPN với một hình thức hợp lý: Rất
nhiều ý kiến cho rằng cần có một đầu mối thống nhất để quản lý và phối hợp các nổ
lực phát triển vùng ở tất cả các địa phương. Chức năng quan trọng nhất của đầu
mối này là phối hợp và tư vấn, phối hợp giữa các cấp các ngành từ trung ương đến
các địa phương và tư vấn cho các cấp trong quá trình triển khai, điều chỉnh, bổ sung
quy hoạch. Cần có một bộ máy tham mưu thường trực của các chuyên gia. Rất cần
những nhà quản lý, nhà khoa học có “tầm nhìn” bao khắp không gian và thời gian.
Nhìn ra các nước, ta thấy chẳng những việc phân vùng, quy hoạch vùng mà cả bộ
máy quản lý vùng cũng đã có những thể chế ổn định. Nước Pháp đã chia 22 vùng
gồm 95 tỉnh, mỗi vùng gồm 3 đến 4 tỉnh. Mỗi vùng có tổ chức quản lý cấp vùng do
tỉnh trưởng tỉnh lớn nhất trong vùng đứng đầu với chức năng điều phối kế hoạch và
cả ngân sách vùng.
Nước Mỹ có 450 đơn vị cấp vùng, mỗi vùng có “Hội đồng các chính quyền” là cơ
quan làm nhiệm vụ kế hoạch hóa và điều phối sự phát triển vùng. Cả hai nhiệm vụ
ấy được thực hiện bởi hoạt động thường xuyên của một bộ phận chuyên môn gồm

các chuyên gia có chức năng theo dõi, điều chỉnh kế hoạch và tư vấn cho các quyết
định của hội đồng.
II.2.4 Nghiên cứu những biện pháp đẩy nhanh các cải cách hành chính ở
địa phương trong VKTTĐPN bằng việc tập trung vào một số khâu đột phá về quản
lý kinh tế và quản lý đô thị.
Chúng tôi cho rằng thời gian qua lý luận về phân vùng kinh tế ở Việt Nam đã lâm
vào khủng hoảng với mức độ không nhẹ, song các nhà khoa học Việt Nam đang
tìm lối ra để phát triển. Đã đến lúc cần thiết có một phương pháp luận mới về phân
vùng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
trong bối cảnh đất nước đang đổi mới sang cơ chế thị trường có định hướng
XHCN, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới.
Ở bài này chúng tôi không bàn trực tiếp các nhân tố tác động đến phương hướng
phát triển vùng. Đứng trên giác độ vùng, ngoài các chính sách của Đảng và Nhà
nước quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng núi và vùng chậm phát triển, cần tập
trung đầu tư xã hội cho phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, làm đầu tàu kéo các
vùng khác, lan tỏa sức sống mãnh liệt cho các vùng xung quanh. Cần khẳng định
quy luật phát triển không đồng đều giữa các vùng khác nhau của đất nước: không
đồng đều về tốc độ, về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và do đó cũng không
giống nhau về giải pháp, về đầu tư và bước đi cụ thể.


Qua những nội dung trình bày ở trên, cũng muốn nhấn mạnh một ý là tổ chức lãnh
thổ phải là đối tượng nghiên cứu chính của Địa lý kinh tế – xã hội. Tuy nhiên tổ
chức lãnh thổ kinh tế - xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
khác. Khoa học Địa lý ngày nay đã đến lúc không thể hoàn toàn độc lập phát triển
hay có một đối tượng nghiên cứu chỉ của riêng mình. Đã đến lúc cần có sự phối
hợp chặt chẽ của nhiều ngành khoa học để nghiên cứu tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã
hội cả nước nói chung và các vùng kinh tế nói riêng.

SUMMARY:

FROM SOUTHERN VITAL REGIONAL RESEARCH, PROPOSING SOME
IDEAS OF TERRITORIAL ORGANISATION - THE STUDY OBJECT OF
SOCIO-ECONOMIC GEOGRAPHY
• Assoc. Prof, Dr. Đặng Văn Phan
Over the recent time, argument on division of economic regions in
Vietnam has come into crisis, more severe than slight, though, Vietnamese
scientists are trying to find a way out. It is high time to have a new methodology
on division of economic regions in this industrialisation and modernisation stage
in the country, especially in the current stage of transition into market economy,
socialism-orientation and international integration.
In this article, we do not discuss directly to influential factors on regional
development orientation. From regional viewpoint, besides encouraging policies by
the Party and the Government towards remote and under-developed areas, it is
necesssary to emphasize unequal development laws among different areas of the
country in terms of speed, labour force development capacity…Accordingly, it
should be emphasised that territorial organisation must be the main research target
of Socio-economic geography as well as other subjects. Geography can not
independently develop but needs tight co-ordination by many other sciences so that
it can not only fulfill its function of organising economic territorial in general but
also economic regions in particular.



×