50.
Tên gọi, cách bài trí và ý nghĩa tượng trên chùa Việt
như thế nào?
Ngưòi V iệt thò Phật theo lối bình dân, tức “th ế gian trụ trì
Phật pháp”, bắt buộc họ phải có ngôi chùa, với tượng chư Phật
và Bồ Tát. Những hình tượng này được coi như sự gợi ý để họ
lọc tâm, rèn tính hưống tới thiện nghiệp. Bằng vào kết quả
nghiên cứu, ngưòi ta đã biết không còn một pho tượng Phật
giáo nào có niên đại dưới thòi Bắc thuộc. Từ thòi tự chủ trở đi,
số lượng tưỢng trong chùa tiến triển từ ít tới nhiều, và đến
tận th ế kỷ XX mói đầy đủ như hiện thấy.
Theo vòng quay của chữ Vạn là cầu mong sự tinh tiến về
thiện căn, nên ngưòi P hật tử thường vào lễ Phật từ cửa bên
trái Tiền Đưòng, và, đầu tiên tiếp cận là bàn thò Đứe ông. ỏ
đây, ngưòi ta trình báo mọi việc trước khi vào lễ chính thức
nơi bàn thò Phật, vì Đức ô n g vốn là ngài Cấp Cô Độc, một
trưởng giả từ thiện đã cứu giúp nhiều người nghèo khổ. Được
nghe Phật giảng đạo mà giác ngộ, ông mua cảnh vườn ở
thành Si-âvasti dâng cho đức Phật và giáo hội. ô n g được đức
Phật thọ ký cho quả Bồ đề vô thượng có trách nhiệm cai quản
mọi cảnh chùa - Hình tượng ông được người Việt thể hiện
những một quan văn m ặt đỏ râu dài. Từ giữa th ế kỷ XIX trở
về trước chưa tìm được loại tượng này. Vào bàn thò giữa, tức
Phật điện, trên cao và sâu nhất là bộ tượng Tam thế, mà tên
đầu đủ là: ‘T a m T h ế Thưòng Trụ biệu R iá p Thân” (Thân
pháp chân thực tức đạo thể, nhiệm màu đẹp đẽ của các đức
Phật tồn tạ i vĩnh hằng trong cả ba thòi)- Tượng Tam Thế thể
hiện mới chỉ thấy sớm nhất từ nửa cuối th ế kỷ XVI. Hàng thứ
hai là bộ Di Đà Tam tôn, bao gồm A Di Đà ngồi giữa trong th ế
thiền định môn vỊ phật được coi là tồn tại vĩnh hằng và ánh
sáng P hật pháp từ ngài toả ra để cứu vót chúng sinh, không
có gì che cản nổi. Cũng có khi là tượng Di Đà đứng với tên gọi;
Di Đà phát phóng qua, nhằm cứu vốt chúng sinh một cách
gấp gáp như vậy, dạng tượng này chỉ xuất hiện khi chúng
111
sinh gặp nhiều khổ đau (thiên tai, địch hoạ). Bên trái của Di
Đà là Quan Am, hiện thân của Từ Bi và bên phải là Đại Thế
Trí Bồ Tát tưỢng trưng cho Trí Tuệ. Hàng thứ ba là bộ Hoa
Nghiêm tam Thánh, ở giữa là Thích Ca cầm bông sen, tượng
trưng cho sự giác ngộ phật tâm, nhắc nhỏ chúng sinh hành
thiện, tự tìm lấy bản chất tốt đẹp của chính mình. Hai bên là
Văn Thù Bồ Tát cưỡi sư tử, hiện thân của chân trí và Phổ
Hiền cưỡi voi trắng tượng trưng cho chân lý đạo Phật. Nhiều
khi hai Bồ Tát này ngồi trên đài sen. Háng thứ tư là Di Lặc
Phật (nhiều khi không có) hiện thân của sự giàu có hạnh phúc
tốt lành, từ bi,...Mang tư cách chúa cứu thế khi chúng sinh
gặp nhiều khổ đau. Hàng thứ năm là Thích Ca sđ sinh, hình
tượng chú bé tay trái chỉ trồi, tay phải chỉ đất, ẩn chứa trong
đó câu nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”- Trên
tròi, dưối trời chỉ có ta (tức đạo thể diệu như, Phật, Pháp
thân) là cao quý hơn cả. Hai bên của tượng này có tưỢng hai
vua trời hộ trì khi Phật xuống đòi, đó là Phạn Vương
(Brahma) và Đế Thích (Indra)- Trên bàn thờ chính nhiều khi
còn có tượng Ngọc Hoàng và Nam Tào (giữ sổ sinh, ghi điều
thiện), Bắc Đẩu (giữ sổ tử, ghi việc ác của chúng sinh). Bộ
tượng này nhằm giáo dục con người tránh ác hành thiện, để
tránh bị trừng phạt, ở góc trái của Thượng điện có ban thò
Đức Quan Âm Nam Hải (cũng gọi là Thiên Thủ Thiên Nhã.
Quan Âm Chuẩn Để...), tưỢng có nhiều tay ngồi trên đài sen
do quỷ đội, ý nghĩa tượng này ngoài tính Từ bi, còn được gọi
là thần gắn vối biển cả luôn giúp đỡ thương thuyền, ngư
thuyền...ở góc bên phải là tượng Quan Âm toạ sơn, phần nào
hiện thân của thần nông nghiệp. Thông thường hai bên sườn
thượng điện còn có Thập điện Diêm Vương, bộ tưỢng này ra
đời khi xã hội nhiều nhiễu nhương đau khổ. Các điện Diêm
Vương có chức nàng xét công tội của con ngưòi để thưỏng phạt
công minh. Thê giới của Diêm Vương vô cùng khiếp sỢ, nên có
tác dụng răn đe tội ác một cách tích cực. Ngoài Tiền đường, ỏ
hầu hết các chùa đểu có tượng Kim Cương, đó là ông khuyến
112
thiện và trừng ác. Cũng có khi là tám ông nên gọi là B át bộ
Kim Cương. Do được mặc áo giáp nhẫn nhục nên tránh được
iục vọng, giữ mình trong sáng và cương quyết như Kim
Cương nên gọi là tượng Kim Cương với chức năng bảo hộ Phật
pháp nên gọi là Hộ Pháp.
ở góc phải của Tiền đường còn bàn thờ một nhà sư đội mũ
tỳ lư đó là Thánh Tăng (ngài A Nan Đà) đại diện mọi nhà sư
5 mọi thòi vói chức năng truyền bá đạo Phật để giác ngộ chúng
sinh thoát vòng khổ đau. ỏ hai hành lang còn có bộ tượng là
Thập bát La Hán, thực ra tổ truyền đăng, ở đó chỉ có sáu vị là
La Hán còn tất cả là Bồ Tát. M ặt khác, ngưòi Việt ngay từ đầu
đã theo Phật giáo Đại Thừa, tu hành Bồ T át để cuối cùng
chứng quả Phật, họ không theo Tiểu Thừa để đề cao La Hán.
Nhà hậu sau thượng điện thường thò Tổ chùa và điện Mẫu
trong đạo Tứ Phủ cùng các ngưòi có công lớn với chùa./.
51. Thế nào là Tam Bảo (phân biệt Phật, Pháp, Tăng)
Tam bảo: ba ngôi quí báu là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.
Thường đưỢc nghĩ: P hật là người sáng tạo ra đạo lý cứu
đòi- Pháp là giáo lý cứu đòi - Tăng là những ngưòi truyền bá
đạo lý đó. Người P hật tin tưởng rằng: Quy y Phật, khỏi đoạ
vào địa ngục (chỗ trừng trị, hành phạt những ngưòi phạm tội
hồi ỏ dương gian) Qui y Pháp, khỏi đoạ v^ào ngạ quỷ (các cô
hồn, ma quỷ đói khát, hình vóc xấu x a...) Qui y tăng, khỏi đoạ
súc vật (loài vật, bản tính ngu si, dơ dáy, tồi tàn...)- Vì công
đức của ba ngôi ấy to lốn như vậy nên gọi là Tam Bảo.
Quy y Tam Bảo cũng có nghĩa: gởi thân vào cửa Phật là
nương theo Giác Ngộ để có đủ phúc đức và trí tuệ, nhằm tránh
tnê lam ngu si. Gởi vào Pháp là nương theo Chánh (sự phải,
:hân thật trong sạch) không theo tà kiến. Gỏi vào Tăng là
nướng theo thanh Tịnh, không nhiễm sự ô trọc, Idiông chấp nê.
Có thể hiểu cụ thể như sau:
113
Phật, cũng gọi là Phật đà (Bouddha): là bực giác ngộ, đã
giáe ngộ lấy mình lại giác ngộ cho chúng sinh, làm tròn cả hai
hạnh tự giác ngộ và giác tha - Theo nghĩa từ tiếng Phạn, Phật
là Giác giả (người sáng suốt) đã giác ngộ hoàn toàn (bậc viên
giác)- Thường thường ngưòi ta dùng chữ Phật để chỉ đức
Thích Ca. Song, thẹo sách nhà Phật thì: Trong không gian có
vô số thế giới và vô số Phật, đức Thích Ca Mâu Ni là Phật của
thế giới loài ngưòi trong thòi hiện tại này. Người có dạy rằng
bao giò Phật cũng thường trụ ỏ cõí thế. Người Phật tử lòng
thành bao giờ cũng được Phật hộ trì, che chỏ. Phật cũng còn
dạy: “Nhữ thị đương thành Phật, ngã thị dĩ thành Phật” (các
ngưòi là Phật sẽ thành, còn ta là Phật đã thành).
Đức Phật có ba thân Pháp thân: thân chân thực. Tức cái
pháp thể trường tồn. ứng thân hay Hiện thân là. cái thân ỏ
cõi đòi này. Hoá thân cũng gọi là Thần Thông biến hoá thân
tức thân hoá thiện ở mọi nơi mọi chỗ, thích ứng với hoàn cảnh
để cứu độ chúng sinh.
Nhìn chung Phật là sáng suốt hoàn toàn, trí lực đầy đủ...
nên có mưòi đức hiệu: Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Thiên Thệ, Minh Hanh Túc, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Thế Tôn.
Và, Ngài còn có nhiều hang danh khác nữa (hang danh:
tên gọi to lớn - danh nhân)
Pháp (Dharma) - cũng gọi là Đạt ma, Đàm ma hay Đàm
mô (Dhamma)- Bất kể cái gì, dù lốn nhỏ, hữu hình hay vô
hình, tốt hoặc ỉĩrấu, chân thực hay hư ảo... đến những lý lẽ
nhỏ bé cho tối tôn giáo, luật thường hằng của vũ trụ và hư
không đều có thể gọi là Pháp. Song, thường người ta hiểu
pháp là giáo lý nhà Phật - Đức Phật dạy; pháp chỉ là phương
tiện tu hành không nên chấp có hoặc chấp không, pháp của
Phật để cứu độ chúng sinh, nó như chiếc bè lốn chở tới miền
giác ngộ, đã giác ngộ rồi thì chẳng còn nương vào pháp nữa.
114
Nghĩ theo lổi thê nhân: Pháp là lời Phật dạy, là kinh luật
luận của nhà Phật, là đạo đức thường nhật ỏ cửa chùa và ở
đòi thường của chúng sinh... nhằm khuyến khích chúng sinh
hưống tới điều thiện tránh điều ác. Pháp Phật đựợc coi là có
thê giúp người ta tỉnh ngộ mà thoát khỏi khổ não, sinh tử
luân hồi. Đức Thích Ca từng dạy; khi ta tịch rồi, ta để cái
pháp lại ...Tôn kính ta th ế nào thì sùng thượng pháp như
thế... Vì vậy nên gọi là Pháp bảo.
T ăn g (Samgha) cũng gọi là Tăng Giặ, Tăng Kỳ - có nghĩa:
vị Tỳ Kheo, vỊ sư của đạo Phật, tức nhà tu hành xuất ra lấy
giáo lý nhà Phật làm cứu cánh- Tăng có nghĩa là chúng, là hoà
hỢp - chư tăng liên kết thành tăng đoàn, có nhiệm vụ hộ trì
Phật pháp, gìn giữ nghiêm luật, giói hạnh... giáo hoá chúng
sinh. Trong một nhà chùa, một xã hội, các nhà sư cần phải giữ
phép lục hoà- Giới hoà đồng tu (những điều quy định...) kiến
hoà đồng giải (chỗ thấy bằng tự thức), ĩợi hoà đồng quân, thân
hoà đồng trụ, khẩu hoà vô tranh, ý hoà đồng duyệt.
Tăng là người dẫu chưa được là bậc thánh nhưng cũng là
các bận giữ gìn hạnh thanh tịnh, gác minh ra khỏi cuộc thế,
sống thanh khiết... tấ t cả để làm gương cho chúng sinh nhằm
khuyên dạy những điều tốt lành và hộ niệm người đời- Vì thê
gọi là Tăng bảo.
Niết Bàn kinh ghi; Phật, Pháp, Tăng ba ngôi ấy đều như
nhau. Tửứi và tưóng của Tam Bảo là: Thường, Lạc, Ngã, Tịrửi./.
52. Phân biệt dạo Phật Tiểu Thừa và Đại Thừa?
Thừa (cũng gọi là thặng)- Đại Thừa là cỗ xe lớn. Tiểu Thừa
là cỗ xe nhỏ. Khi đạo Phật hình thành mà tự tu hành. Đương
thòi hệ triết học này rất cao siêu, khó có thể phổ cập trong
quần chúng. Vì thế, chỉ có những bậc trí giả tu hành mới tự
mình tìm 4ược cứu cánh ở lời kinh, đó là những yếu nghĩa
thâm huyền hình nhi thượng. Họ chỉ tìm được giác ngộ bằng
115
trí tuệ và giải thoát tâm tưỏng cho riêng mìnli. Thế kỷ III và
II trước công nguyên, qua các lần kết tập (cuộc nhóm họp lốn
của giáo hội để soạn và bổ xung kinVi điển của nhà Phật), mà
nổi lên dưối triều vua Asoka rồi sau đó là vua Kanishka, đạo
Phật chuyển dần sang bưốc phát triển mối, hoà vào quần
chúng, tạo điều kiện để truyền bá rộng rãi ra cả ngoài biên
giối. Từ đây, Phật giáo dần dần chuyển thành hai hệ chúih
Đại Thừa và Tiểu Thừa. Đại Thừa (Mahâyâna) giáo phái lốn
cũng như cỗ xe lốn đưa được rất nhiều ngưòi đi xa, tức tói cõi
Đại giáp (giác ngộ lớn lao, hoàn toàn), nơi đó họ thành Phật
Như Lai. Đại Thừa cũng gọi Bồ Tát thừa) hướng tới con đưòng
Bồ Tát là tự độ, độ tha, tự giác giác tha, tự lợi lợi tha (cứu
được mình, giác ngộ được mình, lợi cho mình thì cũng giáo
hoá chúng sinh để cũng được như vậy). Người theo hạnh Bồ
Tát là đi vào con đường Lục Độ (Bố thí: trừ tham lam; Trì giối:
tức trừ tàn ác; Nhẫn nhục: tức trừ tức giận hận thù; Tinh tấn:
dũng mãnh bển trí tu hành, đoạn tuyệt ác trược; Thiền định
nhằm trừ tán loạn; Trí tuệ: trừ ngu si) Đại Thừa cũng gọi là
Phật thừa, Thượng Thừa, Thắng Thừa, Phật giáo Đại Thừa
(cũng gọi là Bắc Tông) được phát khởi từ Bắc Ấn rồi phát triển
sang Tây Tạng, Việt Nam, Trung Hoa, Mông cổ, Triều Tiên,
Nhật Bản. Chùa dòng Đại Thừa luôn mở rộng cửa đón mọi
chiing sinh, Phật điện thường nhiều ấn tượng, gồm nhiều vị
Phật và Bồ Tát khác nhau, dòng này dễ hội nhập vối tín
ngưỡng dân dã ở nơi đạo truyền bá và giáo hoá.
Tiểu Thừa (Hinayana) giáo phái nhỏ, nhà tu hành ngồi trên
cỗ xe nhỏ để đi tối tiểu niết bàn của bậc La Hán và Bích Chi
Phật. Bậc tu Tiểu Thừa chú ý tối Tứ Diệu đế (Khổ đế: nhận
thức về đời sông của chúng sinh chìm trong quả báo của sinh
tử là khổ; Tập đế; ham muôn là gốc khổ; Diệt đế: Chân lý dạy
dứt bỏ khổ não; Đạo đê: Chân lý về đạo diệt khổ; Đế: chân lý,
đạo lý chân thật, chân chính, tưòng tận...) diệt trừ Thập Nhi
nhân duyên (nhũng nhân duyên khởi từ mê muội dẫn tối Sinh
116
Tử Luân Hồi tức mọi sự buồn khổ đau đốn) mà đắc quả A La
Hán hoặc Duyên Giác. Dòng tu Tiểu Thừa ít nhiều có tính bảo
thủ, tập trung vào giáo lý nguyên thuỷ, và, ai tu ngưòi đó
hưởng quả phúc, không đặt vấn đề độ tha, giác tha, lợi
tha...làm cứu cánh (cái đích cao hơn hết, đích cuối cùng) Ngôn
từ Tiểu Thừa do những ngưòi theo Đại Thừa đặt gọi như vậy,
còn những ngưòi theo Tiểu Thừa vẫn nghĩ họ duy trì bản gốc
của đạo (có khi gọi: đạo Phật ngụyên thủ). Tiểu Thừa cũng gọi
Nam Tông, phát triển từ Nam Ân qua Srilanca (Tích Lan) rồi
tmyền bá tối Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào, một phần
Nam Việt Nam- Chùa Tiểu Thừa chủ yếu thò Thích Ca Mâu Ni
dưới các dạng khác nhau (Thiền định, Đất chứng giám, Khất
thực, Nằm Niết B àn ...). Không thò chư Phật và các tượng khác
nên Phật điện khá vắng vẻ và có phần đơn giản./.
53.
Chức năng, đặc điểm kiến trúc và điện thần của ngôi
chùa Khơme Nam Bộ?
Là cư dân nông nghiệp thuần phác sống trên các giống
đất, ít canh tác ruộng thấp cho nên mốỉ quan hệ vối thần linh
có phần nào chưa hoàn toàn thuần nhất với cư dân xung
quanh. Ngoài ông Tà tưỢng trưng bằng vài hòn đá, có vẻ tự
nhiên, đặt trong một cái lều khá nhỏ nơi gốc cây... thì ngưòi
Khdme tập trung tinh thần của mình vào ngôi chùa kiểu Tiểu
Thừa và phần nào vào đạo Bàla môn.
Chúa của người Khơme chỉ thờ có riêng Phật Thích Ca,
trước đây và phần nào cả hiện tại, trong tâm trí những ngưòi,
thì giói luật pháp lu ật... đều hội tụ về cửa chùa, từ đó chùa
chi phối tới mọi mặt của cuộc sống th ế nhân. Người ta tự
nguyên hay nói đúng hơn coi là tất yếu khi mọi sinh hoạt, nếp
sống lẽ sống, mọi mối quan h ệ... đều được nảy sinh và quy
định từ Đạo Phật. Nhà sư tham gia trực tiếp về nhiều mặt
vào đám cưới đám tang, dựng nhà... Người Khơme hầu như
ai cũng là Phật tử, họ được giáo dục đạo đức Phật giáo ngay
từ thuơ ấu thơ. Tói tuổi đi học thì cửa trường đầu tiên là cửa
117
chùa - chùa là một trung tâm văn hoá gần như duy nhất, nổi
nhất của phum sóc Khơme cổ truyền. Người đàn ông nào
trước khi trưởng thành, cũng đều phải qua một thòi gian đi
tu, ỏ đó họ được dạy mọi ứng xử theo đạo Phật nhằm phát
triển hướng thiện, giàu lòng nhân ái từ bi, đồng thòi cũng
được học hỏi một phần về văn hoá. Nhìn chung, chùa là một
nơi giáo dục toàn dần, là thư tàng cổ, là địa điểm gặp gỡ vui
chơi của dân phum sóc trong các ngày lễ hội...
Việc dựng chùa là nguyện vọng của toàn dân, tnlớc hết vỊ
sãi cả chọn đất vối trung tâm là phật điện. Một ngôi chùa
Khơme thường có đất rộng (có ngôi tới 10 ha), trong cảnh chùa
có nhiều cây lốn, mà loại câv luôn được quan tâm là Dầu và
Sao, vì chúng thích hỢp với loại gỗ làm thuyền đua phục vụ lễ
hội, đồng thòi chúng còn như điểm báo hiệu về đất lành tươi
tố t. Mở đầu cho chùa là cổng, hiện nay thưòng được xây bằng
gạch, khá lớn, đặt gần đường cái nhằm báo hiệu đường vào cho
khách hành hương. Tuy không giống như Tam Quan của chùa
Việt, nhưng cổng chùa Khơme thường được thể hiện với nhiều
đề tài trang trí công phu nên nó vẫn giữ tư cách là một kiến
trúc trọng tâm. cổng và chùa đều quay hưóng đông, vì đó là
hướng của thần thánh, đồng thòi mát mẻ (như hưống Nam của
đất Bắc). Vối hướng này chùa hội tụ được sự linh thiêng ...
Chùa chính nằm ỗ trung tâm, bao giò cũng đưỢc đắp nền
cao (thường từ Im trở lên) vối hai hoặc ba cấp cùng theo hình
chữ nhật. Cấp chính là mặt nền Thượng điện, và hiện cấp thứ
hai khá rộng. Trong ngày hội, các thôn thường được dựng lán
bằng lá ở các góc để thực hiện những sinh hoạt gắn với tâm
linh. Nền này cũng thường diễn ra những cuộc chạy đàn lễ
Phật. Chùa Khơtne bố trí theo lối thò dọc, bàn thò ở đầu hồi
nhìn về hướng đông, như thế lòng nhà rất rộng để đông đảo
Phật tử có thể cùng lễ Phật. Mái chùa Khơme theo cách thông
thường của chùa Tiểu Thừa ở Đông Nam Á (giổhg của Thái
Lan, Lào, Myanmà, Campuchia...), khá phức tạp nhưng đẹp
118
.
;Ợi cảm, lại tạo cho sự thông thoáng trong lòng nhà, mái
hường có ba cấp, mỗi cấp ba nếp, tạo sự lô xô đầy nghệ thuật,
Tii măt, các dầu kìm của bò mái thường vắt vẻo chiếc đuôi
■ắn, bò dải với những vây cách đều là thân, cồn các góc đao là
ỉầu. Hình thức này nhắc tới tích truyện Vua loài thuỷ tộc
ỉược nghe P hật giảng đạo, mà giác ngộ, đã nguyện làm
huyền rồng đưa Phật đi khắp nơi để hoằng dương đạo pháp,
ỉi trên mái chùa, những con rắn này đã phản ánh ước vọng
:ủa con ngưòi hướng tới phật và cầu phúc ...
Phật điện của ngưòi Khơme khá vắng các loại tượng, chủ
^ếu chỉ có Phật Thích Ca dưới các dạng như: Đ.ất chứng dám,
;oạ thiền, tu khổ hạnh, thuyết pháp, khất thực, cứu độ chúng
ỉinh, nhập nết bàn ... Thông thường bao giờ cũng có một pho
Igồi ỏ giữa (toạ thiền, đất chứng giám ...) các tượng khác đặt
'ì hai bên. Song cũng trên ban thò còn rất nhiều tưỢng Thích
ũa (các dạng) nhỏ, loại tượng này do các gia đình cúng vào
:hùa để cầu phúc.
Ngôi chùa Khơme cũng đưỢc chạm trổ hoặc đắp nhiều
lình trang trí, với hoa lá, tiên chằn, các thần (ở hai đầu hồi,
'i cửa chùa ...), cũng có khi là tích truyện Dù kê (chùa Sam
ìông Ệch - Trà Cú - T rà Vinh) với nét chạm ở diềm mái đầy
:hất dân gian. Hầu như ngôi chùa Khơme Nam Bộ nào cũng
ìạt đưỢc một chuẩn mực nghệ thuật nhất định.
Các kiến trúc khác trong chùa còn có S a ỉa là nhà hội của
iư sãi và dân chúng, đây là một ngôi nhà lốn nền thấp hơn
ĩ^hật điện. Nhà này để dâng cúng cơm cho sư sãi, nơi đây
:ũng có bàn thờ Phật, đôi khi kèm nhà khách, phòng nhạc ...
!ühua nào cũng có nhà thiêu xác gắn với tang lễ của Phật tử
rong vùng và một số tháp đựng cốt (túi tro của Phật tử,
ihằm nương vào cửa Phật mà siêu thoát), ơ mặt tâm linh
háp đựng cốt đã góp phần tạo mối liên kết chặt chẽ giữa Phật
ử với chùa ./.
119
54.
Minh?
Đặc điểm ngôi chùa của ngưòi Hoa ỏ thành phố Hồ Chí
ơ Việt Nam, ngoài những ngôi chùa có ảnh hưởng của Phật
giáo Trung Hoa còn có những ngôi chùa do chúih ngưòi Hoa
sinh sống trên đất Việt tạo nên, đặc biệt là những ngôi chùa
H oa ở thành phô" Hồ Chí Minh. Các ngôi chùa Hoa ỏ thành phố
Hồ Chí Minh một số được xây dựng từ thế kỷ XVIII, một số
khác muộn hơn vào cuối XIX hoặc đầu XX. Quá trình hình
thành những ngôi chùa Hoa gắn liền vối lịch sử định cư của
ngưòi Hoa ở khu vực Sài Gòn - Chợ Lốn xưa kia. sống trên quê
hương mới, ngoài việc tạo dựng cuộc sông vật chất, lo làm ăn
buôn bán, người Hoa còn quan tâm đến đời sốhg tâm linh của
mình. Họ đã xây dựng những ngôi chùa để ngày rằm, mồng
một đến thắp hương lễ Phật, cầu cho cuộc sống được bình an.
Nhiều chùa, ngoài chức năng thò Phật, còn có thêm chức năng
là hội quán để tập hỢp những người đồng hương nhằm giúp đõ
nhau. Bởi vậy, ở khu Sài Gòn - Chợ Lớn xưa sớm mọc lên
những ngôi chùa Hoa nổi tiếng như Chùa Bà - Tuệ Thành hội
quán. Chùa ông - Nghĩa An hội quán, Chùa ông Bổn, Chùa
Ngọc Hoàng, Chùa bà Hải Nam - Quỳnh Phủ hội quán, Chùa
Bà Thiên Hậu - Quần Tâm hội quán ...
Có thể dễ dàng nhận ra các chùa Hoa trong cảnh quan của
thành phô" nhò đặc điểm, phong cách kiến trúc, màu sắc rực
rỡ, tưdi vui của cổng chùa, mái chùa, nhờ nghệ thuật trang trí
riêng b iệt. Kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật trang trí của chùa
Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh khá đa dạng và phong phú.
Không gian xây dựng trong thành phố, nội dung cụ thể của
việc thò phụng, sắc thái địa phương của các nhóm người Hoa
đã qui định đặc điểm cụ thể trong kiến trúc, trang trí của từng
ngôi chùa. Tuy nhiên đặc sắc chung của chúng vẫn rất nổi bật.
Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo ỏ các ngôi chùa Hoa rất là
nhộn nhịp. Không khí các ngày lễ hội thường kỳ trong năm
120
quy tụ hàng chục ngàn ngưòi thì hầu như không ngày nào
văng bóng bà con ngưòi Hoa và khách thập phương đến lễ bái
hoặc thăm cảnh chùa. Có nhiều khách từ phương xa đến. Đến
vói sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, người Hoa muốh xác lập,
khăng định các giá trị đạo đức truyền thống. Ví như thò Quan
Công là muôn đề cao các đức tín N hăn, nghĩa, lễ, trí, tín, thò
Quạn Am, B à Thiên Hậu là tỏ lòng biết ơn những người đã
giúp họ vượt biên sang quê hương mối an toàn, là kêu gọi sự
cố kết cộng đồng Hoa ...
Chùa Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh không tồn tại một
cách biệt lập, nó là biểu hiện cụ thể, sinh động của văn hoá
Hoa bén rễ và phất triển trên đất Việt. Nó mang một sức sống
mới, thể hiện một bản sắc và hoà nhập sâu sắc vào văn hoá
các cộng đồng dân tộc V iệt Nam.
(Theo Chùa H oa thàn h p h ố H ồ Chi Minh,
nhiều tác giả, Nxb Tp HCM, 1990 ).
55. Tháp Chăm: số lượng và đặc điểm ?
Nếu có dịp đi trên đường xuyên Việt, đoạn từ Quảng
Nam - Đà Nằng tới Bình Thuận, người ta còn thấy rất nhiều
tháp Chăm rải rác, bị xói lở bởi thòi gian. Đó là hơn bốh chục
ngôi tháp cổ có niên đại từ th ế kỷ IX đến XIV hiện còn phân
bố trong gần hai chục cụm kiến trúc. Xin kể ra những khu
hoặc cụm tháp nổi tiếng như tháp ỏ Mỹ Sơn, Bằng An, Đồng
Dương, các tháp Dương Long, tháp Cánh Tiên, tháp Bánh It.
Nhạn Tháp, Pônagar... đó là những di tích còn lại của nền văn
hoá Champa.
Tháp Chăm là một kiến trúc tôn giáo. Nó được xây dựng
để thò các vị thần của ngưòi Chăm, những vị thần ảnh hưởng
của Ấ n Độ giáo, đặc biệt là Siva giáo, thờ Linga - Yoni ... Tháp
được xây bằng những viên gạch xếp vào nhau rất khít, không
phát hiện ra vữa. Tháp còn có những mảnh điêu khắc bằng
đá ở trên nóc hoặc cửa tháp rất đẹp. Hình dáng của tháp rất
121
thanh thoát, trông như sắp bay lên.
Tháp Chăm có rất nhiều phong cách khác nhau, được nhà
Champa học p. Stern sắp xếp như sau :
1. Phong cách cổ, hay phong cách Mỹ Sđn E l (thếkỷ VIII)
gồm đền Mỹ Sơn E l đã đổ nát.
2. Phong cách Hoà Lai (nửa đầu IX) gồm Hoà Lai, Pôdam,
Mỹ Sơn E s7 A2, C7.
3. Phong cách Đồng Dương (nửa sau IX đầu X) gồm Đồng
Dương, Mỹ Sơn E4, Mỹ Sơn Al, Mỹ Sơn A12, ...
4. Phong cách Mỹ Sơn A l (thế kỷ X) bắt đầu bằng
Khương Mỹ.
5. Phong cách chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn Al, và
phong cách Bình Định (đầu XI đến giữa XII) vối Đình Lâm,
Ponagar, Bánh ít ...
6. Phong cách Bình Định (giữa XII đến cuốỉ XIII đầu xrv)
như t h á p Dương Long, Cánh Tiên, Nhạn Tháp ...
7. Phong cách muộn (đầu IV đến XVII) với Po Klanung
Garai, Yang Mun ...
Trải qua chiến tranh, thời gian, khí hậu, nhiều tháp Chăm
đã bị đổ nát và vùi vào quên lãng. Trước năm 1945, một số các
nhà khoa học người Pháp đã làm công việc thu gom hiện vật
để xây dựng Bảo tàng Chàm ỏ Đà Nẵng, nghiên cứu và giới
thiệu các tháp cổ cũng như nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc
của nó. Ngày nay, công việc này đang được các nhà Chămpa
học người Việt và đông đảo các cán bộ văn hoá tiếp tục nghiên
cứu. Ngoài ra Đảng và Nhà nưốc cần tổ chức tu bổ lại nhiều
ngôi tháp, đại diện là khu Thánh địa Mỹ Sơn. Các khu tháp
Chàm đều được bảo vệ, giữ giá. Nó là một bộ phận của văn
hoá Việt Nam ./.
(Theo Tháp c ổ Chămpa, sự thật
và huyền thoại, Nxb Văn hoá, 1994 )
122
56. Nho giáo là gì?
Khoảng xấp xỉ 3000 năm trưốc đây, Trung Hoa đã có sự
phân hoá xã hội khá mạnh mẽ. Lúc đầu từ vài nghìn lãnh địa,
qua sự thôn tính lẫn nhau mà dần còn bẩy nước. Trong xu
hướng ấy, người ta mong có một hình thức tổ chức để bình
định thiên hạ. Nền tảng lý luận cho sự kiện này được rút ra
từ thực tê lịch sử, những gì phù hỢp và là điểm nổi trội của
quá khứ được các trí thức đương thòi đúc kết lại thành chuẩn
mực cho mọi xử th ế xã hội. Nho giáo dần hình thành.
Nhưng phải tới tận thòi Khổng Tử,.dưối sự tổng kết, san
định lại của ông và các học trò thì cơ sở lý luận của Nho giáo
bước đầu mói th ật sự hoàn chỉnh. Nhìn chung hệ triết học này
khỏi đầu nặng nề yếu tô" nhân sinh quan, nhằm mục đích tổ
chức xã hội, bình thiên hạ. Yếu tô" vũ trụ quan ít được quan
tâm. Chỉ từ khổng Tử, Kinh Dịch được hội nhập vào hệ thống
giáo lý này, Nho giáo mới trỏ lên đầy đủ hơn. Đương nhiên,
cũng như các hệ triết học khác, Nho giáo không phải lúc nào
cũng là chuẩn mực ổn định, mà luôn luôn được chỉnh lý và bổ
sung để thích hỢp với điều kiện xã hội mối. Vì th ế mà có Hán
Nho, Tông Nho ... Nhưng suy cho cùng Nho giáo vẫn phải dựa
trên nền tảng của Tứ Thư, Ngũ Kinh.
1.
Tứ Thư: bốn bộ sách Kinh điển là Đại Học, Trung Dung,
Luận Ngữ và M ạnh Tử .
Đ ại học: sách dạy đạo người quân tử, gồm hai phần : một
phần chép lời Khổng Tử, một phần chép lòi Tăng Tử. Nội
dung có thể tóm gọn là Tu thân (sửa mình), Tề gia (chỉnh đốn
việc nhà), Trị quốc (cai trị đất nưóc), Bình thiên hạ (giữ yên
xã hội). Đồng thòi người quân tử phải cách vật (thấu hiểu mọi
sự vạt), trí trí (biết tới ngọn ngành), thành ý (thành thực),
chính tam (lòng phải chính đính).
Trung Dung: phải ăn ở đúng mực, không thái quá, không
bất cập. Phải giữ được trí để biết rõ sự lý; nhân: để theo điều
123
thiện; düng: để kiên trì vượt khó mà hành thiện.
Luận Ngữ: ghi lòi răn dạy học trò của Khổng Tử bằng
những lòi đối thoại giữa Khổng Tử vói các triết gia chính trị gia
đương thòi. Sách này dạy đạo làm quân tử một cách thực tiễn.
M ạnh Tử: sách do Mạnh Tử soạn, kế thừa giáo huấn của
Khổng Tử coi vua chúa là thánh nhân thể theo ý tròi mà hành
đạo, nên mọi người phải nghe theo. Ý thức Mạnh Tử ít nhiều
có tính điều hoà: coi bản chất con người là tốt, kẻ cầm quyền
quý tộc phải biết tự chế để xã hội được ổn định. Mạnh Tử đưa
ra một sô' quan điểm tiến bộ; vói thuyết nhân chính (bót đánh
nhau, thôn tính, cải thiện đời sống nhân dân), thuyết dân vi
quý, quân vi khinh (trọng dân, nhẹ vua), ông nói: không có
quân tử, ai trị dân, không có tiểu nhân, ai nuôi quân tử
2.
Ngủ Kinh
- Kinh Thi: Gồm những bài ca dao dân gian và nhạc
chương nơi triều miếu, do Khổng Tử sưu tầm tuyển chọn.
- Kinh Thư: Do Khổng Tử sưu tập nội dung ghi về phép
tắc, mưu kế, lòi dạy dỗ, lòi truyền bảo, lòi răn tướng sĩ, mệnh
lệnh của các vua từ Nghiêu, Thuấn tói Đông Chu.
- K inh Dịch: Sách ghi chép vể sự hình thành ra VÜ trụ và
thế giới nhân sinh thông qua quy luật vận động thường hằng
của vũ trụ. Cũng bàn tối thuật tưống sô' dùng trong bói toán.
- Kinh Lễ: Ghi chép các lễ nghi từ trong gia đình tới ngoài
xã hội, triều đình.
- Kinh Xuân Thu: Thực chất là sử nưốc Lỗ, do khổng Tử
ghi chép công việc từ đòi Lỗ An Công tối Lỗ Ai Công (từ năm
722 tới 481 trước công nguyên). Từ nền tảng Tứ Thư Ngũ
Kinh các nhà Nho đem trí lực của mình ra giúp đòi trị nước.
Đạo trị quốic này cũng định hình trên nền tảng Tam Cương,
Ngũ Thường, Ngũ Luân, Tứ Đức ...
124
Đạo Nho đã một thòi dài là hệ tư tưởng chính thống của
Trung Quốc, nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nưóc xung
quanh, trong đó có Việt Nam. Ngày nay vai trò của nó đang
đưỢc nhiêu nhà nghiên cứu của nhiều nưốc quan tâm, vì tác
dụng của nó vẫn còn rõ nét trong thực tại ./.
57. Khổng Tử là ai ?
Ồng là ngưòi làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn
Đông (thuộc nước Lỗ) bên Trung Hoa, dòng dõi ngưòi nước
Tốhg. Ong tổ ba đòi sang nước Lỗ. Thân phụ là Thúc Lưdng
Ngột làm chức quan võ nhỏ, đã lấy hai vỢ, chỉ được một con
trai là Mạnh Bì, nhưng què. Gần già mối lấy bà Nhan Thị vào
tháng 10 năm Nhâm Tuất thứ 21 đời Linh Vương nhà Chu
(năm 551- TCN) sinh ra Khổng Tử. Đo Nhan Thị lên núi Ni
khâu cầu tự, nên ông có tên là Khâu, tự là Trọng Ni (cũng có
ý ông có trán cao gồ lên gọi là Khâu). Lên 3 tuổi, thân phụ
mất - Niên thiếu, Khổng Tử rất trọng những điều lễ nghĩa.
Năm 19 tuổi lập gia th ất rồi làm ư ỷ lại, coi gạt thóc kho, sau
làm Tư chức lại coi việc nuôi bò dê để cúng lễ. Ngài rất chú ý
tới lễ nghi theo Nho Thuật, sốm nổi tiếng. Khoảng năm 28-29
tuổi ngài muốh đến kinh sư nhà Chu để học, nhưng không có
kinh phí, sau được Lỗ Hầu giúp đỡ đưa đi. ó đây, Khổng Tử
khảo cứu Minh đưòng của nhà Chu, các nđi tế Xã Tắc và
những việc có quan hệ tối tế lễ ... một cách rấ t kỳ công. Trở về
Lỗ, học trò Khổng Tử ngày một đông, nhưng ông vẫn không
đưỢc vua Lỗ dùng. Gặp nạn, ngài sang Tề, bị quan đại phu
Yến Anh dèm, Tề hầu không dùng, ngài lại về Lỗ. Lúc đó 36
tuổi. Tới 51 tuổi được Lỗ hầu dùng làm quan, tiến tói Đại Tư
Khấu rồi Nhiếp Tướng Sự, nước ngày một thịnh. Sau bị Tề ly
gián, Khổng Tử bỏ quan đi chu du thiên hạ, mong đem thi
hành cái đạo của mình. Ngài qua Vệ, sang Tống, tối Tần, về
Vê ... nhưng đạo của ngài mãi không thành công. Đi, về với
nước Vệ nhiều lần, vua Vệ yẫn không dùng, mà tuổi ngày một
già. Ngài định sang Tấn rồi tới Trần, tối Thái, qua Diệp, đến
125
Sở... ở đâu cũng có duyên cớ để không dùng đạo của ngài, vì
đạo lý này phản đối quyền lợi của các vua, Chư hầu và quan
Đại phu. Chủ nghĩa của Khổng Tử cốt ỏ hành đạo, ai có tài trí
thì phải ra giúp đòi vì thế chí của ngài là lĩiuốh làm quan để
hành đạo, để giáo hoá và cải cách chính trị. Song sự nghiệp
không thành. 68 tuổi trở về Lỗ, đã già, ngài không cầu làm
quan nữa, ở nhà dạy học, san định sách vở đòi trước và làm
sách Xuân Thu để nói cái đạo về chính trị của mình.
Khổng Tử ngưòi cao, mắt lồi, lỗ mũi rộng, lộ hầu, tai bạt, hở
răng, mặt có vạch, tay hổ, ngực rùa, râu rậm, mồm rộng, miệng
nói tươi, đi nhanh. Tính ôn hoà, trung thực, nghiêm trang,
kính cẩn, khoan thai, cẩn thận (nhất là trong tế tự), nhân hậu,
thích đàn hát, rất hiếu học và hay suy xét việc đời xưa không
hề khinh su ất... Ngài là một người chí nhân thánh nhưng vẫn
khiêm tốh ... Ngài đem cái đức sáng mà giáo hoá chứ không
phải đem cái biết mà bảo cho người. Mùa xuân Canh Thân,
năm thứ 41 đòi vua Kinh Vương nhà Chu thì ngài mất.
Khổng Tử đã hệ thống hoá những tri thức và tư tưởng
trưốc ngài, chủ yếu nhằm các vấn đề đạo đức và chính trị, suy
xét lẽ biến hoá của tròi đất lập thành học thuyết là môn
“nhân sinh triết học” cho tròi đất và muôn vật đều đồng một
thể, theo cầi lẽ tương đối, tương điều hoà mà sinh sinh hoá
hoá. “Con ngưòi là cái đức của trời đất, sự giao hợp của âm
dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành”
(1). Nhờ đó mà con ngưòi hiểu điều phải trái, hay dở ... để cùng
tròi đất chiếm địa vỊ tôn quý ở vũ trụ (là Tam tài: Thiên, địa,
nhân). Như thế con người phải có tri giác, đề cao Thiên lý, lấy
Thần minh làm chủ tế, giữ cái tâm hư tĩnh tránh vẩn đục,
nhằm đạt được cái trực giác mẫn nhệu, biết rõ cái lẽ ở đời. Là
(1) Theo Trần Trọng Kim - Nho giáo - tr 36 - Bộ Giáo dục - Trung tâm
liệu học - Sài Gòn 1971
126
Trung dung, Sinh, Nhân, Thiên mệnh, Quỷ thần, kinh và
thánh, sự sinh tử ... Từ đó hiểu được đạo của ngài theo con
đưòng lớn mà đi. Đạo ấy gồm cái phải, cái hay, tổng hợp các
đức tính tôt mà đạo thành nhân cách hoàn toàn của con
ngưòi. ơ trong đạo ấy muôn vật điều hoà hoá dục, không hại
lẫn nhau, không trái nhau. Đức nhỏ thì phân minh, đức lốn
thì đôn hậu mà sinh hoá khôn cùng. Đạo của Khổng Tử chỉ
theo lẽ thường cô't xây cái lương tâm sáng suốt, chống cái tư
dục ám muội, việc làm là phải hỢp thời thuận lý, đó là thứ đạo
chiết chung, lấy nhân nghĩa, lễ, trí, hiếu đễ, trung tín làm đạo
thường, lấy Chí Thiện tức đức Nhân làm cực điểm ...
Nhìn chung, đạo của Khổng Tử rất thích hỢp với Trung
Hoa, nó tạo đưỢc th ế quân bình chi xã hội đất rộng, người
đông đã phân hoá cao. Đạo này được nhiều người tin theo, đã
sản sinh nhiều danh nho trong lịch sử, và hiện nay vẫn còn
tác động tới tâm tưỏng ngưòi Trung Quốic, cũng như ở một sô'
nước k ế cận chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa ./.
58. Mạnh Tử là ai?
Cuốỉ th ế kỷ IV trưóc kỷ nguyên tây lịch, một nhà đại hiền
triết đem Nho giáo san định lại cho đầy đủ hơn, đó là Mạnh
Kha, tự là Dư, người đất Châu, tỉnh Sơn Đông, thưòng gọi là
Mạnh Tử.
Mạnh Tử sinh vào ngày mồng 2 tháng tư năm thứ tư đời
Chu Liệt Vương (nám 372 trước công nguyên) và mất vào
ngày 15 tháng mười một, năm thứ 26 đòi vua Chu Noãn
Vương (289 trước công nguyên). Lên 3 tuổi, cha qua đời, người
mẹ dạy dỗ và cho theo học Tử Tư, hiểu được rõ đạo của Khổng
Tử. Sinh thời, ông rất có tài hùng biện, đã đi qua các nước Tề,
Lương Tông, Đằng mong đem cái đạo của thánh hiền ra cứu
đòi nhưng cũng như hoàn cảnh của Khổng Tử, ông không
đươc vua của các nưốc sử dụng, vì đương thòi sự cát cứ tranh
chap bằng chiến tranh đang khốc liệt, không vua nào nghĩ
127
đên việc nhân nghĩa. Tói lúc già, ý nguyện không thành công,
Mạnh Tử về nhà cùng các học trò thân cận ghi chép lại
những điều ông đối đáp vối vua các nước chư hầu, lòi đối đáp
cùng các môn đệ và những lòi ông phê bình sai lệch của các
học thuyết khác, làm thành bảy thiên sách Mạnh Tử để nói
nên cái đạo của mình, ông dựng nên hệ thông duy tâm của
nhà Nho. Coi “thánh nhân” thể theo ý tròi, sáng tạo ra lịch
sử, vì thê vua chúa thực hiện ý trời thì mọi người đều phải
theo. Nhưng ông cũng đưa ra nhiều quan điểm mang tính
khách quan tiến bộ như : Thuyết Nhân chính (chư hầu không
dùng vũ lực thôn tính nhau, giảm hình phạt tàn ác, cải thiện
đòi sống dân chúng...), ông đề cao việc “lấy dân làm gốc”
(thuyết Dân vi quí xã tắc thứ chi quân vi khinh ^ Dân là quí
thứ đến là xã tắc vua nên coi nhẹ), ông nói: không có quân tử,
ai tự tiểu nhân, nhưng không có tiểu nhân, ai nuôi quân tử.
Đạo của Mạnh Tử hội vào các mục sau: Tâm lý triết học,
chính trị triết học, Tài nghệ.
Trong đó ông chú trọng Tâm và Tính - Tính là cểii trời phú,
nên tính phải thiện, ở đây tính là phần thiên lý gồm đủ nhân
nghĩa lễ trí. ông phản đốỉ những luận điểm coi tính không
thiện ác, nó bị lệ thuộc vào con ngưòi, bắt thiện sẽ thiện, bắt
ác sẽ ác... Ông nêu lên nếu sinh hoạt ở đời là tính, thì túih con
chó con trâu con ngưòi đều như nhau hay sao? ông cho rằng:
nhân, nghĩa, lễ, trí vốn có sẵn trong ta, chỉ vì không nghĩ tối
mà thôi, cho nên, “tìm thì thấy, bỏ thì mất”, chớ để cái tâm của
ta bị ham đắm vào vật dục. Suy cho cùng học thuyết của Mạnh
Tử căn cứ ở tính thiện tròi phú để giáo dục con người tránh sự
mò tốì, thành ngưòi lành tốt. ông đề cao cái Tâm, coi Tâm là
Thần Minh (cùng trời đồng nhất thể) có đủ mọi lý để ứng vối
vạn sự, Tính là cái lý cùng cực của tâm, Tròi là gốc của Lý Người quan tử luôn phải giữ cái bản tâm hư linh của mình và
phải tiết dục (tâm là lương tâm - bậc đại nhân không bỏ mất
cái tâm hồn nhiên của con trẻ). Có Tâm Tính mới có Nhân
Nghĩa - Tính là phần tốì linh diệu tròi cho để hiểu biết đạo lý
128
• Tính phải có khí, rồi mối có hình thể... và sinh trưỏng. Khí
phai tuỳ theo cái chí - có chí và khí thì sinh hoạt mói điều hoà.
Mặt khác, theo ông, Quân Tử bao giò cũng phải lấy nhân,
nghĩa, lê, trí làm tông chỉ, lúc nào cũng ngay thẳng mà làm
điêu lành điều phải, không tư tâm tư lợi mà hại đạo lý, ngẩng
lên không xấu vói tròi, cúi xuống không thẹn vối người.
Về m ặt chính trị, học thuyết của Mạnh Tử cốt lấy sự hoà
bình và bảo tồn lấy dân, ông muốn đem cái đạo lớn của thánh
hiền mà khuyên răn ngưòi ta, lấy nhân nghĩa mà đối vối quốíc
gia để cứu muôn dân trong hoàn cảnh đưdng thòi vua chúa
tranh quyền tran h lợi, thiên hạ loạn lạc.
Với lòi biện luận mạnh mẽ, Mạnh Tử đã làm sáng rõ cái
đạo của thánh nhân, ô n g là ngưòi có công lớn với Nho giáo.
Bằng học rộng, lời văn đầy anh khí thiết tha, chặt chẽ rõ ràng
... Mạnh Tử là một nhà truyền đạo bậc nhất, có khí tượng
hùng kính, bộc trực làm rõ mốĩ đạo ./.
59. Văn Miếu là gì?
Văn Miếu là ndi thò Khổng Tử - tổ của đạo Nho.
Như th ế có nghĩa là, ở đâu thò Khổng Tử thì ỏ đó có Văn
Miếu, chẳng hạn như ở cố’ đô Huế và Kinh Bắc (Bắc Ninh)
cũng có Văn Miếu.
Văn Miếu ỏ Hà Nội được xây dựng từ năm Thần Vũ thứ
hai đòi Lý Thánh Tông (1070). Thoạt đầu Văn Miếu thò cả
Chu Công và Khổng Tử, bỏi cho cả hai đều là ông tổ của Nho
giáo. Có đắp tưỢng thò ông Chu, ông lũiổng và Tử Phối (Nhan
Tử Tăng Tử, M ạnh Tử, Tử Tư là bốn người có văn học và đạo
đức gần như Khổng Tử).
Sáu năm sau (1076), Lý Nhân Tông lập thêm Quốc Tử
Giám ồ bên cạnh Văn Miếu. Nơi đây, ban đầu là chỗ học tập
:ho các hoàng tử và con nhà quan, sau mở rộng thêm cho cả
học trò nhà bình dân. Như vậy, Văn Miếu - Quốc Tử Giám trở
129
thành trung tâm giáo dục của cả nưốc ta thòi đó, khác nào
một trường đại học của kinh đô.
Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch Bát Tràng.
Bên trong có những tưòng ngăn chia ra làm năm khu. Khu
thứ nhất bắt đầu với cổng chính, trên cổng có chữ Văn Miếu
môn. Lốỉ đi ỏ giữa dẫn đến cổng Đại Trung môn mở đầu cho
khu thứ hai. Hai bên còn hai cổng nhỏ có tên là Thành Đứt
và Đại Tài. vẫn lối đi ấy dẫn tối Khuê Văn Các (gác vẻ đẹp
của sao Khuê, sao chủ về văn học). Hai bên gác cũng có hai
cổng nhỏ mang tên là Súc Văn và B ỉ Văn (văn hàm súc và văn
sáng đẹp). IChu thứ ba từ gác Khuê Văn tới Đại Thành môn.
ỏ giũa khu này có một hồ vuông g ọi là Thiên Quang Tỉnh
(giếng tròi trong sáng), có tưòng hoa bao quanh. Hai bên hồ
là hai khu vườn bia. Đòi Lê Thánh Tông, có lệnh cho khắc tên
những ngưòi thi đỗ tiến sĩ lên bia đá. Năm 1484 là năm khắc
và dựng bia, nhưng Lê Thánh Tông đã cho khắc lại tên họ các
tiến sĩ từ khoa 1442 trỏ đi. Tính từ khoa này đến khoa cuối
cùng của triều Lê là khoa 1787 có cả thảy 117 khoa, nếu cả
khoa thi Đông các và Thế khoa thì có 124 khoa. Và như vậy
phải có 117 (hoặc 124) bia. Nhưng đến nay chỉ còn 82 bia. Có
lẽ, một số đã bị phá huỷ trong những thòi gian Tháng Long
có loạn lạc.
Văn Miếu ở Hà Nội trưốc kia thuộc địa bàn huyện Thọ
Xương tổng Hữu Nghiêm (Yên Hoà). Nay khuôn viên của nó
thuộc quận Đông Đa, là sự gặp nhau của bốn đưòng phố.
Chính diện là đường Quốc Tử Giám (thời Pháp thuộc là đưòng
Voie 238). Phía sau là đường Nguyễn Thái Học (thời Pháp là
phô' Đuy-vi-li-e, nhưng dân quen gọi là phố Hàng Đẫy, sau
cách mạng là phố Phan Huy Chú, nay là Nguyễn Thái Học).
Bên phải là phô Tôn Đức Thắng (trước là đưòng Hàng Bột).
Bên trái là phố Văn Miếu.
Ngày nay, khách du lịch trong cũng như ngoài nưỏc, khi
đén Hà Nội, thường hay đến thăm khu di tích văn hoá lịch sử
130
này. Nó trầm tư, thanh tao cùng thòi gian và hiện hữu minh
chứng cho một dân tộc đã có nền ván hiến từ lâu đòi./.
60. Thê' nào là “tam cương”, “ngũ thưòng”
- T am 'cương: là khái niệm đạo đức - xã hội của Nho giáo.
Nho giáo coi giữa ngưòi và ngưòi có năm quan hệ (ngũ luân):
vua - tôi, cha - con, anh - em, vỢ - chồng và bạn bè. v ề sau ba
quan hệ cơ bản được nhấn mạnh là “tam cương'’. Cương, là
dây lốn của chiêc lưới, cũng gọi là giếng lưới, hay giường lưới
nghĩa bóng chỉ những thứ quan trọng bậc nhất trong một cơ
cấu tổ chức . Tam Cương là ba quan hệ chủ chốt trong xã hội
theo quan điểm phong kiến là: vua tôi, cha con, vỢ chồng
(quân thần, phu tử, phu phụ), trong đó ngưòi trên (vua, cha,
chồng) phải thương yêu, chăm sóc và bao dung ngưồi dưới,
người dưới (tôi, con, vỢ) phải kính nhường, thương yêu, phục
tùng và biết ơn người trên. Cách ứng sử đúng chức năng như
vậy làm cho gia đình thuận hoà, êm ấm. Theo Nho giáo áp
dụng cách thức như vậy trong quan hệ xã hội và quan hệ Nhà
nưốc, giữa ngưòi cầm quyền vối dân cũng tạo ra một cảnh êm
ấm thuận hoà. Đó là cách lấy gia đình thuận hoà làm mẫu để
xây d\Ịng xã hội thái bình, hoà mục, trật tự và ổn định. Tuy
nhiên, trong ba quan hệ này, quan hệ vua tôi là quan trọng
và được đề cao nhất (vì “trung quân” có nghĩa là “ái quốc”).
Tam cương thể hiện trậ t tự trong xã hội, đi liền với “ngũ
thưòng” - 5 đức cơ bản của con ngưòi - gọi tắt là “cương
thường”, nền tảng chính trị, đạo đức của chế độ phong kiến.
- Ngũ thường: là khái niệm đạo đức Khổng học. “Thường”:
bình thưòng, vĩnh hằng. Ngũ thưòng chỉ năm đức cơ bản của
đạo làm ngưòi là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
- N h â n : Khổng Tử rất đề cao đức “nhân”, ông đã đưa nhân
lên thàiứi đức mục cao nhất, coi đó là đích của sự tu dưỡng.
Khổng Tử nói rất nhiều lần về đức nhân nhưng ông chưa đưa
ra một định nghĩa rõ ràng và cụ thể về đức mục trung tâm đó
131
của Nho giáo. Theo sách Luận ngữ, Khổng Tử nói: “nhân là
yêu ngưòi”. Và ở một chỗ khác nhân là trung thứ, là “cái mình
không muốn thì đừng làm cho kẻ khác ; cái mình mong thì
làm cho kẻ khác cỏ”. Lúc khác, Khổng Tử lại nói: “Ai làm được
5 điều này trong thiên hạ, ngưòi đó là nhân: cung, khoan, tín,
mẫn, huệ”. Cung là khiêm tốn, biết tôn trọng người và tôn
trọng công việc, không coi thường thành ra kiêu ngạo, thành
ra không chu đáo. Khoan là rộng rãi, không riết róng, thu
nhận của người đến kiệt. Tín là nói làm sao vậy, coi trọng lời
hứa. Mẫn là nhanh nhẹn, linh hoạt, không lề mề, trì độn, ỳ
ra. Huệ là rộng rãi, không bủn xỉn, keo kiệt, cho người không
tiếc rẻ, không bớt xén. Làm được 5 điều đó thì dân vui lòng
nghe theo, dân tin, dễ sai khiến ... Đó là đức mục của ngưòi
cầm quyền trong quan hệ vối dân. Nhân như vậy đòi hỏi phải
xuất phát từ lòng thương người, từ sự tôn trọng con người mà
làm việc có hiệu quả, có công ơn vối dân. Ngày nay, có thể
hiểu một cách khái quát nhân là lòng thương người.
- N ghĩa: đều được coi là hỢp lễ phải, làm khuôn phép cho
cách xử thê của con ngưòi trong xã hội. Những ngưòi có nghĩa
là những người có quan hệ tình cảm thuỷ chung, luôn hành
động phù hợp vối những quan niệm đạo đức nhất định.
- Lễ\ chữ lễ trước tiên chỉ dùng để nói cách thờ thần cho
được phúc, tức là chỉ có nghĩa cúng tế, thuộc về đường tôn
giáo mà thôi. Sau dùng rộng ra, để chỉ những qui củ trong xã
hội mà con người phải tuân theo để có được những tình cảm
đ ạ o đ ứ c tố t, p h ù hỢp với lẽ p h ả i t r á i tìn h t h â n sơ v à t r ậ t tự
trên dưới. Tóm lại, đó là những phép tắc phải theo cho điíng
khi tiếp xúc vối người khác, thường là ngưòi trên.
- Trí: là khả năng nhận thức, ghi nhớ, suy nghĩ, phán đoán
của con người.
- Tín: là đức tin của con người, biết trọng lòi hứa và biết
tin nhau.
132
Những qui định như đã nêu trên thuộc hệ tư tưởng chính
tn - đạo đức Nho giáo, đã được nhiều triều đại phong kiến
Trung Hoa - cũng như những nưóc chịu ảnh hưởng văn hoá
Trung Hoa - nối tiêp nhau tôn trọng và áp dụng, để duy trì sự
tồn tại, thịnh vượng của các thể chế đó. Ngày nay, Nho giáo
đang là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, bởi
người ta thấy rằng nó cũng có những giá trị nhất định đối vối
sự phát triển xã hội hiện tại ./.
61. Thê nào là “Tam tòng”, “tứ đức”
T am tòng (ba điều theo)
Đây là nguyên tắc của lễ giáo phong kiến, theo nguj^ên tắc
Nho giáo này thì người phụ nữ chỉ là người phụ thuộc trong
gia đình : “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng
tử ’, lúc là con gái ỏ nhà thì phải theo cha, lúc lấy chồng thì
phải theo chồng và khi chồng chết phải theo con trai chủ gia
đình. Ngưòi phụ nữ nào vi phạm phép tắc này thì bị xã hội
lên án, có khi phải chịu hình phạt nặng nề.
Tứ đức: Theo Khổng giáo, bốn đức mà người phụ nữ phải
có là : công, dung, ngôn, hạnh.
- Công: khéo léo, đảm đang trong việc gia chánh, nội trỢ.
- D ung: dáng điệu đoan trang, cách ăn mặc, trang điểm
chải chuốt, trang nhã, gọn gàng, sạch sẽ, nghiêm chỉnh, đi
đứng khoan thai, vẻ m ặt dịu dàng, tươi cưòi
- N gôn: lời ăn tiếng nói dịu dàng, mềm mỏng, biết thưa
gửi, ứng đôi lịch sự, khôn khéo.
- H ạ n h : nết na, hiền từ, trên kính dưối nhường, hiếu
thuận, ăn ỏ đúng mực, chiều chồng thương con.
Đối vối đàn ông, bốn đức tính đó là: hiếu, đễ, trung, tín.
- Hiếu: hiếu với cha mẹ.
- Đễ; hoà thuận, thương yêu anh em.
133
- Trung: trung vối vua.
- Tín: vối bạn bè, ngưòi ngoài phải giữ đúng lời hứa, có tín
nhiệm.
Trong thòi đại ngày nay, tuy phụ nữ đã có vai trò và vị trí
khác trước, cuộc sông của họ không chỉ bó hẹp trong gia đình
nữa mà họ còn tham gia các hoạt động xã hội, bình dẳng vói
người đàn ông. Nhưng bình đẳng không có nghĩa là đồng
đẳng, bởi vì ngưòi phụ nũ dù ở cương vị nào đi chăng nữa,
trưốc hết vẫn cần thực hiện tốt thiên chức của mình, do vậy
những nội dung đạo đức của Nho giáo nêu trên cần đưỢc coi
trọng và tiếp thu những yếu tô" phù hỢp với hoàn cảnh mối./.
62. Lão Tử là ai?
Là nhà triết học ở thòi cổ đại, Trung Quốc (thế kỷ VI - V
trưốc công nguyên) khoảng cùng thời với Thích ca Mâu Ni.
Ông người nưốc sở làm quan coi kho sách. Cho tói nay cũng
chưa ai định được tên thực của ông. Có tư liệu nói ông là Lão
Đam ở đòi Xuân Thu, tài liệu khác nói ông là Lý Nhĩ ỏ đòi
chiến quốc. Ong chỉ để lại cho đòi một cuốh Đạo Đức Kinh vối
khoảng 5000 từ, nhưng tối nay cũng không xác nhận được
chính ông viết hay học trò ông ghi lại, người ta cũng không
định đưỢc rõ ràng niên đại ra đời của sách: Thòi Chiến Quốc,
Xuân Thu, hay đòi Hán. Đòng thòi việc đánh giá về tư tưởng
của Lão Tử lại khá tản mạn. Vì thế, nhìn nhận về triết học
của Lão Tử chỉ tạm dừng lại ở mấy nét khái quát như:
- Nó chứa đựng nhân tố duy vật tự phát, biện chứng sơ
khỏi, hội tụ quan điểm duy vật vô thần nguyên thuỷ của
đương thòi ở Trung Quốc. Lão Tử coi đạo là càn nguyên của
vũ trụ, và cũng là qui luật của tự nhiên. Khỏi đầu của đạo là
khí (âm - dương). Hai khí âm dương ngưng tụ mà thành đất
trời ở hai cực của hỗn độn. Trời đất đối đãi giao hoà mà tạo ra
vạn vật muôn loài và con ngưòi. Mọi vật sinh hoá phát triển
trong Đạo theo một qui luật thống nhất giữa các mặt đối lập,
134
cái nọ dựa vào cái kia mà biểu hiện sự tồn tại (dài dựa vào
ngăn, cao dựa vào thấp, đẹp dựa vào xấu ,..và ngược lại) và
chuyên hoá để cái mới tiến bộ bao giò cũng thắng cái cũ . Đức
là khái niệm biểu hiện đặc thù của Đạo trong từng sự vật và
hiện tượng.
- Về những nhân tô" duy tâm: Lão Tử tuyệt đối hoá Đạo
đức, qui lu ật khách quan, đề ra thuyết vô vi (không làm theo
lẽ đòi mà làm theo lẽ trời...), chủ trương không phát triển
theo quy lu ật xã hội, mà muốh trỏ về vối lẽ tự nhiên của cuộc
sống nguyên sơ. ô n g coi tri thức, kinh nghiệm, thực tiễn, trí
tuệ và kỹ th u ật chỉ là nguồn gốc dẫn đến xa lìa bản nguyên
tốt lành, tức dẫn tới mầm môihg của tội ác - ô n g không chấp
nhận sự trị dòi của đạo Nho, bằng những văn hoá luân lý nảy
sinh từ tư duy phát triển của xã hội loài ngưòi - Một dòng
phái sau thòi Lão Tử đã chuyển hoá vô vi thành xuất thế, có
khuynh hưống tôn giáo, mang tính ma thuật, tu hành mong
thành tiên, luyện đan tìm cách trường sinh.
- Trong lịch sử, tuy chỉ với xấp xỉ 5000 từ trong Đạo Đức
Kinh, nhưng tư tưởng của Lão Tử thực mênh mông, chứa
đựng biết bao điều liên quan tới lẽ sốhg, mỗi ngưòi có thể tìm
được ở đó những điều cần thiết cho mình. Vì th ế hầu như
trong quá khứ, người ta chỉ thấy đưỢc tư tưởng của Lão Tử
qua một lớp sương mù. Có người nhìn nhận vê' tư tưởng Lão
Tử là yếm thế, ngược lại truyền thống. Như th ế chưa đúng
với cốt lõi của tư tưởng này. Có người nhận định ngược lại, cho
rằng dây là thứ trí tuệ viên dung, được nuôi dưõng trong sự
sinh hoạt của đạo thống Trung Quốc, những vấn đề nó động
chạm tói đều là những vấn đề thưòng hằng của loài người.
Đao của Lão Tử có thường có biến, rất thích dụng ở thòi
Chiến Quốc thòi bảy nước tranh hùng dụng tâm đấu trí.
Những người nổi lên trong việc đem tư tưỏng Lão Tử vận
dung vào quyền thuật giữa ^ ố i binh gia và tung hoành ¿ a
như: Ton Vũ, Ngô Khỏi, Tô Tần, Trương Nghi... “Đạo gia cơ
135